|
Hỏa Ngục Chỉ Lượm Được Cặn Bạ Xấu Xa Nhất
của Thế Gian
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh,, BVL
ha Pedro Mendoza Pantoja là một trong
thành phần ban tổ chức Cuộc Họp Tiên Khởi Ṭan Quốc Mễ Tây Cơ của Những
Nhà Trừ Quỉ và Những Người Phụ Tá Giải Phóng, vào thời khoảng
31/8-2/9/2004 ở trung tâm của hội đồng giám mục nước này. Cuộc họp đă
thu hút được 500 tham dự viên. Vị linh mục này điều hợp công việc của 8
vị trừ quỉ theo vùng trong tổng giáo phận Mexicô City. Ngài đă trả lời
cho Zenit qua một cuộc phỏng vấn về những vân đề như Vị trừ quỉ là ai?
Phải chăng ai cũng có thể trở thành người trừ quỉ? Người ta cần phải làm
ǵ khi họ nghĩ rằng họ là nạn nhận bị quỉ ám hay khi biết rằng có người
ở trong trường hợp bị quỉ ám như thế? v.v. Theo vị linh mục chuyên gia
trừ quỉ 6 năm vừa rồi th́:
"Satan sử dụng một số những sách lược để
tách ĺa chúng ta khỏi Thiên Chúa. Những ǵ ma quỉ chuyên chú đó là làm
cho chúng ta bị lẫn lộn, hoặc bằng cách làm cho chúng ta tin rằng hắn
không hiện hữu và nếu hắn không hiện hữu th́ cũng chẳng có hỏa ngục hay
thiên đàng, nên chúng ta cũng chẳng cần phải sợ bị xa ĺa Thiên Chúa.
Ngoài ra, thay vào đó, hắn hiện h́nh bằng những thứ áp đảo và ám ảnh để
dữ dội hành hạ những ai mở cửa tiếp đón hắn, làm cho họ sợ hăi hắn và
không cố gắng đóng cửa lại mà cứ tin tưởng vào hắn".
Cũng trong năm 2004, ở Việt Nam đă xẩy ra
một câu chuyện đươc linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn thuật lại trong bản
Hiệp Thông của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam số 26-27, tháng 10/2004, một
câu truyện cũng đă được phổ biến trên ít là hai tờ Nguyệt San Công Giáo
Việt Nam hải ngoại, đó là Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp số 11/2004,
trang 37-44, với tựa đề “Cầu Cho Người Đă Khuất”, và Nguyệt San Dân Chúa
Mỹ Châu số 12/2004, trang 19-24, với tựa đề “Rao Giảng Tin Mừng Cho
Người Đă Khuất”.
Trong câu truyện này, linh mục Sơn cho
biết là ngài đă giúp được cho một người mẹ trẻ thoát khỏi t́nh trạng bị
một linh hồn tử sĩ nhập vào, một t́nh trạng cũng đă được một thày bùa ở
Phan Rang cố gắng giải quyết song bất thành.
Ở phần kết luận câu truyện mà chính vị
linh mục thuật lại là chứng nhân và là vị “rao giảng tin mừng cho người
đă khuất”, tác giả đă đặt ra một số vấn đề liên quan đến tín lư và đức
tin Kitô giáo cần phải được giải quyết. Sau đây là nguyên văn các vấn
nạn được vị linh mục này nêu lên:
1. “Trong xă hội Việt Nam hôm nay,
bùa ngải, thư yểm là chuyện có thật, nhất là nơi những người buôn bán,
như ta từng nghe nói: ‘ngậm ngải t́m trầm’ hay ‘bùa yêu’ của một vài
người thỉnh về. Bùa ngải này dựa trên nền tảng nào? Quyền lực này bắt
nguồn từ đâu: từ ma quỉ hay chỉ là một điều kỳ diệu mà khoa học chưa
khám phá?
2. “Theo niềm tin chung của người
tií hữu Công giáo, các linh hồn sau khi chết sẽ ra trước ṭa Chúa phán
xét để rồi hoặc sẽ lên thiên đàng, vào luyện ngục hay xuống hỏa ngục.
