|
BẢY NGUYÊN-TẮC CỦA
HỌC THUYẾT XĂ HỘI CÔNG GIÁO
“Hiện nay đức
tin, đức cậy đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức
mến.” (1Cor 13:13). Ba NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN TIN - CẬY - MẾN là xuất phát
điểm và điểm quy hướng mọi cuộc sống Kitô hữu. Với BỘ TAM TÔNG THƯ của
Người, -
DEUS CARITAS EST (12.2005); SPE SALVE (11.2007) và CARITAS IN VERITATE
(7.2009), nhất là Tông Thư gần đây nhất nầy, Đức Thánh Cha Biển-Đức
XVI đă vạch ra những ǵ con người thiếu và cần, cũng chính là những
nguyên nhân khiến con người bị tha hoá và xă hội đầy tràn bất công, bạo
lực, sa đoạ .BẢY NGUYÊN TẮC của Học Thuyết Xă Hội Công Giáo luôn bắt
nguồn, triển khai, phân tích, xoay quanh trục ba nhân đức đồi thần và
quy về ba nhân đức ấy.
Chúa Giêsu đă cứu
người phụ nữ ngoại t́nh khỏi bị ném đá, đă ngồi ăn uống với những người
thu thuế và gái điếm, đă nói chưyện với người đàn bà Samaria tại giếng
nước và đă chữa lành những người bệnh tật và những kẻ tội lỗi. Người hứa
ra h́nh phạt nghiêm khắc nhất cho những ai ơ hờ với số phận của người
nghèo.
“Hăy xéo khỏi Ta, các
ngươi, những kẻ bị chúc dữ, mà vào lửa đời đời đă dọn sẵn cho ma qủy và
những kẻ theo chúng, v́ xưa Ta đói, các người đă không cho Ta ăn; Ta
khát, các ngươi đă không cho Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi đă không
tiếp đón Ta; Ta ḿnh trần, các ngươi không cho Ta mặc; Ta đau ốm và bị
tù đày, các ngươi không hề chăm nom viếng thăm”. Bấy giờ họ sẽ thưa lại
và nói :” Lạy Chúa, có khi nào chúng con đă thấy Chúa đói khát, khách lạ,
trần truồng hoặc ốm đau, tù đày, mà chúng con lại không chăm sóc chu đáo
chứ?”. Người sẽ trả lời với chúng :”Quả thật, ta bảo các ngươi, những ǵ
các ngươi đă không làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất, tức là các
ngươi đă không làm cho Ta”. Và những kẻ nầy sẽ chịu h́nh phạt đời đời,
c̣n những người công chính ngay lành sẽ được hưởng sự sống đời đời. (Mt
25, 41 – 45)
Kitô hữu qua các thời
kỳ đă cố gắng noi gương và làm theo Lời Chúa Giêsu, để tâm suy nghĩ và
thực hành những lời đó trong những môi trường xă hội khác hẳn với
Palestine ngày xưa. Học thuyết xă hội Công giáo là một con đẻ của nỗ lực
đó. Một số những giáo huấn của Giáo Hội Công giáo rất rơ ràng và tương
đối dễ diễn tả vận dụng. Chúng ta tin vào Thiên Chúa.Chúng ta tin vào
Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật và là người thật. Chúng ta tin vào bảy Bí
tích và sự bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng. Đàng khác, giáo huấn xă hội
Công giáo rất khó tóm tắt được gọn gàng như thế.
Những tín hữu Công
giáo thiện chí sẽ không đồng ư về ư nghĩa của giáo huấn xă hội Công giáo
và nhất là về cách thức áp dụng nó trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó.
