|
TÔNG HUẤN
BÍ TÍCH YÊU THƯƠNG
- SACRAMENTUM CARITATIS
Của
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Gửi Các Vị
Giám Mục, Hàng Giáo Sĩ, Đời Tận Hiến và Giáo Dân
Kết Luận
94. Anh
chị em thân mến, Thánh Thể là nguồn gốc của hết mọi h́nh thức thánh
thiện, và mỗi một người rong chúng ta được kêu gọi đến tầm vóc viên trọn
sự sống này trong Thánh Linh. Biết bao nhiêu là vị thánh đă tiến đức
trên con đường thánh thiện nhờ ḷng tôn sùng Thánh Thể của ḿnh! Từ
Thánh Ignatius ở Antioch đến Thánh Âu Quốc Tinh, từ Thánh Đan Viện Phụ
Anthony đến Thánh Biển Đức, từ Thánh Phanxicô ở Assisi đến Thánh Thomas
Aquinas, từ Thánh Clare ở Assisi đến Thánh Catherine ở Siena, từ Thánh
Pascal Baylon đến Thánh Peter Julian Eymard, từ Thánh Alphonsus Liguori
đến Chân Phước Charles de Foucauld, từ Thánh John Mary Vianney đến Thánh
Thérèse ở Lisieux, từ Thánh Pius ở Pietrelcina đến Chân Phước Teresa ở
Calcutta, từ Chân Phước Piergiorgio Frassati đến Chân Phước Ivan Merz,
chỉ liệt kê một ít, sự thánh thiện bao giờ cũng có trọng tâm nơi bí tích
Thánh Thể.
Mầu nhiệm cực
thánh này bởi thế cần phải được vững vàng tin tưởng, sốt sắng cử hành và
thiết tha sống động trong Giáo Hội. Tặng ân bản thân ḿnh của Chúa Giêsu
trong bí tích tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người nói với chúng ta rằng
việc thánh công trong cuộc đời của chúng ta là ở việc chúng ta tham dự
vào sự sống Ba Ngôi được thực sự và vĩnh viễn cống hiến cho chúng ta nơi
Người. Việc cử hành và tôn thờ Thánh Thể giúp chúng ta có thể đến gần
với t́nh yêu của Thiên Chúa và kiên tŕ với t́nh yêu ấy cho tới khi
chúng ta được hiệp nhất với Chúa là Đấng chúng ta yêu mến. Việc hiến
dâng cuộc đời của chúng ta, mối giao kết ccủa chúng ta với toàn thể cộng
đồng tín hữu và t́nh đoàn kết của chúng ta với tất cả mọi con người nam
nữ là những khía cạnh thiết yếu của logiké latreía, tôn thờ thiêng
liêng, thánh hảo và đẹp ḷng Thiên Chúa (cf. Rm 12:1), một việc tôn
thờ thiêng liêng biến đổi hết mọi khía cạnh của cuộc sống làm người của
chúng ta, thành vinh quang của Thiên Chúa. Bởi thế, tôi xin tất cả mọi
vị mục tử đừng bỏ qua một nỗ lực nào trong việc cổ vơ một linh đạo Thánh
Thể đích thực Kitô giáo. Các linh mục, phó tế và tất cả những ai thi
hành thừa tác vụ Thánh Thể bao giờ cũng phải làm sao để có thể t́m thấy
nơi việc phục vụ được thi hành một cách chuyên chăm và liên lỉ sửa soạn
này sức mạnh và hứng khởi cần thiết cho con đường thánh đức chung riêng.
Tôi kêu gọi thành phần tín hữu giáo dân, đặc biệt là các gia đ́nh, hăy
luôn t́m lại nơi bí tích của t́nh yêu Chúa Kitô này nghị lực cần thiết
để làm cho cuộc đời của ḿnh thành một dấu hiệu đích thực ccho sự hiện
diện của Chúa Kitô phục sinh. Tôi xin tất cả mọi con người nam nữ sống
đời tận hiến hăy tỏ ra bằng đời sống Thánh Thể của ḿnh ánh quang và vẻ
đẹp của việc hoàn toàn thuộc về Chúa.
95. Vào
lúc mở màn cho thế kỷ thứ tư, việc tôn thờ của Kitô giáo vẫn c̣n bị các
thẩm quyền đế quốc cấm đoán. Một số Kitô hữu ở Bắc Phi, thành phần cảm
thấy buộc phải cử hành Ngày của Chúa, đă coi thường việc cấm đoán này.
