Ư Thức Mầu Nhiệm Thánh Thể

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 

2) Thánh Thể là Hy Tế Thập Giá nơi việc Cử Hành Thánh Lễ

 

Trong Thông Điệp Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă xác tín Thánh Thể là một Hy Tế Thập Giá ở khoản số 11, 12 và 14 thứ tự sau đây:

 

• “Khi Giáo Hội cử hành Thánh Thể, cuộc tưởng niệm việc Chúa chịu chết và sống lại, th́ biến cố cứu độ trọng yếu này trở nên hiện tại thực sự và ‘công cuộc cứu chuộc của chúng ta được thể hiện’ (Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 3). Hy tế này quyết liệt cho phần rỗi loài người đến nỗi Chúa Giêsu Kitô đă hiến dâng hy tế này và về cùng Cha chỉ sau khi Người đă để lại cho chúng ta phương tiện để chia sẻ vào hy tế ấy như thể chúng ta đă hiện diện ở đó bấy giờ. Mỗi một phần tử tín hữu đều có thể tham dự vào hy tế này và hái được vô tận hoa trái của hy tế ấy” (khoản số 11).

 

• “Trong việc thiết lập Hiến Tế Thánh Thể này, Người không chỉ nói: ‘Này là ḿnh Thày’, ‘Này là máu Thày’, mà c̣n thêm: ‘hiến cho các con’, ‘đổ ra cho các con’ (Lk 22:19-20). Chúa Giêsu không chỉ nói rằng những ǵ Người bấy giờ đang ban cho họ để ăn và uống là ḿnh Người và máu Người; Người c̣n cho thấy ư nghĩa hy sinh của Hiến Tế Thánh Thể và làm cho hiến tế của Người hiện diện một cách bí tích, một hiến tế sắp được hiến dâng trên Thập Giá cho phần rỗi của tất cả mọi người. ‘Thánh Lễ đồng thời không thể tách biệt với việc tưởng niệm hiến tế, một hiến tế Thập Giá được kéo dài và là một bữa tiệc thánh hiệp thông với ḿnh máu Chúa Kitô’ (Catechism of the Catholic Church, 1382)”. Thánh Lễ làm cho hiến tế Thập Giá hiện thực; Thánh Lễ không thêm vào hiến tế ấy cũng như không tăng thêm cho hiến tế ấy (Cf. Ecumenical Council of Trent, Session XXII, Doctrina de ss. Missae Sacrificio, Chapter 2: DS 1743: “It is one and the same victim here offering himself by the ministry of his priests, who then offered himself on the Cross; it is only the manner of offering that is different”). Những ǵ được lập lại là việc cử hành tưởng niệm của hiến tế ấy, ‘việc tưởng nhớ tái hiện thực’ của hiến tế này (memorialis demonstratio) (Pius XII, Encyclical Letter Mediator Dei [20 November 1947]: AAS 39 [1947], 548), việc làm cho hiến tế cứu chuộc tối hậu duy nhất của Chúa Kitô lúc nào cũng hiện thực qua thời gian. Bản chất hiến tế của mầu nhiệm Thánh Thể, bởi thế, không được hiểu như là một điều ǵ tách biệt, không dính dáng ǵ với Thập Giá hay chỉ gián tiếp liên quan đến hiến tế Canvê”.

 

• “Cuộc vượt qua của Chúa Kitô chẳng những bao gồm cuộc khổ nạn và tử nạn của Người mà c̣n cả cuộc phục sinh của Người nữa. Điều này được nhắc nhớ qua lời cộng đồng tung hô sau phần truyền phép: ‘Chúng tôi tuyên xưng việc Chúa sống lại’. Hy Tế Thánh Thể hiện thực chẳng những mầu nhiệm khổ nạn và tử nạn của Chúa Cứu Thế mà c̣n cả mầu nhiệm phục sinh làm hiển vinh hiến tế của Người nữa. Chính v́ là Đấng hằng sống và phục sinh mà Chúa Kitô mới có thể trở thành “bánh ban sự sống” (Jn 6:35,48), ‘bánh sống’ (Jn 6:51) trong Bí Tích Thánh Thể”.