Hơn nữa, có một sự triển khai học thuyết về những vấn đề xă hội,như
người ta nh́n thấy trong các tông thư của nhiều vị Giáo Tông khác nhau,
từ Đức Giáo Hoàng Lêô XIII với hiến chương tư duy xă hội Công giáo,
RERUM NOVARUM (Tân Sự), qua Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII với tông
thư PACEM IN TERRIS (Hoà B́nh nơi Trần Thế) và Đức Giáo Hoàng
Gioan-Phaolô II với tông thư CENTESIMUS ANNUS (Năm Thứ Một Trăm), cho
đến phần thứ hai của Đức Giáo Hoàng Biển-Đức XVI với DEUS CARITAS EST (Thiên
Chúa là t́nh yêu). Giáo huấn xă hội Công giáo th́ phức tạp, được nối
liền với sự tiến hoá của các điều kiện xă hội và đà sâu sự hiểu biết cả
về công tŕnh của thiên Chúa trong lịch sử lẫn những nguyên tắc đạo đức
học. Tuy vậy, sự phức tạp nầy có thể tóm tắt lại trong bảy nguyên tắc
chủ chốt của giáo huấn xă hội Công giáo. [bài nầy viết 19.01.2009,
chưa có TT Caritas in Veritate]
I. TÔN TRỌNG CON NGƯỜI
Nền tảng tư duy xă
hội Công giáo là sự hiểu biết thích đáng về giá trị của con người. Theo
từ ngữ của Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II, nền tảng học thuyết xă hội
Công giáo “là một cái nh́n đúng đắn về con người và về giá trị độc nhất
của con người, bởi v́ là ‘con người….là tạo vật duy nhất trên trần gian
mà Thiên Chúa muốn v́ chính nó’. Thiên Chúa đă in h́nh ảnh Người và sự
giống như Người lên con người ( x. St 1,26), ban cho con người một phẩm
già vô song” (C.Annus,11). Trong một ư nghĩa nào đó, tất cả những giáo
huấn xă hội Công giáo làm cho những hàm ư đạo đức của một sự hiểu biết
thích đáng về phẩm giá con người ăn khớp với nhau.
Khái niệm “nhân quyền”
đă được các Giáo Hoàng chọn để truyền đạt rằng mỗi người và mọi người,
với tư cách là con cái Chúa, có những sự miễn nhiễm khỏi sự dữ do tha
nhân gây ra và đáng hưởng những loại đối xử nhất định. Đặc biệt, Giáo
Hội đă mạnh mẽ trong việc bênh vực quyền được sống của mọi sinh linh vô
tội, từ khi được thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Sự chống lại nạo
phá thai và an tử h́nh thành nền tảng cần thiết cho sự tôn trọng phẩm
giá con người trong các lănh vực khác như là giáo dục, đói nghèo và di
dân.
Căn cứ trên quyền căn
bản được sống nầy, các sinh linh cũng được hưởng những quyền khác.
Trong việc ấy, Giáo Hội hoà cùng những tiếng khác trong việc công bố
phẩm giá con người và những quyền căn bản của con người. Tuy nhiên, sự
đồng thuận bên ngoài nầy lại che dấu những bất đồng rất nghiêm trọng về
bản chất và tầm mức những quyến nầy. Một trong những khía cạnh bị tranh
căi nhất trong những lănh vực nầy trong nền văn hoá hiện tại, đó là sự
hiểu biết về gia đ́nh.
II. CỔ VŨ GIA Đ̀NH
Con người không chỉ
đơn thuần là một cá thể, mà c̣n là một thành viên của một cộng đoàn.
Không thừa nhận khía cạnh cộng đoàn nầy sẽ dẫn tới một chủ nghĩa cá nhân
cực đoan. Một sự hiểu biết đầy đủ về con người phải xem xét đến những
khía cạnh xă hội cá nhân nầy. Cái cần xem xét đầu tiên về vấn đề xă hội,
theo thứ tự và tầm quan trọng, là Gia Đ́nh. Đó là đơn vị căn bản của xă
hội. Nó có trước và trong một ư nghĩa nào đó, vượt trên tất cả mọi đoàn
hội khác trong ḷng một cộng đồng. Học thuyết xă hội Công giáo nhấn mạnh
tầm quan trọng của Gia Đ́nh, nhất là tầm quan trọng trong việc cổ vũ
những hôn nhân bền vững, nơi con cái được đón nhận và dạy dỗ.
