Lao Công
Lao Công Và Đời Sống
hải, nếu thành ngữ: “eternal rest”, nghỉ yên muôn đời, được
giành cho những con người vĩnh viễn ra khỏi trần gian thế nào,
th́ thành ngữ “đời là một cuộc chiến đấu” cũng áp dụng cho những
con người vào đời và c̣n sống trên trần gian này như vậy. “Đời
là một cuộc chiến đấu” chẳng những có thể được hiểu về những khó
khăn thử thách trên đời, mà, trước hết và trên hết, c̣n được
hiểu về t́nh trạng con người phải vất vả làm ăn sinh sống, nhiều
khi phải dùng đến từ ngữ “tranh sống” để mà survive, sống c̣n.
Thực tế cho thấy, ngay tại mảnh đất cơ hội opportunity land Mỹ
Quốc này, người ta tranh sống hơn bao giờ hết và hơn ở đâu hết.
Đến nỗi, hầu như người nào, dù giầu có đi nữa, cũng cảm thấy
cuộc đời của ḿnh thật là chật chội, lận đận long đong, chẳng có
giờ giấc ǵ để mà thụ hưởng những ǵ ḿnh làm ra cả. Nhiều khi
chưa kịp hưởng đă bị mất tiêu. Lúc nào con người cũng lo lắng
phải làm sao kiếm ra tiến và đủ tiền để trang trải cho các thứ
bills hàng tháng. Bill nhà ở, bill xe cộ, bill bảo hiểm, bill
điện thoại, bill điện nước, bill mua đồ, bill tín dụng v.v. Bởi
thế, đi làm công th́ hết làm ngày đến làm đêm, có giờ overtime
phụ trội là nhào vô liền, bao nhiêu cũng làm. Nếu làm chủ th́
không dám đóng cửa đi vacation nghỉ hè kẻo mất khách, mở cửa hầu
như suốt năm, 7 ngày một tuần, 12 tiếng một ngày v.v. Bởi v́,
mất việc là mất tất cả: mất nhà cửa, mất xe cộ, nhất là bị bad
credit thất tín dụng, thậm chí từ đó c̣n bị mất cả gia đ́nh nữa.
Thành ngữ “lao động là vinh quang” phát xuất từ Việt Nam ngay
sau năm 1975, thời được nhà văn kiêm nhạc sĩ Hà Thúc Sinh diễn
tả “chỉ c̣n hàm răng là sống hung hăng giữa mùa khát thèm” trong
bài “Chàng thi sĩ lính và hầm chứa xác” được danh ca Khánh Ly
tŕnh bày ở cuốn băng Tủi Nhục Ca, không ngờ lại đúng nhất và
hợp nhất ở cuộc sống tại thiên đường Mỹ Quốc này.
Tuy nhiên, không phải con người sống trong xă hội văn minh Mỹ
Quốc quay cuồng với việc làm chỉ v́ “lao động là vinh quang”,
thất nghiệp là đời tàn, mà c̣n v́ việc làm gắn liền với thân
phận làm người của họ. Đến nỗi, như chim bay thế nào, con người
sống trên đời cũng phải làm việc như vậy. Bằng không, con người
sống trên đời chẳng có ư nghĩa ǵ cả. Đó là lư do, con người cảm
thấy boring, buồn chán, khi không có việc ǵ làm. Người về hưu
cũng cố t́m được một mảnh vườn để ra vào làm việc cho khuây
khỏa. Giới trẻ trong năm học th́ chỉ mong cho đến ngày lễ để
nghỉ, nhưng hè đến th́ lại cảm thấy hết sức boring v.v. Thế
nhưng, cái boring của giới trẻ ở đây không phải là chúng muốn
kiếm việc ǵ làm, cho bằng muốn có những ǵ vui chơi, như đi cấm
trại, du ngoạn, hay ít là có bạn bè bên cạnh. Dù sao đi nữa, cái
boring nơi mọi giới tuổi, già cũng như trẻ, đều chứng tỏ cho
thấy con người một khi c̣n sống là c̣n cảm thấy cần phải không
ngừng sinh hoạt. Ăn uống và ngủ nghỉ chẳng những là những tác
động cần thiết để con người có thể lấy sức tiếp tục sinh hoạt
hơn, mà chính việc ăn uống và ngủ nghỉ cũng là những sinh hoạt
quan yếu của con người nữa.
