|
TÔNG HUẤN
BÍ TÍCH YÊU THƯƠNG
- SACRAMENTUM CARITATIS
Của
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Gửi Các Vị
Giám Mục, Hàng Giáo Sĩ, Đời Tận Hiến và Giáo Dân
Về
Phần Một
THÁNH THỂ,
MỘT MẦU NHIỆM CẦN PHẢI TIN TƯỞNG
“Đây là
việc làm của Thiên Chúa, đó là quí vị hăy tin vào Đấng Ngài đă sai” (Jn
6:29)
Thánh Thể và Các Bí Tích
IV. Thánh Thể và Bí Tích Truyền Chức Thánh
In
persona Christi capitis – Nhân danh / thay cho Chúa Kitô là đầu
23. Mối
liện hệ nội tại giữa Thánh Thể và bí tích Truyền Chức Thánh hiển nhiên
được xuất phát từ những lời Chúa Giêsu nói ở Căn Thượng Lầu: “Các con
hăy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19). Vào đêm trước khi chịu
chết, Chúa Giêsu đă thiết lập Thánh Thể và đồng thời thiết lập cả
chức linh mục Tân Ước. Người là linh mụcc, là tế vật và là bàn thờ:
vị trung gian môi giới giữa Thiên Chúa Cha và dân của Người (cf Heb
5:5-10), tế vật đền tội (cf. 1Jn 2:2,4:10), Đấng đă hiến ḿnh trên bàn
thờ Thập Giá. Không ai có thể nói “này là ḿnh Thày” và “này là chén máu
Thày” trừ phi nhân danh Chúa Kitô và đại diện Chúa Kitô,
vị thượng tế duy nhất của Giao ước mới và vĩnh cửu (cf Heb 8:9). Những
cuộc họp trước kia của các vị Giám Mục của Thượng Nghị đă cứu xét tới
vấn đề về chức linh mục thánh chức, liên quan tới cả bản chất của thừa
tác vụ này (69) và việc huấn luyện thành phần ứng sinh (70). Ở đây, theo
chiều hướng được bàn luận trong cuộc Thượng Nghị này, tôi thấy cần phải
nhắc lại những điểm quan trọng về mối liên hệ giữa bí tích Thánh Thể và
Truyền Chức Thánh. Trước hết, chúng ta cần nhấn mạnh một lần nữa rằng
mối liên hệ giữa Bí Tích Truyền Chức Thánh và Thánh Thể được thấy
hầu như tỏ tường nơi Thánh Lễ, khi vị Giám Mục hay linh mục chủ sự
thay cho Chúa Kitô là Đầu.
Giáo Hội dạy
rằng việc chịu chức linh mục là một điều kiện bất khả thiếu cho việc cử
hành Thánh Thể hiệu thành (71). Thật vậy, “trong việc phục vụ Giáo Hội
của vị thừa tác viên thánh chức, chính Chúa Kitô là Đấng hiện diện với
Giáo Hội của Người như Đầu của Thân Ḿnh, như Mục Tử của đàn chiên, như
Thượng Tế của hy tế cứu chuộc” (72). Vị thừa tác viên thánh chức thật sự
cũng tác hành “nhân danh toàn thể Giáo Hội, khi dâng lên Thiên Chúa lời
nguyện cầu của Giáo Hội, nhất là khi dâng hiến hy tế Thánh Thể” (73).
Bởi thế, các vị linh mục cần phải ư thức về sự kiện là theo thừa tác vụ
của ḿnh các vị không bao giờ được đặt ḿnh hay những ư nghĩ riêng tư
của ḿnh lên trên hết mà là Chúa Giêsu Kitô. Bất cứ nỗ lực nào muốn làm
cho ḿnh trở thành tâm điểm của hành động phụng vụ đều phản lại với
chính căn tính là linh mục của ḿnh. Vị linh mục trên hết là một người
tôi tớ của kẻ khác, và ngài cần phải tiếp tục hoạt động để trở thành một
dấu chỉ dẫn đến cùng Chúa Kitô, một dụng cụ dễ dạy trong bàn tay Chúa.