Mạng lưới xă hội rộng
lớn hơn nầy đóng một vai tṛ quan trọng trong việc cổ vũ gia đ́nh. Đặc
biệt, Giáo Hội đă nói về một “tiền công gia đ́nh” qua đó người gánh vác
gia đ́nh có thể chu cáp thoả đáng người phối ngẫu và con cái ḿnh. Những
điều kiện xă hội hoặc góp phần vào ổn định hoặc làm cho gia đ́nh bất ổn.
Những điều kiện gây bất ổn gồm những giờ làm việc bắt buộc kéo dài một
cách bất hợp lư, một “nền văn hoá xă hội” độc hại bôi nhọ sự chung thủy,
việc hủy bỏ theo luật pháp định nghĩa của hôn nhân giữa một người nam và
một người nữ và một hệ thống thuế quá đáng.
III. BẢO VỆ QUYỀN TƯ
HỮU
Giáo huấn xă hội Công
giáo từ RERUM NOVARUM (1891) của Đức Lệô XIII,qua đến CENTESIMUS ANNUS
(1991) của Đức Gioan-Phaolô II đă bênh vực quyền tư hữu chống lại khẳng
định theo đó nhà nước nên sở hữu tất cả mọi sự. Trước đó rất lâu, Thánh
Tôma Akinô - mà những ǵ Ngài viết đều có tầm quan trọng lớn lao trong
việc hiểu biết các nền tảng của học thuyết xă hội Công giáo,- đă đưa ra
ba lư do v́ sao tài sản tư hữu lại cần thiết cho sự triển nở của con
người:
-
một
là, v́ mọi
người thường thận trọng hơn trong việc cung cấp cho ḿnh những ǵ để cho
riêng ḿnh, hơn là những ǵ chung cho nhiều người hoặc chung cho hết mọi
người, bởi v́ ai cũng muốn tránh né công việc nặng nhọc và để cho người
khác những ǵ liên quan đến cộng đồng, như xảy ra ở nơi có đông các
người giúp việc.
-
Hai
là, bởi v́
những công việc của con người sẽ được quản lư một cách trật tự hơn, nếu
mỗi người được giao phụ trách một điều nào đó đặc biệt, trong khi sẽ
lộn xộn nếu mọi người cùng lo một việc không được xác định rơ ràng.
-
Ba
là, bởi v́
sẽ bảo đảm t́nh trạng hài hoà hơn cho con người, nếu như mỗi người hài
ḷng với công việc của riêng ḿnh. V́ thế phải để ư là những tranh căi
thường xảy ra hơn ở nơi nào không có sự phân chia những điều có được
(Summa Theologiae, II – II, 66,2)
Thêm vào các lư do
nầy, tài sản tư hữu cũng góp phần vào việc bảo đảm tự do của con người.
Khả năng hành động tự do của một con người bị đe doạ lớn lao, nếu người
đó không được phép sở hữu một điều ǵ. Quả thật, không được sở hữu bất
cứ loại nào, th́ một con người có thể bị biến thành một loại chế độ nô
lệ, trong đó lao động không được thưởng công và nói chống lại việc nhà
nước thực thi quyền bính sẽ chịu nguy hiểm lớn lao.
Tuy vậy, quyền tư hữu
không phải là không có điều kiện. Một người nào đó lại có thể lấy đi một
cách hợp pháp những ǵ là tài sản người khác dùng để tồn tại sao? Câu
hỏi nầy đă được đặt ra một cách xúc động trong [cuốn tiểu thuyết]
Những Kẻ Khốn Cùng [của Victor hugo.BTGH]. Có phải Jean Valjean,
người đă ăn trộm bánh ḿ để nuôi sống gia đ́nh đang chết đói của ông,
đáng bị trừng phạt chăng? Câu trả lời của Thánh Tôma là không. Trong
trường hợp không có cách nào khác để bảo đảm những nhu cầu chính yếu cho
sự tồn tại của con người, th́ việc lấy những thứ đó từ những người đang
có dồi dào sẽ không có lỗi, bởi v́ những nhu cầu căn bản ấy thuộc về họ
với tư cách là những con người, một cách hợp pháp .