Bởi thế, lao động có thể được hiểu theo ba ư nghĩa sau đây. Ư
nghĩa đầu tiên của lao động ở đây có thể được hiểu rộng là tất
cả mọi sinh hoạt của con người sống trên đời. Ư nghĩa thứ hai
của lao động ở đây có thể hiểu hẹp hơn trong giới hạn liên quan
đến tất cả những việc làm ăn sinh sống theo nghề nghiệp khiến
con người phải lao nhọc, kể cả việc con người phải lao tâm về
trí óc lẫn lao lực về tay chân. Và ư nghĩa thứ ba của lao động ở
đây được áp dụng cách riêng cho những việc làm về thể lực của
con người, những việc làm cho con người phải đổ mồ hôi, điển
h́nh là việc làm ruộng ngoài đồng, làm việc sản xuất trong các
hăng xưởng kỹ nghệ, làm việc chuyên chở nhân sự và hàng hóa v.v.
Phải chăng v́ ư nghĩa lao nhọc của nghề nghiệp cũng như lao động
của việc làm về thể lực mà tại Hoa Kỳ người ta lập ra Ngày Lao
Động, Labor Day, và cử hành Labor Day này như là một Ngày Lễ,
bằng cách cho phép nhân viên làm việc, nhất là ở các công sở,
đều được nghỉ việc vào chính Ngày Lễ Lao Động, Labor Day này?
Lao Công Và Phát Triển
Không hoàn toàn như vậy. Thành phần đi làm được nghỉ việc trong
Ngày Lễ Lao Động Labor Day không phải chỉ để xả hơi cho đỡ mệt
rồi sau đó tiếp tục lao đầu vào làm việc, lao đầu vào việc đi
cầy trả nợ v.v. Trái lại, người ta nghỉ việc trong ngày này là
để cử hành nó, đúng hơn là để cử hành ư nghĩa của Lao Động, một
ư nghĩa hết sức cao quí và đầy giá trị, đáng con người phải
ngừng tay làm việc một ngày để nghĩ lại, để lấy lại tinh thần
làm việc, nhờ đó họ có thể làm việc một cách xứng đáng hơn và
hiệu quả hơn, chẳng những cho chính bản thân họ, mà c̣n cho gia
đ́nh họ cũng như cho chung nhân quần xă hội nữa. Thế th́ ư nghĩa
đích thực của Lao Động, hay bản chất của Lao Động, hoặc giá trị
của Lao Động đây là ǵ? Nếu không phải Lao Động là yếu tố bất
khả thiếu để giúp cho cá nhân, gia đ́nh và xă hội loài người
phát triển một cách trọn vẹn.
Đúng thế, Lao Động sẽ chẳng có ư nghĩa và giá trị ǵ, đến nỗi sẽ
mất hẳn bản chất của nó, nếu nó không đi liền với Phát Triển và
không nhắm đến mục tiêu Phát Triển. Phải nhận thực là cốt lơi
của Lao Động là Phát Triển, nếu Lao Động không Phát Triển tức là
đi ngược chiều, là đi lạc hướng, thậm chí có thể đi đến bờ vực
thẳm, đi đến hố diệt vong. Thế nhưng, Lao Động và Phát Triển chỉ
là những giá trị khách quan, chúng không thể đồng hành và đồng
qui, trái lại, chúng c̣n có thể tương khắc và tương tàn với
nhau, hoàn toàn tùy thuộc vào yếu tố Nhân Bản, tức tùy theo con
người tác nhân Lao Động. Nếu con người làm việc Lao Động biết
đoàn kết tương thân tương ái, biết dấn thân phục vụ, coi công
ích hơn tư lợi v.v. th́ họ mới thực sự là con người xây dựng xă
hội loài người, mới làm cho bản thân họ, gia đ́nh họ cùng với
toàn thể nhân gian được Phát Triển. Bởi thế, nếu nói đến Công
Việc Lao Động là nói đến Phát Triển, th́ nói đến Phát Triển
không thể nào không nói đến Tinh Thần Lao Động, tức, như vừa đề
cập, nói đến Tinh Thần Đoàn Kết Tương Trợ cũng như Tinh Thần Dấn
Thân Phục Vụ.