Vậy phải giải thích như thế nào về những linh hồn vất vưởng như ông
Giuse Trần Đ́nh Sang và các bạn bè của ông? (Ở đây vị linh mục muốn nói
đến sự kiện là ông Sang 63 tuổi, tử trận ngày 13/12/1973 tại ngay nơi
đang được gia đ́nh cô Maria Trần Thị Phương Quỳnh 26 tuổi thuê mướn để
kinh doanh đă 3 năm, đó là căn nhà số 46/5C Chu Văn An, quận B́nh Thạnh
Thành Phố Hồ Chí Minh)?
3. “Ma quỉ có thể tác động vào những
người vô tội và nhập vào họ để gây nên bệnh tật, đau đớn bất kể tự do và
ư muốn của người bị nhập?
4. “Làm sao ma quỉ lại có thể ở lâu
trong những người đó như vậy, trong khi miệng họ vẫn cầu kinh, dự lễ,
rước Ḿnh Thánh Chúa?
5. “Các tôn giáo khác có những nghi
thức, bài kinh để trừ tà ma, diệt quỉ như trong tông phái Mật Tông của
Phật giáo ở Việt Nam, Tích Lan, Ấn Độ hay Chân Ngôn Tông ở Nhật Bản.
Nhiều người tín hữu h́nh như muốn đồng hóa các nghi thức này của tôn
giáo với sự mê tín dị đoan. Vậy cần phải hiểu thế nào trong tinh thần
đối thoại liên tôn của Kitô giáo?
6. “Có cần phải phân biệt ‘ma’ khác
với ‘quỉ’ để có thái độ thương xót hơn đối với ‘ma’ và đúng đắn hơn vơiù
‘quỉ’? (Đến đây, để chứng minh vấn đề cần phải ‘rao giảng tin mừng cho
người đă khuất’, linh mục tác giả đă trích dẫn những lời Thánh Kinh Tân
Ước như sau:)
“Thư 1Pr 3, 19-22 nói rơ: v́ Đức Kitô
chết cho mọi người nên mọi người đều có thể được cứu độ bằng những cách
thế không ai có thể ngờ được. Hơn nữa, v́ Đức Kitô là Đấng ‘phán xét kẻ
sống và kẻ chết’, mà tiêu chuẩn để phán xét là Tin Mừng, nên trước đó,
kẻ chết cũng cần được nghe công bố Tin Mừng (x. 1Pr 4, 5-6; x F. Gomez,
Kitô học, Chương Đức Giêsu xuống ngục tổ tông, Tập II, tr. 135tt). Đức
Kitô rao giảng Tin Mừng cho cả kẻ chết có nghĩa là Người đă hoàn tất sứ
mạng cứu độ đối với mọi người. Những người đă chết cũng cần được ‘rửa
tội’ bằng cách tuyên xưng ḷng tin và t́nh yêu đối với Đức Kitô. Do đó,
vào thời các Kitô hữu thế hệ đầu tiên, ở Côrintô chẳng hạn, người ta đă
có nghi thức chịu phép rửa thay cho kẻ chết (x. 1Cr 15,29). Hành động
của ông Sang hay những linh hồn khác đă khiến tôi nhớ đến sứ mạng phải
truyền giáo cho cả những người đăkhuất. Như thế có lẽ ta không nên nói
trừ ma, diệt quỉ mà phải cứu ma, trừ quỉ theo nghĩa Kitô giáo chăng?”
Qua những câu truyện “cứu ma” của linh
mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn ở Việt Nam và cuộc phỏng vấn về việc “trừ quỉ”
của linh mục Pedro Mendoza Pantoja ở Mễ Tây Cơ trên đây, người viết xin
được chia sẻ suy tư của ḿnh như sau.
Trước hết, bởi vướng mắc nguyên tội, con
người c̣n được coi như là thành phần bị mù từ lúc mới sinh, chẳng biết
Chúa là ai (xem Gioan 9:1,36); thành phần bất toại, không tự giải cứu
đươc ḿnh, không làm được những điều lành mong ước, trái lại, làm điều
dữ ngược với ư muốn của ḿnh (xem Rôma 7:19); thành phần phong cùi ghẻ
lở xấu xa, bị tội lỗi làm méo mó h́nh dạng con người của ḿnh được dựng
nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên
1:26-27) v.v. Đó là lư do, Chúa Kitô đă đến để cứu độ, trước hết bằng
quyền năng chữa lành của Người, đúng như tiên tri Isaia đă nói về Người
(xem Isaia 61:1), cũng như chính Người đă xác nhận về Người với các môn
đệ của tiền hô Gioan Tẩy Giả (xem Luca 7:22).