Để cho chắc hắn,
Thánh Tôma nói về trường hợp “nhu cầu thiết yếu” – không phải trường hợp
‘muốn”. Vấn đề ở đây là những t́nh huống có nạn đói hoặc thảm hoạ, lúc
mà sự sống con người gặp hiểm nguy, nếu thiếu những nhu cầu căn bản như
lương thực, nhà ở, y phục. Những nhu cầu cấp thiết nầy không bao gồm các
DVD, CD hoặc TV, bất kể ḷng tham muốn lớn đến đâu. Ngoài ra, không ai
được lấy những nhu cầu thiết yếu nếu chúng có thể được cung cấp qua
chính công việc lao động của chính ḿnh hoặc qua sự trợ giúp tự nguyện
của những người khác, dù đó là các cơ quan từ thiện của chính phủ hoặc
của tư nhân.
Học thuyết xă hội
Công giáo cũng lưu ư rằng tài sản tư hữu có thể trở thành một thứ thần
tượng, dẫn con người đến chỗ đánh giá mục đích và ư nghĩa cuộc sống con
người đơn thuần bằng tiền bạc vất chất. Quyền tư hữu cũng mang theo nó
những trách nhiệm, nhất là trách nhiệm chăm nom và cổ vũ công ích.
.
IV. LAO ĐỘNG V̀ CÔNG ÍCH
Đức giáo hoàng Gioan
XXIII đă định nghĩa công ích như là “tổng thể những điều kiện xă hội cho
phép cả những nhóm lẫn các cá thể, đạt tới sự thành toàn trọn vẹn hơn và
dễ dàng hơn” (Pacem in Terris,55). Thiện ích nầy là chung
bởi v́ với tư cách là cộng đồng, chứ không đơn thuần như là những cá thể
biệt lập, mà người ta có thể được hưởng, thực hiện và phổ biến rộng ra
thiện ích nầy. Tất cả mọi người đều buộc phải làm việc để làm cho công
ích nầy ngày càng trở nên một thực tế lớn hơn và lớn hơn măi.
Thỉnh thoảng công ích
bị hiểu sai là chỉ muốn nói về những ước ao hoặc những lợi ich của đám
đông. Nhưng công ích, như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II lưu ư, ”không
chỉ đơn thuần là tổng số những ích lợi riêng biệt, nhưng đúng ra nó bao
hàm một sự đánh giá và mở rộng những lợi ích nầy trên cở sở một hệ thống
cấp bậc quân b́nh các giá trị; cuối cùng, nó đ̣i hỏi một sự hiểu biết
thấu đáo nhân phẩm và nhân quyền” (Centesimus Annus,47). Công ích,
nói cách khác, không đơn thuần là những ǵ người ta muốn xảy ra, nhưng
là những ǵ sẽ có thể thật sự tốt đẹp cho con người, những điều kiện xă
hội giúp cho con người được phát triển.
Sự phát triển của con
người muôn h́nh vạn trạng, v́ sinh linh tự nó có rất nhiều chiều kích.
Sự thành toàn con người gồm có chiều kích thể lư về hạnh phúc sức khoẻ
và tâm lư. Nếu một quốc gia không có đủ nước uống tinh khiết, lương thực
bổ dưỡng và một môi trường tương đối không ô nhiễm, th́ con người không
thể thực hiện đầy đủ khả năng tiềm ẩn trọn vẹn của họ. Ngoài ra, sự phát
triển của con người c̣n có một chiều kích trí tuệ có thể được trợ giúp
nếu có được nhiều cơ hội về giáo dục, nhưng sẽ bị ngăn trở nếu như thiếu
cái đó. Cuối cùng, mỗi người trong chúng ta mang trong ḿnh một chiều
kích đạo đức hoặc luân lư vốn sẽ bị mất tác dụng nếu không tránh thói
xấu và rèn luyện nhân đức. Công ích bao gồm tất cả những yếu tố nầy.
Đánh mất bất cứ yếu tố nào trong số các yếu tố nầy, sẽ cản trở việc
chúng ta t́m cách để thành toàn bản thân.