Đoàn Kết Tương Trợ trong Công Việc Lao Động nghĩa là làm việc ǵ
th́ làm, dù làm chính khách hay nông dân, dù làm việc để kiếm
chác sinh nhai hay làm việc thiện nguyện volunteer đi nữa, con
người cũng phải làm “chung” với mọi người và làm “cho” mọi
người. Làm “chung” với mọi người là ở chỗ, ai làm việc nấy, theo
trách nhiệm và khả năng của ḿnh, như trong một thân thể, đầu
làm việc của đầu, tay làm việc của tay, mắt làm việc của mắt,
nhờ đó, những phần thể này làm cho toàn thân sinh động và phát
triển thế nào, th́ mỗi phần tử trong cơ cấu xă hội cũng cần phải
cố gắng chu toàn trách nhiệm và khả năng của ḿnh, theo lương
tâm và qui định. C̣n làm “cho” mọi người là ở chỗ, khi làm việc
con người lao Động chỉ nhắm đến công ích, đến thiện ích chung
của mọi người, hơn là tư lợi cá nhân hay thủ lợi cho phái nhóm.
Nh́n vào xă hội loài người khắp thế giới hiện nay, thực tế cho
thấy con người đang nỗ lực làm việc “chung” với nhau để canh tân
bộ mặt trái đất, làm cho bộ mặt trái đất rạng ngời ánh sáng văn
minh vật chất về khoa học và kỹ thuật tân kỳ của họ hiện nay.
Tuy nhiên, về phương diện văn minh nhân bản th́ h́nh như con
người ngày nay đang ở trong t́nh trạng thực hiện những việc làm
“công” kích nhau, phản diệt nhau, chứ không phải “cho” nhau.
Chẳng hạn, thế giới tư bản tự do hoàn toàn tương phản và tương
khắc với thế giới cộng sản chuyên chế. Chẳng hạn, các nước tân
tiến, thường ở bắc phương, càng bành trướng quyền lực chính trị
và thị trường kinh tế th́ các nước chậm tiến hay đang tiến,
thường ở phía nam, đă nghèo lại càng nghèo thêm, với chồng chất
những món nợ quốc tế kếch xù không thể trả. Chẳng hạn, phong
trào pḥ quyền sự sống pro life hoàn toàn chống chọi với phong
trào pḥ quyền tự quyết pro choice. Chẳng hạn, những cuộc tấn
công khủng bố trả đũa những cuộc khủng bố tấn công, điển h́nh là
tại Trung Đông giữa khối Palestine với những cuộc khủng bố tấn
công và khối Do Thái với những cuộc tấn công khủng bố, hầu như
không thể chấm dứt, nhất là từ năm 2000 đến nay, cũng như tại
Hoa Kỳ vào ngày 11/9/2001, ngày khủng bố tấn công Hoa Kỳ, và
ngày 7/10/2001, ngày Hoa Kỳ tấn công khủng bố. Ngoài ra, Lao
Động c̣n bị ḷng tham của con người bóp méo. Ở chỗ, Lao Động vô
sản hay Lao Động trả nợ như trong thế giới Cộng Sản. Hay trong
thế giới tư bản có kiểu Lao Động rẻ tiền, làm nhiều lương ít,
như thân phận của những người Mễ khốn khổ trong nước Mỹ, hoặc
kiểu Lao Động ép uổng, theo luật chỉ buộc làm 40 tiếng một tuần,
nhưng nếu không làm giờ phụ trội khi cần cũng có thể bị sa thải
v́ những cớ chụp mũ khác.
Chính v́ Lao Động đi ngược chiều với Phát Triển như thế, thực tế
cho thấy xă hội văn minh vật chất hiện nay của con người chẳng
những đă đi đến bờ vực thẳm mà c̣n đang lao xuống hố diệt vong
nữa, v́ nền tảng của xă hội là gia đ́nh đang bị tan rữa bởi nạn
ly dị và phá thai, nạn đồng tính hôn nhân và tạo sinh ngoại
nhiên. Đó cũng là chứng cớ hiển nhiên và hùng hồn nhất cho thấy
Lao Động và Phát Triển hết sức liên hệ chặt chẽ với nhau, chặt
chẽ ở Tinh Thần Lao Động nơi tác nhân con người, một Tinh Thần
Đoàn Kết Tương Trợ, làm việc Lao Động “chung” với mọi người, và
Tinh Thần Dấn Thân Phục Vụ, làm việc Lao Động “cho” mọi người.
