TÔNG HUẤN

BÍ TÍCH YÊU THƯƠNG - SACRAMENTUM CARITATIS

 

Của

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Gửi Các Vị Giám Mục, Hàng Giáo Sĩ, Đời Tận Hiến và Giáo Dân

Về

 

 

 

Phần Một

 

THÁNH THỂ, MỘT MẦU NHIỆM CẦN PHẢI TIN TƯỞNG

 

“Đây là việc làm của Thiên Chúa, đó là quí vị hăy tin vào Đấng Ngài đă sai” (Jn 6:29)

 

 

V. Thánh Thể và hôn phối 

Thánh Thể, một bí tích phối ngẫu 

27.       Thánh Thể, là bí tích yêu thương, có một liên hệ đặc biệt với t́nh yêu nam nữ trong dời sống hôn nhân. Cần phải hiểu biết sâu xa hơn về mối liên hệ ấy vào lúc này đây (83). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường nói đến đặc tính phối ngẫu này của Thánh thể và mối liên hệ đặc biệt của Thánh Thể với bí tích Hôn Phối: “Thánh Thể là bí tích của ơn cứu chuộc chúng ta. Thánh Thể là bí tích của vị Hôn Phu và của vị Hôn Thê” (84). Ngoài ra, “toàn thể cuộc sống Kitô hữu ghi dấu của t́nh yêu phu thê giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Ngay Phép Rửa là cửa ngơ tiến vào dân Chúa đă là một mầu nhiệm phu thê rồi; có thể nói phép rửa là bể phu thê xẩy ra trước bữa tiệc cưới Thánh Thể” (85). Thánh Thể kiên cường một cách khôn lường mối hiệp nhất bất khả phân ly và t́nh yêu của hết mọi cuộc hôn nhân. Nhờ quyền năng của bí tích này, mối liên hệ hôn nhân được liên kết một cách nội tại với mối hiệp nhất Thánh Thể của Chúa Kitô Hôn Phu với Hôn Thê Giáo Hội (cf. Eph 5:31-32). Việc ưng thuận nhau được vợ chồng trao đổi trong Chúa Kitô, một ưng thuận thiết lập họ thành một cộng đồng của sự sống và yêu thương, cũng có cả chiều kích Thánh Thể. Thật vậy, theo thần học của Thánh Phaolô, t́nh yêu phu thê là một dấu hiệu bí tích của t́nh yêu Chúa Kitô đối với Giáo Hội của Người, một t́nh yêu lên đến tột đỉnh nơi Thập Giá, một thể hiện của việc Người “kết hôn” với nhân loại và đồng thời là nguồn gốc và là tâm điểm của Thánh Thể. Đó là lư do Giáo Hội bày tỏ mối thân thiết thiêng liêng đặc biệt của ḿnh với tất cả những ai xây dựng gia đ́nh của ḿnh trên bí tích Hôn Phối (86). Gia đ́nh – Giáo Hội tại gia (87) – là lănh vực cơ bản của đời sống Giáo Hội, nhất là v́ vai tṛ quyết liệt của nó trong việc giáo dục Kitô giáo cho thành phần trẻ em (88). Theo chiều hướng ấy, Thượng Nghị này cũng kêu gọi hăy nhận thức sứ vụ đặc biệt của nữ giới trong gia đ́nh cũng như trong xă hội, một sứ vụ cần phải được bênh vực, bảo vệ và cổ vơ (89). Hôn nhân và vai tṛ làm mẹ là những ǵ tiêu biểu cho những thực tại thiết yếu không bao giờ được che bai phỉ báng.  