Tuy nhiên, công ích
dù quan trọng đến mấy, cũng không phải là thiện ích lớn nhất. Sự thành
toàn tối hậu của mọi người chỉ có thể t́m thấy nơi Thiên Chúa, nhưng
công ích giúp những nhóm người và những cá thể đạt đến được thiện ích
tối hậu nầy. Do đó, nếu các điều kiện xă hội đến mức làm cho con người
bị ngăn cấm hoặc bị cản trở khả năng yêu mến Thiên Chúa và người lân
cận, th́ công ích đă không được thực hiện.
Tham dự và liên đới
là hai nguyên tắc căn bản khác của tư duy xă hội Công giáo. Sự tham gia
được Bản Trích Yếu Học Thuyết Xă Hội của Giáo Hội định nghĩa như khi một
[hoặc các] công dân hoặc với danh nghĩa cá nhân hoặc liên hệ với những
người khác, trực tiếp hoặc được đại diện, góp phần vào đời sống văn hoá,
kinh tế, chính trị và xă hội của cộng đồng dân sự mà người đó thuộc về.
Sự tham dự là một bổn phận mà mọi người phải chu toàn một cách ư thức,
với tinh thần trách nhiệm và với cái nh́n hướng về công ích (189).
Liên đới, một chủ đề
thường gặp nhất là trong các tác phẩm của Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô
II, không chỉ là một cảm giác về ḷng trắc ẩn mơ hồ hoặc là nỗi đau buồn
hời hợt về những điều bất hạnh của biết bao người, ở gần cũng như ở xa.
Trái lại, đó là một sự xác định chắc chắn và kiên tŕ cam kết hành động
v́ công ích, nghĩa là v́ thiện ích của tất cả moị người cũng như của mỗi
cá thể, bởi v́ tất cả chúng ta thật sự có trách nhiệm với hết mọi người
(Sollicitudo Rei Socialis,38) [Thông điệp “Quan Tâm Vấn Đề Xă Hội”, Đức
Gioan-Phaolô II]
IV.
Human flourishing is multifaceted because
the human being as such has many dimensions.
V. TUÂN GIỮ NGUYÊN LƯ BỔ
TRỢ
Một số nhà tư tưởng
Kitô giáo h́nh dung nhà nước hoặc chính phủ như là được lập nên chỉ để
trấn áp những mơ ước xầu và những kẻ xấu. Trong tư duy Công giáo, chính
quyền cũng có một vai tṛ tích cực hơn, cụ thể là để giúp bảo đảm công
ích. Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II diễn đạt điểm nầy như sau:
Nhiệm vụ của nhà nước
là chuẩn bị mọi thứ để bảo vệ và duy tŕ những công ích như là những môi
trường tự nhiên và con người, vốn không thể được bảo vệ đơn thuần bằng
những sức mạnh thị trường. Hoàn toàn như thời kỳ chủ nghĩa tư bản sơ
khai, nhà nước có bổn phận phải bênh vực những quyền căn bản của các
người lao động, trong khi ngày nay, với chủ nghĩa tư bản mới, nhà nước
và tổng thể của xă hội có bổn phận phải bảo vệ những công ích, - giữa
những điều khác, - cấu thành cái khung chính cho việc theo đuổi những
mục tiêu cá nhân của họ từ phía mỗi cá thể (Centesimus Annus 40).
Chính quyền có nhiều
chức năng cần thiết và không thể thiếu để giữ,những vai tṛ vốn không
thể hoàn tất được bởi những cá thể hành động một ḿnh hoặc ngay cả hành
động với những nhóm nhỏ trong xă hội. Tuy nhiên, các quốc gia và các
chính phủ thường vượt quá vai tṛ hợp pháp của họ và xâm phạm đến những
cá thể và các nhóm trong xă hội,nhằm thống trị hơn là để phục vụ. Đề
chống lại xu hướng nầy, tư duy xă hội Công giáo nhấn mạnh đến nguyên tắc
bổ trợ. Những người ngoài Công giáo cũng đă khám phá ra nguyên tắc nầy.