Không biết có phải v́ cố ư hay ngẫu nhiên mà Cuộc Họp Thượng
Đỉnh Về Việc Phát Triển Khả Thủ, The World Summit for
Sustainable Development, đă được tổ chức vào những ngày trước và
sau dịp Lễ Lao Động Hoa Kỳ, 2/9/2002.
Lao Công và Quốc Tế
Thật vậy, Cuộc Họp Thượng Đỉnh về Việc Phát Triển Khả Thủ lần
này tại Johannesburg ở Nam Phi trong thời gian từ ngày 26/8 đến
4/9/2002 là cuộc họp thập niên sau cuộc họp ở Rio de Janeiro
trước đây. Để sửa soạn cho cuộc họp lần này, đă có một cuộc họp
dự thảo tại Bali Nam Dương vào những ngày 27/5-7/6/2002. Trong
cuộc họp dự thảo này, Quốc Đô Vatican, Vatican City State, đă
phổ biến một văn kiện khai triển chủ đề phát triển. Vậy, nhân
dịp Lễ Lao Động Hoa Kỳ, chúng ta cũng nên ôn lại bản văn kiện
này, bản văn kiện rất hợp với Tinh Thần Lao Động chúng ta vừa
mới đề cập đến trên đây, đó là một Tinh Thần Đoàn Kết Tương Trợ,
làm việc Lao Động “chung” với mọi người, và Tinh Thần Dấn Thân
Phục Vụ, làm việc Lao Động “cho” mọi người.
Trước hết, về Tinh Thần Đoàn Kết Tương Trợ, làm việc Lao Động
“chung” với mọi người, bản văn kiện đă đề cập đến vấn đề môi
sinh, vấn đề toàn cầu hóa và vấn đề hợp tác quốc tế.
Về vấn đề môi sinh, theo bản văn kiện này, việc phát triển trước
hết liên quan đến vấn đề môi sinh, một dấu hiệu cho thấy “t́nh
đoàn kết nhân loại”, một dấu hiệu “hiển nhiên bao gồm
việc bảo tŕ và chăm bón cho các nguồn lợi của trái đất”.
Về vấn đề phát triển liên quan đến tiến tŕnh toàn cầu hóa, văn
kiện của Quốc Đô Vatican cho biết là: “nó chẳng tốt cũng
không xấu. Nó sẽ là những ǵ con người làm nên nó. Không có một
hệ thống nào tự ḿnh là cùng đích cả, và cần phải nhấn mạnh là
vấn đề toàn cầu hóa, như bất cứ một hệ thống nào khác, phải phục
dịch con người; nó phải phục vụ t́nh đoàn kết và công ích”.
Để cụ thể hóa vấn đề phát triển liên quan đến tiến tŕnh toàn
cấu hóa này, bản văn kiện của Quốc Đô Vatican nhấn mạnh đến việc
“hết sức cần thiết phải nhổ tận gốc t́nh trạng nghèo khổ”. Để
đạt được mục đích này, cần phải có “sự tham dự chủ động của
người nghèo”. Bản văn nhận định là: “Có quá nhiều những
đề án đang được bàn thảo nh́n thành phần nghèo như là một cái
nạn chứ không phải như là những diễn viên sản xuất và sáng tạo
trong xă hội”. Theo nhận định này, Quốc Đô Vatican kêu gọi “việc
cung cấp những cơ hội làm việc, giáo dục, chăm sóc sức khỏe căn
bản và nơi ăn chốn ở đầy đủ. Phải xét lại và cổ động những kiểu
cách tiêu thụ và sản xuất mới hợp với những nguyên tắc về phẩm
giá và t́nh đoàn kết của con người. V́ hơn một nửa dân số thế
giới vẫn c̣n sống ở những miền quê và v́ thành phần nghèo nàn
quê mùa thiếu cơ hội được hưởng các dịch vụ xă hội tối thiểu
nhất, họ cần phải được chú trọng và cứu xét hơn nữa… cần phải
bảo đảm mọi người có được nước dùng trong lành”.