Điều này được tỏ hiện đặc biệt nơi sự khiêm tốn của ngài trong khi hướng
dẫn cộng đồng phụng vụ, tuân theo nghi thức, liên kết ḷng trí của ḿnh
với nghi thức, và tránh đi bất cứ những ǵ có thể gây ấn tượng về một
thứ lệch lạc đề cao con người riêng của ngài. Tôi khuyến khích hàng giáo
phẩm hăy luôn luôn coi thừa tác vụ thánh thể của ḿnh như một việc phục
vụ khiêm tốn đối với Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Chức linh mục, như
Thánh Âu Quốc Tinh nói, là amoris officium – sứ vụ yêu thương
(74), nó là sứ vụ của vị mục tử tốt lành, vị đă hiến ḿnh cho chiên (cf
Jn 10:14-15).
Thánh
Thể và việc độc thân linh mục
24. Các
Nghị Phụ của Thượng Nghị muốn nhấn mạnh rằng chức linh mục thừa tác, qua
việc thụ phong, được kêu gọi hoàn toàn nên giống Chúa Kitô. Cho dù vẫn
tôn trọng việc thực hành và truyền thống khác của các Giáo Hội Đông
phương, cần phải tái khẳng định ư nghĩa của vấn đề độc thân linh mục,
một việc độc thân thực sự được coi là một kho tàng vô giá, và cũng được
xác nhận bởi việc Giáo Hội Đông phương chọn các vị Giám Mục chỉ từ hàng
ngũ thành phần độc thân. Những Giáo Hội này cũng hết sức trân quí quyết
định của nhiều linh mục muốn theo đuổi đời sống độc thân. Việc chọn lựa
này về phần các linh mục là những ǵ bày tỏ một cách đặc biệt việc hiến
thân làm cho họ nên giống Chúa Kitô và việc họ hoàn toàn dấn thân cccho
Vương Quốc của Thiên Chúa (75). Sự kiện chính Chúa Kitô, vị linh mục đời
đời, đă sống sứ vụ của ḿnh thậm chí cho tới khi hy sinh trên Thập Giá
trong t́nh trạng trinh khiết là những ǵ làm nên một điểm tựa vững chắc
để hiểu được ư nghĩa của truyền thống này nơi Giáo Hội Latinh. Việc hiểu
biết cuộc sống độc thân linh mục theo thuần nghĩa về phần vụ mà thôi
chưa đủ. Sống độc thân thực sự là một đường lối đặc biệt để làm cho ḿnh
nên giống lối sống của Chúa Kitô. Việc chọn lựa này trước hết và trên
hết có một ư nghĩa phối ngẫu; nó là một thứ đồng hóa sâu xa với con tim
của Chúa Kitô Hôn Phu, Đấng hiến sự sống ḿnh cho Hôn Thê của ḿnh. Tiếp
tục với truyền thống cao cả này của Giáo Hội, với Công Đồng Chung
Vaticanô II (76) và với các vị tiền nhiệm ctrong vai tṛ làm giáo hoàng
(77), tôi tái xác nhận vẻ đẹp và tầm quan trọng của một cuộc đời linh
mục sống độc thân như dấu hiệu bày tỏ việc choàn toàn và chỉ nguyên dân
thân cho Chúa Kitô, cho Giáo Hội và cho Vương Quốc của Thiên Chúa, và v́
thế tôi khẳng định rằng nó vẫn là điều buộc phải giữ theo truyền thống
Latinh. Cuộc đời độc thân linh mục sống một cách trưởng thành, hân hoan
và dấn thân là một phúc lành vĩ đại cho Giáo Hội và cho chính xă hội.
T́nh
trạng thiếu hụt giáo sĩ và việc chăm sóc mục vụ cho các ơn gọi
25.
Theo chiều hướng của mối liên hệ giữa bí tích Truyền Chứa Thánh và Thánh
Thể, Thượng Nghị này đă cứu xét tới trường hợp khó khăn diễn ra ở các
Giáo Phận khác nhau đang phải đương đầu với t́nh trạng thiếu linh mục.