Abraham Lincoln đă viết :” Mục tiêu hợp pháp của chính phủ là làm cho
một cộng đồng dân chúng bất cứ những ǵ họ đă phải làm,nhưng không thể
làm hoặc không thể làm tốt như thế, cho chính họ - và theo những khả
năng riêng từng cá thể của họ”. Chính phủ phải nhỏ nhất có thể, nhưng
cũng phải lớn nhất khi cần để hoàn thành bất cứ những ǵ cần được hoàn
thành mà không c̣n cách nào khác để có thể hoàn tất. Pḥng thủ quốc gia,
hợp tác liên quốc gia và những hiệp ước với các quốc gia khác là những
ví dụ hiển nhiên về những vấn đề được chính phủ liên bang thực hiện một
cách thích đáng. Việc quản lư hệ thống luật h́nh sự là một ví dụ khác về
một vấn đề gắn liền với chính phủ một cách thích hợp.
Mặt khác, chính phủ
không được can thiệp nhằm cố gắng giảm nhẹ tất cả mọi vấn đề. Một nhà
nước quá chăm nom hoặc ‘như vú em”, bảo đảm an toàn từ lúc chào đời cho
đến chết và cố cung cấp mọi nhu cầu con người, sẽ bành trướng nhà nước
nầy vượt qua tầm với riêng của nó và vi phạm nguyên tắc bỗ trợ nầy. Đức
giáo hoàng Gioan-Phaolô II giải thích như sau:
Những trục trặc và
khiếm khuyết trong nhà nước trợ giúp xă hội nầy, là kết quả của một sự
hiểu sai về những trách nhiệm riêng của nhà nước. Ở đây nữa, nguyên tắc
bỗ trợ nầy phải được tôn trọng: một cộng động cấp cao hơn không được can
thiệp vào đời sống bên trong của một cộng đồng cấp thấp hơn, với việc
lấy đi của cộng đồng nầy những chức năng của họ, nhưng đúng ra là phải
nâng đỡ họ trong trường hợp cần và góp phần vào việc phối hợp hoạt động
của nó với những hoạt động của phần xă hội c̣n lại, luôn v́ công ích (Centesimus
Annus,48).
Sự với quá xa nầy của
nhà nước dẫn tới những t́nh h́nh vừa không có hiệu quả, lại vừa bất lợi
cho hạnh phúc con người. Bằng việc can thiệp trực tiếp và lấy đi của xă
hội trách nhiệm của nó, quốc gia trợ giúp xă hội (hay ‘kiểu vú em) dẫn
tới một sự mất mát năng lượng con người và một sự gia tăng bất thường
các cơ quan công bị chi phối bởi những kiểu mẫu tư duy quan liêu hơn là
v́ sự quan tâm phuc vụ các khách hàng của họ và kèm theo đó là tăng thêm
những khoản chi tiêu khổng lồ.
Trên thực tế, dường
như các nhu cầu được hiểu và được thoả măn tốt nhất bởi những người gần
gũi họ hơn và hành động với tư cách là những người lân cận với những ai
đang thiếu thốn (Centesimus Annus,48)
Khi nào th́ nhà nước
nên can thiệp và khi nào th́ quyền lực chính phủ nên được ḱm chế? Những
câu hỏi như thế rất khó để trả lời bên ngoài t́nh huống cụ thể, v́ chúng
tùy thuộc những phán đoán thận trọng về những t́nh h́nh đặc biệt. Những
người thiện chí, bao gồm cả các tín hữu Công giáo đang cố gắng đưa vào
áp dụng Học thuyết xă hội Công giáo, có thể không đồng ư một cách hợp
pháp để biết một văn bản luật hoặc sư can thiệp của chính phủ có cần
thiết có bảo đảm sẽ làm nhẹ một vấn nạn xă hội hay không.
Nhiều vấn đề xă hội,
như là “Có nên trao cho người dân phúc lợi nầy trong t́nh h́nh đặc biệt
nầy chăng?”, không thừa nhận một giải đáp có thể sẽ trói buộc người Công
giáo. Tuy nhiên, tất cả những người Công giáo buộc phải làm việc để t́m
ra những giải pháp cho các vấn nạn xă hội đương thời dưới ánh sáng Phúc
Âm và sự khôn ngoan thực tiễn tốt nhất của họ.