Ngoài ra, cũng bởi nguyên tội, tức bẩm
sinh mang mầm mống tội lỗi và sự chết là hậu quả của nguyên tội trong
bản thân khi được sinh vào trần gian, mà con người, ở một nghĩa nào đó,
ai cũng bị “quỉ ám”, tức bị tiêm nhiễm nọc độc của Satan, có sẵn tử chất
Satan nơi ḿnh, nên tự nhiên họ có khuynh hướng “chuộng tối tăm hơn ánh
sáng” (Gioan 3:19), thực sự bị Satan chi phối và điều khiển theo ư hắn (xem
Gioan 8:44). Đó là lư do mà một trong những việc cho thấy Chúa Kitô đến
để thiết lập vương quốc cứu độ của Người, đó là việc Người khu trừ ma
quỉ là tay thống lănh thế gian (x Mathêu 4:8-9; Gioan 16:11; Do Thái
2:14), việc “Con Thiên Chúa tỏ ḿnh ra để tiêu diệt các việc làm của ma
quỉ” (1Gioan 3:8; xem Do Thái 2:14).
Theo nguyên tắc ai cũng bị quỉ ám (không
nhiều th́ ít, không nặng th́ nhẹ) về phương diện tâm linh như thế, mà
không lạ ǵ có những trường hợp đi đến chỗ trầm trọng đến nỗi con người
c̣n bị quỉ ám cả ở trên thân xác nữa, như những trường hợp được các Phúc
Âm Nhất Lăm thuật lại, những đoạn cũng được linh mục Sơn trưng dẫn trong
bài viết của ḿnh: “Ở Capharnaum (x. Mc 1,21-28; Lc 4, 31-37), ở Gađara
(x Mt 8, 28-34; Mc 5, 1-20), ở Tyrô (x Mc 7, 24-30)”.
Nếu con người ta có thể trở thành tay sai
cho ma quỉ, qua những hoạt động đầy hận thù ghen ghét cố t́nh quấy phá
Giáo Hội, bằng những chống đối quyền bính và gây chia rẽ Dân Chúa, theo
tinh thần kiêu căng bất phục tùng phá đám của Satan, th́ con người cũng
có thể là tác nhân của Satan và cho Satan, qua những thứ bùa ngải, các
việc yếm độc, tác hại con người ta, nhất là những người chẳng những đă
yếu đức tin lại c̣n yếu bóng vía, dễ mê tín dị đoan nữa. Thế nhưng, như
những con rắn biến từ gậy của các phù thủy Ai Cập chẳng những không thể
hại con rắn biến từ gậy của Aaron mà c̣n bị nuốt đi hết nữa (x Xuất Hành
7:10-12), cũng thế, bùa phép của thày Chăm ở Phan Rang trừ tà cho cô
Quỳnh cũng không thể tống ông Sang ra khỏi cô này, trái lại, c̣n bị việc
trừ quỉ của cha Sơn "qua mặt".
Tuy nhiên, thái độ thiện chí của ông
chẳng những không ghen tức với cha, trái lại, c̣n tỏ ra muốn cùng cha
Sơn cứu đời, chứng tỏ cho thấy, có một số thày phép có thể bị Satan lạm
dụng để mở mang nước của hắn. Ở chỗ, có những lúc hắn giúp cho họ trừ
được quỉ con, với thâm ư "bỏ con tép bắt con tôm", mưu lợi cho hắn, chứ
không gây chia rẽ hay phá tán vương quốc của hắn theo nguyên tắc Chúa
Giêsu đă nêu lên (xem Mathêu 12:24-26). Trong trường hợp cô Quỳnh, nếu
ông thày Chăm này thực sự trừ được ông Sang, th́ thử hỏi gia đ́nh Công
giáo này đang bê bối sẽ hoán cải trở về với Chúa như đoạn cuối câu
truyện cho thấy hay chăng, hoặc lại càng thêm mê tín dị đoan mà bỏ Chúa
hơn.