Thánh Thể và tính chất duy nhất của hôn nhân 

28.       Theo ư nghĩa của mối liên hệ nội tại này giữa hôn nhân, gia đ́nh và Thánh Thể, chúng ta có thể hướng tới một số rắc rối trục trặc về mục vụ. Mối quan hệ bất khả phân ly, duy nhất và trung thành liên kết Chúa Kitô và Giáo Hội, mối quan hệ được thể hiện một cách bí tích nơi Thánh Thể, là những ǵ tương hợp với sự kiện căn bản về nhân loại học đó là người nam được ấn định vĩnh viễn liên kết với một người nữ và ngược lại (cf. Gen 2:24, Mt 19:5). Ư thức như thế, Thượng Nghị Giám Mục giải quyết vấn đề của việc thực hành mục vụ liên quan tới thành phần đến với Phúc Âm từ những nền văn hóa theo tập tục đa thê. Những ai sống trong t́nh trạng này, những người cởi mở với niềm tin Kitô giáo, cần phải được trợ giúp để hội nhập dự án sự sống của ḿnh với cái mới mẻ trọn vẹn của Chúa Kitô. Trong thời gian học giáo lư tân ṭng, Chúa Kitô gặp gỡ họ trong những hoàn cảnh đặc biệt của họ và kêu gọi họ theo đuổi trọn vẹn sự thật của t́nh yêu thương, thực hiện bất cứ hy sinh cần thiết nào để tiến tới mối hiệp thông trọn hảo của Giáo Hội. Giáo Hội đồng hành với họ bằng việc chăm sóc về mục vụ dịu dàng nhưng cứng rắn (90), trên hết, bằng việc tỏ cho họ thứ ánh sáng được chiếu tỏa bởi các mầu nhiệm Kitô giáo trên bản tính và những cảm t́nh của con người. 

Thánh Thể và tính chất bất khả phân ly của hôn nhân 

29.       Nếu Thánh Thể thể hiện bản chất bất khả văn hồi của t́nh yêu Thiên Chúa nơi Chúa Kitô đối với Giáo Hội của Người, th́ chúng ta có thể hiểu được tại sao Thánh Thể bao hàm, liên quan tới bí tích Hôn Phối, tính chất bất khả phân ly được tất cả mọi t́nh yêu chân thực không thể nào không khát vọng (91). Thượng Nghị này có lư để tỏ mối quan tâm mục vụ đối với những trường hợp đau thương được trải qua bởi một số tín hữu, thành phần sau khi cử hành bí tích Hôn Phối đă ly dị và tái hôn. Điều này cho thấy cái trục trặc phức tạp và rắc rối về mục vụ, một thứ tai họa thực sự đối với xă hội đương đại, và là tai họa đang càng ngày càng ảnh hưởng tới cộng đồng Công giáo nữa. Các vị chủ chăn của Giáo Hội, v́ ḷng yêu chuộng chân lư, buộc phải thận trọng nhận thức những trường hợp khác nhau, để có thể hướng dẫn thiêng liêng một cách thích đáng cho thành phần tín hữu trong cuộc (92). Thượng Nghị Giám Mục này đă khẳng định việc thực hành của Giáo Hội, căn cứ vào Thánh kinh (cf. Mk 10:2-12), không cho thành phần ly dị rồi tái hôn lănh nhận các bí tích, v́ t́nh trạng của họ và điều kiện sống của họ khách quan nghịch lại với mối hiệp nhất yêu thương của Chúa Kitô và Giáo Hội được biểu hiệu và hiện thực nơi Thánh Thể. Tuy nhiên, thành phần ly dị rồi tái hôn này vẫn tiếp tục thuộc về Giáo Hội, một Giáo Hội đồng hành với họ bằng mối quan tâm đặc biệt và khuyến khích họ sống hoàn toàn bao nhiêu có thể cuộc đời Kitô hữu qua việc thường xuyên tham dự Thánh Lễ, cho dù không được hiệp lễ, lắng nghe lời Chúa, tôn thờ Thánh Thể, nguyện cầu, tham gia sinh hoạt của cộng đồng, thành tâm đối thoại với một vị linh mục hay cha linh hướng, dấn thân sống bác ái, thực hiện ac1c viện thống hối, và chuyên chăm giáo dục con cái của ḿnh.  