VI. TÔN TRỌNG LAO ĐỘNG
VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG.
Theo sách Sáng Thế,
Thiên Chúa không chỉ tạo dựng con người, mà c̣n đặt con người vào công
việc đặt tên cho các con vật và coi sóc khu vườn. Rơ ràng là nhiệm vụ
nầy không được trao cho Adam, bởi v́ Thiên Chúa đă quá mệt nhọc để hoàn
tất công việc nầy. Đúng hơn, lao động của con người tham dự vào cũng như
phản ảnh sự chăm nom vũ trụ đầy tính sáng tạo và quan pḥng của Thiên
Chúa. Ngay cả trước khi sa ngă, con người được tạo nên để canh tác và
giữ Vườn Địa Đàng nầy, để bắt chước công việc của Thiên Chúa trong việc
sáng tạo qua lao động của con người. Sau khi con người sa ngă, lao động
vừa trở thành một nhiệm vụ nặng nhọc, nhưng vẫn vừa tiếp tục là thành
phần ơn gọi con người từ Thiên Chúa. Mọi lao động lương thiện đều có thể
được thánh hoá, được dâng cho Thiên Chúa và đưộc nên thánh qua những ư
chỉ của người lao động và sự xuất sắc của công việc được hoàn tất.
Ngoài ra, người lao
động không chỉ là những con ong mật, những phương tiện cho sản xuất tư
bản của các ông chủ, nhưng phải được tôn trọng và đồng ư tạo cơ hội
thành lập những công đoàn để bảo đảm một sự đền bù đúng đắn theo tập
thể. Trong tư duy Công giáo, quyền lập đoàn hội là một quyền tự nhiên
của con người, do vậy quyền nầy đi trước sự hội nhập của con người vào
xă hội chính trị. Quả thật, việc thành lập các công đoàn “không thể bị
nhà nước ngăn cấm”, bởi v́ – như Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II lưu ư :
”Nhà nước có bổn phận phải bảo vệ các quyền tự nhiên, chứ không được hủy
diệt chúng, và nếu nhà nước cấm công dân ḿnh thành lập các đoàn hội, nó
mâu thuẫn chính nguyên lư tồn tại của riêng nó” (Centesimus Annus,7).
Giáo Hội là phương tiện để giúp các thợ thuyến thành lập những công đoàn
nhằm đấu tranh chống lại những sự quá đáng của công nghiệp hoá.
VII. THEO ĐUỔI HOÀ B̀NH
VÀ CHĂM NOM NGƯỜI NGHÈO
Ḥa b́nh không chỉ là
vắng bóng xung đột bạo lực. Hoà B́nh theo lời của Thánh Augustin, là sự
‘yên tĩnh của trật tự’. Chiến tranh giữa các quốc gia có những lúc cần
đến – nhưng chỉ trong mục đích duy nhất là để văn hồi hoà b́nh. Giáo Hội
Công giáo tự học, ít nhất là từ thời Thánh Augustinô, đă tán thành ”lư
thuyết chiến tranh chính đáng”. Chủ nghĩa hoà b́nh bác bỏ thẳng thừng
chiến tranh như là sự dữ xét về mặt đạo đức luân lư v́ những lư do khác
nhau, có những lư do có tính chất trần tục (bạo lực sinh ra bạo lực), có
những lư do mang tính tôn giáo (Chúa Giêsu đă hành động bất bạo lực).