 

Việc Hiện Diện Thực Sự của Chúa Giêsu trong Bánh Thánh và Rượu Thánh sau lời truyền phép không phải là một hiện diện thần linh có thật song thụ động mà là chủ động: chủ động chẳng những nơi vai tṛ chủ tế của vị linh mục thay cho Chúa Giêsu hiến dâng Hy Tế Thập Giá một cách bí tích trên bàn thờ, mà c̣n nơi chủ đích của việc biến thể nữa, một việc biến thể từ một tấm bánh thành một Thân Thể (không phải một thân thể mới được sinh ra trong hang lừa máng cỏ ở Bêlem mà là) bị trao nộp ở Giêrusalem, và từ một chén rượu thành Máu Giao Ước (không phải máu của Lời mới nhập thể trong ḷng Trinh Nữ Maria ở Nazarét mà là) đổ ra trên đồi tử giá Canvê.

 

Đó là lư do Chúa Giêsu không thiết lập Bí Tích Thánh Thể là để trở thành Hiện Diện Thực Sự của Người ở với Giáo Hội trên thế gian cho tới tận thế (x Mt 28:20), mà chính yếu là để hiện thực và tái diễn Hy Tế Thập Giá của Người. Bởi thế, ngay trong lời truyền phép, lời Chúa Giêsu đă tuyên bố thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Người c̣n truyền cho các tông đồ hiện diện bấy giờ nói riêng và thành phần thừa kế các vị nói chung rằng: “Các con hăy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19). Lời truyền chức tư tế này của Chúa Giêsu cho các vị tông đồ không phải chỉ là những lời Người muốn bảo các tông đồ và thành phần thừa kế các vị là hăy (“làm việc này” là) đọc lại lời Người phán trên bánh và rượu để biến bánh và rượu nên Ḿnh Thánh và Máu Thánh Người, mà là hăy cử hành, hăy tưởng nhớ đến Người, ở chỗ “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến” (Lời Tuyên Xưng “Mầu Nhiệm Đức Tin” sau truyền phép).

 

V́ Mầu Nhiệm Thánh Thể chính yếu là Hy Tế Thập Giá, một Hy Tế cần phải được liên lỉ tưởng niệm và cử hành như thế, mà phụng vụ của Giáo Hội rất lưu tâm đến địa điểm cử hành, hoàn cảnh cử hành và các đồ thánh để Hy Tế Tử Giá vô cùng cao trọng được cử hành một cách xứng đáng, như được tái xác nhận trong Bản Hướng Dẫn “‘Redemptionis Sacramentum’ Về Một Số Vấn Đề Cần Phải Tuân Giữ Hay Tránh Lánh Liên Quan Đến Thánh Thể Cực Linh” ở Chương 5 như sau:

 

• “’Việc cử hành Thánh Thể cần phải được thực hiện ở một nơi thánh, trừ trường hợp đặc biệt cần thiết. Trong trường hợp cần thiết ấy, việc cử hành phải được thực hiện ở một nơi đứng đắn xứng hợp’ (Code of Canon Law, can. 932.1; S. Congregation for Divine Worship, Instruction, Liturgicae instaurationes, n. 9: AAS 62 (1970) p. 701). Vị Giám Mục giáo phận sẽ là vị phán quyết về tính cách cần thiết này, tùy theo từng trường hợp một”. (khoản số 108)

 

• “’Các vị Linh Mục phải thường xuyên cử hành Thánh Thể, luôn nhớ rằng công cuộc cứu chuộc nơi mầu nhiệm Hiến Tế Thánh Thể được liên lỉ thể hiện. Thật vậy, việc cử hành Thánh Thể hằng ngày là những ǵ hết sức đáng làm, v́, cho dù không có sự hiện diện của thành phần tín hữu, th́ việc cử hành này cũng là một tác động của Chúa Kitô và của Giáo Hội, và khi thực hiện việc cử hành này là vị Linh Mục làm trọn vai tṛ chính yếu của các vị’ (Code of Canon Law, can. 904; cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen gentium, n. 3; Decree on the Ministry and Life of Priests, Presbyterorum ordinis, n. 13; cf. also Ecumenical Council of Trent, Session XXII, 17 September 1562, On the Most Holy Sacrifice of the Mass, Chapter 6: DS 1747; Pope Paul Pp. VI, Encyclical Letter Mysterium fidei, 3 September 1965: AAS 57 [1965] pp. 753-774, here pp. 761-762; cf. Pope John Paul II, Encyclical Letter, Ecclesia de Eucharistia, n. 11: AAS 95 [2003] pp. 440-441; S. Congregation of Rites, Instruction, Eucharisticum mysterium, n. 44: AAS 59 [1967] p. 564; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 19)”. (khoản số 110)