Nếu Satan có tác nhân tác hại con người
ta bằng bùa ngải th́ Chúa Kitô cũng có các thừa tác viên thực hiện các
phép trừ tà để giải cứu con người. Nếu các thứ bùa ngải được thành phần
phù thủy sử dụng để gây tai hại cách riêng phần xác của con người bị yểm
độc thế nào, th́ nước phép, Thánh Giá, Sách Thánh, tượng ảnh hay tràng
hạt v.v. cũng có thể được sử dụng để trừ tà. Nếu Satan đă ngầm giúp các
tác nhân của hắn làm điều bậy bằng bùa phép th́ thiên thần cũng đă giúp
con người làm điều thiện lợi, điển h́nh là Tổng Thần Raphen đă giúp cho
Tôbia con chẳng những có phương thuốc mật cá để chữa lành mắt cho Tôbia
cha (xem Tôbia 6:9, 11:10-13), mà c̣n cả việc sử dụng phương pháp nướng
tim cá và gan cá để xua đuổi ảnh hưởng của ma quỉ nơi con người bị hắn
quấy nhiễu như trường hợp người vợ mới cưới của Tôbia con (xem Tobia
6:8, 8:2-3).
Trường hợp linh hồn con người, sau khi
ĺa khỏi thân xác trong giờ lâm tử, nếu không lên thiên đàng hay xuống
hỏa ngục th́ vẫn c̣n ở trong t́nh trạng chưa được hoàn toàn hoan hưởng
thánh nhan Thiên Chúa, tức là vẫn c̣n ở trong t́nh trạng cần phải được
giải cứu, cho đến khi ơn cứu chuộc của Chúa Kitô được hoàn toàn nên trọn
nơi họ. Như thế, đối với con người con sống trên đời th́ thành phần đă
chết không c̣n ở trong không gian, nhất là không c̣n thuộc về thời gian
nữa, nhưng đối với thành phần trong luyện ngục, chưa hoàn toàn được
hưởng vinh phúc trường sinh này, th́ một cách nào đó, họ vẫn c̣n ở trong
“thời gian”, không phải thời gian lập công như khi họ c̣n sống trên thế
gian này, mà là thời gian đền tội và chờ đợi, một thời gian tâm lư của
những linh hồn chưa hoàn toàn đạt đến cùng đích tối hậu của ḿnh là
Thiên Chúa Toàn Thiện Toàn Ái, nên cảm thấy quặn quại khổ đau bởi chính
ḷng khao khát đầy mến yêu có sức thanh tẩy ấy (xem Luca 7:47; 1Phêrô
4:8).
Thế nhưng, sở dĩ những linh hồn trong
luyện ngục có được một khát khao có sức thanh tẩy tội lỗi này là v́ họ
đă được hưởng Thần Linh Sự Sống của Thiên Chúa, dù chưa hoàn toàn, một
Thần Linh thấu triệt Thiên Chúa (xem 1Corintô 2:10). Hay nói cách khác,
vinh quang của Thiên Chúa đă chiếu vào các linh hồn trong luyện ngục bởi
Thần Linh tái sinh của Ngài (xem Gioan 3:5). Bởi thế, có thể nói, những
linh hồn đang ở trong luyện ngục, v́ đă ra khỏi thân xác hữu h́nh và hữu
hạn là những ǵ khiến linh hồn họ chỉ có thể thấy Ngài "như qua gương"
chứ không thể “diện đối diện” (1Corintô 13:12) chiêm ngưỡng “Thiên Chúa
vô h́nh” (Col 1:15), th́ dù họ có đang ở trong thời gian đền tội và đợi
chờ, song bởi ḷng khao khát đầy yêu mến do Thần Linh làm vọt lên trong
họ (xem Gioan 4:14, 7:38-39) bấy giờ, họ thật sự đă được chiêm ngưỡng
dung nhan Thiên Chúa lờ mờ rồi, như trường hợp người mù chưa được Chúa
Giêsu phục quang hoàn toàn, nên mới chỉ “thấy người ta qua lại như cây
cối” (Marcô 8:24).