Chủ nghĩa hiện thực, trong bối cảnh đạo đức học của chiến tranh, cho
rằng chiến tranh không có bất cứ luật lệ nào,ngoài sự sống sót của người
mạnh nhất. Thuyết chiến tranh chính nghĩa là một cái nằm giữa hai cực
đoan là chủ nghĩa hoà b́nh và chủ nghĩa hiện thực, một tính chất nằm
giữa được đa số các chính phủ đương thời theo và yêu cầu. Như được xướng
lên trong cuốn Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo, những tiêu chí cho một cuộc
chiến chính nghĩa bao gồm :
Những thiệt hại do kẻ
gây hấn gây nên cho đất nước hoặc cộng đồng các quốc gia phải kéo dài,
nghiêm trọng và chắc chắn; tất cả những phương tiện khác để kết thúc
thiệt hại đó phải được chứng tỏ là không thực tế và không hiệu quả. Phải
có những viễn cảnh nghiêm túc về thành công; việc sử dụng vũ khí phải
không được sản sinh những điều xấu và hỗn loạn lớn hơn là sự dữ phải bị
loại bỏ. Sức mạnh của các phương tiện hủy diệt hiện đại đè rất nặng lên
sự đánh giá điều kiện nầy. Đó là những yếu tố truyền thống được kể ra
trong cái gọi là học thuyết ‘chiến tranh chính nghĩa’. Dự đánh giá những
điều kiện về tính chất hợp pháp đạo đức luân lư thuộc về sự phán xét
khôn ngoan của những kẻ có trách nhiệm đối với công ích” (GL.HT.CG 2309)
Những thảo luận gần
đây đề cập đến vấn đề để biết liệu một cuộc chiến “tay trên, đi trước”,
một cuộc chiến tung ra nhằm ngăn ngừa bị tấn công, có thể được biện minh
theo giáo huấn chiến tranh chính nghĩa truyền thống chăng? Những thảo
luận khác muốn đặt vấn đề, liệu với công nghệ ngày nay, có thể có một
cuộc chiến chính nghĩa chăng?
Những vấn đề nầy vẫn
c̣n đó, sự kiện vẫn là hoà b́nh bao hàm một sự tạo trật tự xă hội đúng
đắn. Trật tự xă hội đúng đắn nầy cũng bao gồm sự quan tâm đối với người
nghèo. Không phải chỉ những tác động trực tiếp hay gián tiếp của các
hành động cá thể, mà cà những chính sách xă hội khôn ngoan cũng cần
thiết cho một sự tạo trật tự xă hội đúng đắn, những chính sách xă hội
vốn phải tính đến hiệu quả có thể trên người nghèo.
Như đă chỉ ra, học
thuyết xă hội Công giáo không nói chính xác điều nầy phải được thực hiện
thế nào trong mỗi xă hội. Có thể là hành động xă hội năng nổ qua sự can
thiệp của chính sách chính phủ là cần thiết. Có thể là những sáng kiến
riêng tư và tự nguyện của những tổ chức ḍng tu (chẳng hạn Ḍng Vinh Sơn
Phaolô) và những tổ chức thế tục (như là Con Đường Thống Nhất) nên diễn
ra. Có thể là việc kinh doanh phải bị luật pháp khuất phục hoặc tư
nguyện theo các chính sách trợ giúp người nghèo. Có thể là các gia đ́nh
và các cá nhân phải đảm nhận trách nhiệm nầy. Rất có thể một sự phối hợp
các sáng kiến của chính quyền, của xă hội và tôn giáo và của các cá nhân
lại được cần đến. Cái ǵ chính xác sẽ giúp đỡ người nghèo (và xă hội nói
chung) không phải khi nào cũng rơ ràng trong mọi t́nh huống, nhưng mỗi
tín hữu Công giáo có bổn phận phải suy nghĩ nghiêm túc và hành động có
mục đích để giúp đỡ những ai đang đau khổ quanh họ và trên thế giới.
Bảy nguyên lư nầy –
tóm lược một số trong những điều chính yếu của học thuyết xă hội Công
giáo từ Đức Lêô XIII qua Đức Biển-Đức XVI. Tuy vậy, ở trung tâm học
thuyết xă hội Công giáo là một cái ǵ đó vừa đơn giản lại vừa cao cả :
một nỗ lực để thực hiện những hành vi và lời dạy của Chúa Giêsu luôn
đúng thực ngaỳ nay, để biến đổi và cải thiện đời sống xă hội cho mọi dân
tộc dưới ánh sáng của Tin Mừng.
Nguồn:
Christopher
Kaczor, Ph.D., CatholicCulture.org
BTGH chuyển ngữ và giới
thiệu.
|
|