 

• “Các chén thánh chứa đựng Ḿnh và Máu Chúa phải được làm theo đúng các qui tắc truyền thống và của các sách phụng vụ (Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 327-333). … Bởi thế, không thể chấp nhận cho sử dụng trong việc cử hành Thánh Lễ các thứ chén thông dụng, các thứ chén thiếu phẩm chất, hay không có tính cách nghệ thuật tí nào hoặc chỉ là những thứ để đựng, như những thứ chén được làm bằng thủy tinh, bằng sành, bằng đất sét hay bằng các thứ chất liệu dễ vỡ khác. Cần phải áp dụng qui tắc này với cả những thứ kim loại hay các thứ chất liệu sẽ bị xét dỉ hay hư hỏng (Cf. ibidem, n. 332; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments,, Instruction, Inaestimabile donum, n. 16: AAS 72 [1980] p. 338)”. (khoản số 117)

 

• “Linh Mục, một khi đă trở lại bàn thờ sau phần cho Rước Lễ, th́ đứng tại bàn thờ hay tại một bàn cân xứng, để lau đĩa thánh và tráng chén thánh theo các qui định của Sách Lễ rồi lau chén bằng khăn sạch. Nếu có Phó Tế bấy giờ th́ vị này trở lại bàn thờ với Linh Mục để tráng chén. Tuy nhiên, đặc biệt trong trường hợp có một số chén thánh cần phải được tráng lau, th́ được phép cứ để đó, đậy lại đàng hoàng, ở trên bàn thờ hay bàn phụ lễ, để vị Linh Mục hay Phó Tế tráng lau ngay sau khi tan Lễ. Ngoài ra, người được chính thức ủy nhiệm vai tṛ phụ tế cũng có thể giúp vị Linh Mục hay Phó Tế tráng lau và sắp xếp các chén thánh ở bàn thờ hay bàn phụ lễ. Nếu không có vị Phó Tế th́ người được chính thức ủy nhiệm vai tṛ phụ tế này mang các chén thánh sang bàn phụ lễ rồi tráng chén, lau khô và sắp xếp các chén thánh ấy theo kiểu cách b́nh thường (Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 163, 183, 192)”. (khoản số 119)

 

• “Các vị Mục Tử phải chú trọng đến những khăn được sử dụng cho bàn thánh, nhất là những khăn đụng chạm tới các h́nh Thánh Thể, cần phải luôn sạch sẽ cũng như cần phải được giặt sạch theo đường lối truyền thống. Để làm điều này, rất nên đổ nước sau lần giặt bằng tay đầu tiên vào cống máng đổ đồ thánh của nhà thờ hay đổ xuống đất ở một nơi xứng đáng. Sau đó, lần giặt thứ hai có thể được làm theo kiểu cách thông thường”. (khoản số 120)

 

• “Chiếc áo thụng dài trắng mặc ở bên trong áo lễ cần phải được cột lại bằng một giây thắt lưng, trừ khi chiếc áo này được làm theo kiểu thắt bụng không cần giây cột. Cần phải đeo chiếc khăn quàng vai trắng trước khi mặc chiếc áo dài trắng này, nếu chiếc áo thụng dài trắng không hoàn toàn che hết bộ y phục thường dân ở cổ (Cf. ibidem, n. 336)”. (khoản số 122)

 

• “Áo lễ xứng hợp với vị Linh Mục cho việc cử hành Thánh Lễ hay cho các tác động linh thánh khác trực tiếp liên quan đến Thánh Lễ, trừ khi có những qui định khác, là một chiếc áo lễ mặc ở bên ngoài chiếc áo thụng dài trắng và giây choàng ở bên trong” (Cf. ibidem, n. 337). Cũng thế, vị Linh Mục, khi mặc áo lễ theo qui định chữ đỏ th́ không được bỏ đeo giây choàng ở bên trong”. (khoản số 123)