V́ thành phần trong luyện ngục mới được
thấy Thiên Chúa “lờ mờ” như thế, mà họ cần phải chờ đợi cho tới khi Chúa
Giêsu “là sự sống lại và là sự sống” (Gioan 11:25), là “ánh sáng sự sống”
(Gioan 8:12) hoàn toàn chiếu tỏa trên họ, một thứ Chân Lư giải thoát họ
(xem Gioan 8:32). Theo dự án cứu độ của ḿnh, Thiên Chúa có nhiều cách
cứu độ từng người trên trần gian này, tùy theo hoàn cảnh và trường hợp
của họ thế nào, th́ khi họ qua đi mà chưa được hoàn toàn giải thoát,
Ngài cũng có cách để tiếp tục cứu họ như thế. Chẳng hạn Ngài có thể cho
chính linh hồn đương sự “hiện về” (xem Luca 16:30-31) để xin người c̣n
sống bồi thường cho họ về những ǵ liên quan đến phép công bằng, hay như
trường hợp của ông Sang trong câu chuyện được cha Sơn kể lại.
Trong trường hợp của ông Sang, Thiên Chúa
chẳng những muốn cứu cả người đă chết là ông Sang mà c̣n cả người đang
sống là gia đ́nh nạn nhân cô Quỳnh cùng ông thày Chăm ở Phan Rang nữa.
Cô Quỳnh là vật hy sinh cho việc Chúa làm. V́ ông Sang đă chết không thể
tự cứu ḿnh nữa, nên phải nhờ đến đức tin của những người c̣n sống. Bởi
thế, một khi nạn nhân bị ông ám yếu đức tin, ông không thể ra khỏi nạn
nhân, cho đến khi đức tin của nạn nhân phục hồi ông mới được giải cứu,
và nhờ ông cả nạn nhân lẫn gia đ́nh nạn nhân sống tốt lành hơn. Việc nạn
nhân là cô Quỳnh đây được tăng thêm đức tin v́ ông Sang (ngoài ư muốn
của cô song trong ư nhiệm mầu Thiên Chúa) và nhờ ông Sang đây cũng chẳng
khác ǵ như cô được tái sinh trong đức tin, như cô lănh nhận phép rửa
cho ông Sang vậy.
Đúng thế, chính nhờ đức tin của chị ḿnh
là Matta: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đă đến trong thế
gian” (Gioan 11:27) mà Lazarô đă bị chôn táng 4 hôm trong mồ đến độ bắt
đầu xông mùi tan rữa (xem Gioan 11:39), vẫn có thể cải tử hoàn sinh nghe
được tiếng Chúa để bước ra khỏi mồ (xem Gioan 11:43-44). Đó là lư do, vị
trừ quỉ Công giáo, một là chính Đức Giám Mục, hai là vị linh mục được
ngài chỉ định thay ngài làm việc này, chẳng những có quyền năng làm việc
trừ quỉ, nhưng nếu yếu kém đức tin, không sống đời nguyện cầu và chay
tịnh (xem Mathêu 17:16-21), th́ cũng chẳng trừ được quỉ như có lần đă
xẩy ra cho các tông đồ ngày xưa. Một giám mục bất tuân phục Đức Thánh
Cha làm sao có thể khu trừ "ngụy" thần, hay một vị linh mục trừ qủi mà
lại ham sắc mê của làm sao có thể trừ được thần "ô uế"!?!
Thế nhưng, tại sao biết được rằng ḿnh có
thể làm cho người bạn thân của ḿnh là Lazarô (xem Gioan 11:5) cải từ
hoàn sinh về phần xác, mà Chúa Kitô, như Thánh Kư Gioan đă thuật lại cho
chúng ta biết, Chúa Giêsu đă khóc (xem Gioan 11:35)? Phải chăng là v́
Người đă thấy trước được rằng, trong số thành phần thân thiết với Người,
có những người, cho dù Người có lên tiếng gọi (xem Gioan 13:26-27;
Mathêu 26:50), cũng sẽ không bao giờ chỗi dậy nữa, nghĩa là sẽ bị đời
đời trầm luân (xem Mathêu 27:5; Gioan 17:12).