T́nh trạng này xẩy ra chẳng những ở một vài miền mới được truyền bá phúc
âm hóa mà c̣n ở nhiều xứ sở có một truyền thống Kitô giáo lâu đời. Thật
sự là việc phân phối đồng đều hơn hàng giáo sĩ sẽ giúp được giải quyết
vấn đề này. Cần phải thực hiện những nỗ lực phấn khích một tầm ư thức
hơn nữa về t́nh trạng này ở mọi cấp độ. Các vị Giám Mục cần phải bao gồm
những Hội Ḍng Sống Đời Tận Hiến và những nhóm mới trong giáo hội vào
những nhu cầu mục vụ của ḿnh, đồng thời tỏ ra tôn trọng những đặc sủng
chuyên biệt của họ, và các vị cần phải mời gọi hàng giáo sĩ trở nên cởi
mở hơn trong việc phục vụ Giáo Hội bất cứ nơi nào cần, cho dù cần phải
hy sinh (78). Thượng Nghị này cũng bàn đến những sáng kiến về mục vụ
nhắm đến chỗ cổ vơ, nhất là trong giới trẻ, một thái độ cởi mở nội tâm
đối với ơn gọi linh mục. T́nh trạng này không thể nào được giải quyết
bởi cnguyên những quyết định cụ thể. Ở bất cứ trường hợp nào, các vị
Giám Mục không được phản ứng đối với những quan tâm thực sự và có thể
hiểu được về t́nh trạng thiếu linh mục bằng việc không thi hành đầy đủ
vấn đề nhận thức về ơn gọi, hay bằng việc nhận huấn luyện chủng sinh và
truyền chức cho các ứng sinh thiếu những phẩm chất cần thiết cho thừa
tác vụ linh mục (79). Một giáo sĩ thiếu huấn luyện, được thụ phong thiếu
nhận thức cần thiết, sẽ không dễ có thể cống hiến một chứng từ có thể
tác động nơi người khác ước muốn quảng đại đáp ứng lời mời gọi của Chúa
Kitô. Việc chăm sóc mục vụ cho các ơn gọi cần phải bao gồm cả cộng đồng
Kitô hữu ở hết mọi lănh vực trong đời sống của cộng đồng này (80). Hiển
nhiên là hoạt động mục vụ này ở tất cả mọi tầm cấp cũng bao gồm cả việc
thăm ḍ vấn đề với gia đ́nh, những gia đ́nh thường tỏ ra lạnh lùng hay
thậm chí c̣n chống lại ư nghĩ về ơn gọi làm linh mụcc. Các gia đ́nh cần
phải quảng đại chấp nhận tặng ân sự sống và nuôi dưỡng con cái ḿnh
hướng về việc làm theo ư muốn của Thiên Chúa. Tắt một lời, họ phải can
đảm đề ra trước giới trẻ việc quyết định trọn vẹn theo Chúa Kitô, cho họ
thấy quyết định này là những ǵ hết sức đáng làm biết bao.
Niềm tri ân
và hy vọng
26. Sau
hết, chúng ta cần có một đức tin hơn bao giờ hết và hy vọng vào việc
quan pḥng của Thiên Chúa. Cho dù có thiếu linh mục ở một số miền, chúng
ta cũng không bao giờ được mất niềm tin tưởng rằng Chúa Kitô tiếp tục
tác động những nam nhân từ bỏ mọi sự để dấn thân trọn vẹn trong việc cử
hành các mầu nhiệm thánh, rao giảng Phúc Âm và phục vụ đàn chiên. Về vấn
đề này, tôi muốn bày tỏ ḷng biêá ơn của toàn thể Giáo Hội với tất cả
những vị Giám Mục và linh mục đang thi hành các sứ vụ hiện nay của ḿnh
một cách trung thành, tha thiết và nhiệt thành. Dĩ nhiên ḷng biết ơn
của Giáo Hội cũng được gửi tới các phó tế, những người được đặt tay
“không phải để lănh chức linh mục mà là để phục vụ” (81). Như Thượng
Nghị đề nghịï, tôi xin đặc biệt cám ơn những linh mục Fidei Donum
đang trung thành và quảng đại hoạt động để xây dựng cộng đồng này bằng
việc rao truyền lời Chúa và bằng việc bẻ Bánh Sự Sống, dồn tất cả nỗ lực
của ḿnh vào việc phục vụ sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội (82) Chúng ta
hăy cám ơn Chúa về tất cả những vị linh mục đă chịu khổ thậm chí tới hy
sinh mạng sống ḿnh để phụng sự Chúa Kitô. Gương sáng sống động của các
vị cho thấy ư nghĩa của những ǵ là một vị linh mục cho tới tận cùng.
Gương sáng của họ là một chứng từ cảm kích gây hứng khởi nhiều giới trẻ
theo Chúa Kitô và tiêu hao cuộc sống ḿnh cho kẻ khác, nhờ đó khám phá
ra sự sống đích thực.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20070222_sacramentum-caritatis_en.html
|
|