Tiến tŕnh toàn cầu hóa trong việc phát triển c̣n là vấn đề liên
quan đến mối liên hệ giữa các quốc gia nữa. Bởi thế, bản văn của
Quốc Đô Vatican đă đề cập đến khía cạnh là “t́nh liên kết có
một tính chất linh thiêng cần phải đâm rễ sâu xa hơn trong việc
chúng ta tiến đến chỗ giải quyết những vấn đề quốc tế”. Thế
nên, bản văn kiện này đă đề nghị nên có một “chính quyền quốc
tế” dựa trên nguyên lư phụ thuộc, một nguyên lư mà theo đó,
nếu nước nào “không có khả năng đáp ứng những nhu cầu phát
triển của ḿnh, th́ những nước khác buộc phải hỗ trợ nước ấy”.
Sau nữa, về Tinh Thần Dấn Thân Phục Vụ, làm việc Lao Động “cho”
mọi người, bản văn kiện đề cập đến những vấn đề môi sinh, luân
lư, nhân phẩm, nhất là tặng ân hy hiến bản thân ḿnh.
Theo bản văn kiện th́ việc phát triển của con người muốn thành
đạt và tồn tại cần phải đặt trên: “những giá trị luân thường
đạo lư vững chắc, hay không thể nào thiếu được sự hướng dẫn cùng
với những nền tảng cần thiết nhờ đó việc phát triển được theo
đuổi này mới có thể thành đạt và tồn tại”. Bản văn kiện đă
định nghĩa ư niệm phát triển khả thủ như sau: “Nói đến ư niệm
về việc phát triển khả thủ là nói đến tiến tŕnh đáp ứng những
nhu cầu của con người hiện đại liên quan đến khả năng của các
thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các nhu cầu của họ. Ư niệm
này phải được hiểu theo quan điểm của việc phát triển toàn diện
con người”. Bản văn kiện đă lập lại chiều hướng duy nhất cho
việc phát triển đích thực của con người từ cuộc họp thượng đỉnh
10 năm trước như sau: “Nguyên lư tiên quyết của Bản Tuyên
Ngôn Rio ở chỗ: ‘Con người là trung tâm của những mối quan tâm
về việc phát triển khả thủ’”. Đó là lư do tại sao Quốc Đô
Vatican đă kêu gọi Cuộc Họp Thượng Đỉnh ở Johannesburg lần này
hăy chấp nhận từ ngữ “vấn đề môi sinh nhân bản”, human
ecology. Bản văn kiện của Quốc Đô Vatican đă giải thích thêm về
vấn đề môi sinh nhân bản như sau: “Khái niệm trọn vẹn về vấn
đề môi sinh nhân bản… chính yếu là ở việc bảo toàn và canh chừng
những điều kiện về luân lư nơi tác hành của con người ở môi sinh.
Cũng cần phải lưu ư là cái cấu trúc đầu tiên và cốt yếu của vấn
đề môi sinh nhân bản đó là gia đ́nh, nơi con người nhận được
những ư tưởng giáo dục đầu tiên về sự thật và sự thiện, và biết
được thế nào là yêu thương hay được thương yêu, nhờ đó biết được
cả sự thực về con người là ǵ”.
Bản văn kiện của Quốc Đô Vatican đă kết thúc bằng một yếu tố
quyết liệt cho việc phát triển đó là việc con người hiến thân
với một phẩm vị “được xây trên tính cách chuyên nhất của con
người khác biệt với tất cả mọi tạo vật; tức là tính cách được
dựng nên theo h́nh ảnh và tương tự như Thiên Chúa. Việc tương tự
này chứng tỏ là con người, tạo vật duy nhất trên mặt đất được
Thiên Chúa cho quyền sống v́ ḿnh, không thể hoàn toàn t́m thấy
bản thân ḿnh ngoại trừ thành thật trao tặng bản thân ḿnh. Việc
trao tặng bản thân ḿnh là bảo đảm trên hết cho phúc hạnh của
những người khác cũng như cho các thế hệ tương lai”.