Đó là lư do, trong Thông Điệp T́nh Yêu
Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ qua nữ sứ giả giáo dân người Bỉ biệt danh
Magarita, Chúa Giêsu đă tâm sự với bà những lời lẽ chí t́nh chí thiết
như sau:
·
“Mất đi một trong các con cái
của Cha đối với Cha là một bất hạnh lớn. Cha đă v́ họ mà đến mà Cha lại
không thể cứu được họ…” (ngày 10-12-1968);
·
“Hỡi con gái của Cha ơi, con có
biết cái thảm bại của một Vị Thiên Chúa là ǵ không? Đó là Người không
thể cứu được hết tât cả mọi người bằng Hy Sinh của Người”
(18-5-1970);
·
“Những ư nghĩ của Cha (ở trên
đồi Gôngôta) là những ư nghĩ thương hại và thương xót. Họ không biết
rằng, chỉ bằng một cử chỉ là Cha đă có thể hủy diệt họ đi rồi. Cha để
cho họ tha hồ thỏa tay hành khổ Cha, v́ trong thâm tâm của Cha, Cha đă
chấp nhận Hy Sinh theo ư muốn Cha của Cha. Thế nhưng, nỗi sầu khổ của
Cha đă tăng lên gấp bội, v́ Cha đă biết rằng, cho dù Cha có để cho ḿnh
bị hành h́nh đến như vậy, Cha vẫn không sao cứu được tất cả mọi con cái
của Cha, và đối với nhiều người, Hy Sinh của Cha sẽ trở thành luống công
vô ích” (Thứ Sáu Tuần Thánh 30-3-1972).
Vậy th́ thành phần được cứu độ nhiều hay
ít? Chúa Giêsu đă không trực tiếp trả lời một cách rơ rầg ít hay nhiều
cho thắc mắc ṭ ṃ của một người chất vấn Người: “Những người được cứu
có ít lắm chăng?“ (Luca 13:23). Nếu là người, làm ǵ chúng ta cũng phải
làm sao để mang lại lợi ích nhất cho ḿnh, và càng khôn ngoan và quyền
năng, chúng ta càng đạt được ư muốn mưu lợi của ḿnh thế nào, th́ vô
cùng khôn ngoan và toàn năng như Thiên Chúa, chẳng lẽ một việc cứu chuộc
con người vô cùng quan trọng, đến nỗi Người đă phải nhập thể vô cùng hèn
hạ và tử giá vô cùng nhục nhă như thế, lại chỉ mang về được một thiểu số
linh hồn vô giá bất tử, thua quyền lực của Satan là tạo vật của Người?!?
Đó cũng là lư do, với cùng người nữ sứ
giả giáo dân trên đây, Chúa Giêsu đă khẳng định như sau:
·
“Khi Cha bị đóng đanh trên
Thánh Giá như một tội nhân chỉ v́ yêu, lẽ nào Cha lại chỉ được ôm lấy
khoảng không trống rỗng” (15/10/1966);
·
“Hỏa ngục chỉ thu nhặt được
những cặn bă xấu nhất của nhân loại. Con hăy tin rằng trước khi đành bỏ
cho hỏa ngục một linh hồn, Cha đă thử dùng mọi phương thế theo ḷng
thương xót của Cha, để cứu rỗi linh hồn ấy. Ai là người muốn được cứu
rỗi? Người công chính và tội nhân thống hối. Ai từ chối không muốn được
cứu rỗi? Kẻ tội lỗi cứng ḷng. Ai sẽ được cứu rỗi? Người ao ước được cứu
rỗi với ḷng tin tưởng và cậy trông. Trái tim Cha âu yếm ghé xuống với
người tự hạ. Thế giới là ǵ? Là sa mạc của các linh hồn. Không có ǵ lập
cư ở đó, ngoài cái sẽ tan biến măi măi. Bụi và tro bao giờ cũng sản xuất
ra tro và bụi. Các con Cha ơi! Các con đáng thương của Cha!”
(4/10/1967)
|
|