Khi có lư hồ nghi về tính chất hiệu thành của hôn nhân theo bí tích trước đó, th́ cần phải thi hành việc điều tra cần thiết để t́m hiểu xem những hồ nghi ấy có ǵ là vững chắc hay chăng. Bởi thế, cần phải bảo đảm, một khi hoàn toàn tôn trọng giáo luật (93), sự hiện diện của các ṭa án thuộc Giáo Hội địa phương, tính chất mục vụ của những ṭa án ấy, và phần vụ sửa chữa và nhắc nhở của những ṭa này (94). Mỗi Giáo Phận cần phải có đủ số người được trang bị cần thiết, nhờ đó các ṭa án của Giáo Hội có thể hoạt động một cách mau mắn. Tôi xin lập lại rằng “thật là một trọng trách trong việc mang hoạt động về cơ cấu của Giáo Hội này nơi các ṭa án của Giáo Hội gần gữi hơn nữa với tín hữu” (95). Đồng thời, không được hiểu việc chăm sóc mục vụ như thể là một cái ǵ đó xung khắc với luật lệ. Trái lại, người ta cần phải bắt đầu bằng việc cho rằng điểm nồng cốt cho việc gặp gỡ giữa lề luật và việc chăm sóc mục vụ là ḷng yêu mến sự thật: sự thật không bao giờ là một cái ǵ đó hoàn toàn trừu tượng, mà là “một phần của cuộc hành tŕnh của nhân loại và Kitô hữu đối với hết mọi phần tử trong tín hữu” (96). Sau hết, khi việc hủy hôn không được ban bố và những hoàn cảnh khách quan làm cho việc thôi ăn ở vợ chồng không thể thực hiện nổi, th́ Giáo Hội khuyến khích những phần tử tín hữu này hăy dấn thân sống mối liên hệ của ḿnh một cách trung thành theo những đ̣i hỏi của luật Chúa, như là bạn hữu của nhau, như anh chị em với nhau, nhờ đó, họ mới có thể trở về với bàn tiệc Thánh Thể, lo tuân giữ việc thực hành được ấn định và chuẩn nhận bởi Giáo Hội về vấn đề này. Đường lối ấy cần phải được nâng đỡ bởi các vị mục tử và bởi những khởi động thích đáng của Giáo Hội mới trở nên khả dĩ và thành công, bằng không những mối liên hệ ấy không được chúc phúc, gây lẫn lộn nơi tín hữu về giá trị của hôn nhân (97).

Trước bối cảnh phức tạp về văn hóa Giáo Hội ngày nay gặp phải ở nhiều xứ sở, Thượng Nghị cũng khuyên hăy tối đa chuyên chú đến việc mục vụ huấn luyện cho các cặp dự bị hôn nhân và việc giúp họ nắm vững được các niềm xác tín của họ về những đ̣i buộc cần thiết cho vấn đề hiệu thành của bí tích Hôn Phối. Việc nghiêm cẩn nhận thức về vấn đề này sẽ giúp vào việc tránh được những trường hợp đi tới những quyết định hấp tấp bốc đồng hay những lư do nông nổi khiến hai con người trẻ lănh lấy những trách nhiệm mà họ bấy giờ không có khả năng tôn trọng (98). Thiện ích mà Giáo Hội và toàn thể xă hội mong đợi nơi hôn nhân cũng như nơi gia đ́nh được căn cứ trên hôn nhân là những ǵ cao cả tới nỗi cần phải thực hiện việc hoàn toàn dấn thân về mục vụ ở lănh vực này. Hôn nhân và gia đ́nh là những cơ cấu cần phải được cổ vơ và bênh vực cho khỏi hết mọi thứ tŕnh bày sai lạccc có thể về bản chất thực sự của chúng, v́ bất cứ những ǵ làm tổn thương tới chúng là gây thương tổn đến chính xă hội.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20070222_sacramentum-caritatis_en.html