Họ đă chịu tử đạo sau khi tuyên bố rằng họ không thể nào sống mà không
có Thánh Thể, lương thực của Chúa: sine dominico non possumus
(252). Chớ ǵ những vị tử đạo ở Abitinae này, hợp với tất cả những vị
thánh và chân phước lấy Thánh Thể làm tâm điểm của đời ḿnh, chuyển cầu
cho chúng ta và dạy chúng ta biết trung thành với cuộc gặp gỡ Chúa Kitô
phục sinh. Cả chúng ta nữa không thể nào sống mà không lănh nhận bí tích
cứu độ này của chúng ta; chúng ta cũng muốn trở thành iuxta dominicam
viventes, phản ảnh trong đời sống của ḿnh những ǵ chúng ta cử hành
vào Ngày của Chúa. Ngày đó là ngày vĩnh viễn giải phóng của chúng ta.
Bởi thế, có lạ lùng hay chăng chúng ta muốn hằng ngày sống trong cái mới
mẻ này của sự sống là những ǵ được Chúa Kitô mang đến cho chúng ta nơi
mầu nhiệm Thánh Thể?
96. Chớ
ǵ Mẹ Maria Rất Thánh, Vị Trinh Nữ Vô Nhiễm, ḥm bia của giao ước mới
vĩnh hằng, đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta tiến đến gặp
gỡ Chúa là Đấng đang đến. Nơi Mẹ, chúng ta thấy hiện thực một cách hoàn
hảo nhất yếu tính của Giáo Hội. Giáo Hội thấy nơi Mẹ Maria – “Người Nữ
Thánh Thể”, như Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II goọ Mẹ (253) – h́nh
ảnh đẹp nhất của ḿnh, và Giáo Hội chiêm ngưỡng Mẹ Maria như là một mô
phạm duy nhất của đời sống Thánh Thể. V́ lư do ấy, khi vị linh mục sửa
soạn lănh nhận trên bàn thờ verum Corpus natum de Maria Virgine –
Thân Ḿnh thật được sinh bởi Trinh Nữ Maria, khi nói thay
cho cộng đồng phụng vụ, ngài sử dụng những lời của Kinh Nguyện Thánh Thể:
“Chúng con tôn kính Mẹ Maria, Người Mẹ trinh nguyên của Chúa Giêsu Kitô
là Chúa và là Thiên Chúa của chúng con” (254). Tên của Mẹ cũng được kêu
cầu và tôn kính ở các Kinh Nguyện Thánh Thể của các truyền thống Kitô
Giáo Đông Phương. Về phần ḿnh, tín hữu “phó thác cho Mẹ Maria, Mẹ của
Giáo Hội, đời sống của ḿnh cùng với công việc do bàn tay của họ thực
hiện. Khi nỗ lực có những cảm thức giống như Mẹ Maria, họ giúp cho toàn
thể cộng đồng trở thành một lễ dâng sống động hài ḷng Cha” (225). Mẹ là
tota pulchra, toàn mỹ, v́ nơi Mẹ ánh quang rạng ngời của vinh
hiển Thiên Chúa tỏa chiếu. Vẻ đẹp của phụng vụ thiên đ́nh, một phụng vụ
cần phải được phản ảnh nơi các cộng đồng của chúng ta, trung thực phản
ảnh nơi Mẹ. Chúng ta cần phải học ở Mẹ Maria trở thành những con người
nam nữ của Thánh Thể và của Giáo Hội, nhờ đó, tỏ ḿnh ra, như lời Thánh
Phaolô, “thánh hảo và vô trách cứ” trước nhan Chúa, thậm chí như Người
từ ban đầu muốn chúng ta trở nên (cf. Col 1:22; Eph 1:4) (256).
97. Nhờ
lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, xin Thánh Linh thắp lên trong
chúng ta cùng nhiệt t́nh được các vị môn đệ cảm thấy trên đường đi Emmau
(cf Lk 24:13-35) và canh tân “nỗi ngỡ ngàng Thánh Thể” của chúng ta nhờ
ánh quang và vẻ đẹp phát ra từ nghi thức phụng vụ, dấu hiệu hiệu năng
nơi vẻ đẹp vô cùng của mầu nhiệm thánh về Thiên Chúa. Những vị môn đệ
này đă chỗi dạy và vội vàng trở về Gia Liêm để chia sẻ niềm vui của ḿnh
với anh chị em trong đức tin của ḿnh. Niêm vui chân thực được t́m thấy
nơi nhận thức rằng Chúa vẫn ở với chúng ta, người bạn trung thành đồng
hành tiến bước với chúng ta. Thánh Thể làm cho chúng ta khám phá ra rằng
Chúa Kitô phục sinh từ cơi chết là vị đồng thời của chúng ta nơi mầu
nhiệm Giáo Hội là thân ḿnh của Người. Bởi mầu nhiệm yêu thương này
chúng ta đă trở thành những chứng nhân. Chúng ta hăy phấn khích nhau hân
bước tiến bước, ḷng chúng ta tràn đầy ngỡ ngàng, hướng tới cuộc hội ngộ
của chúng ta với Thánh Thể, nhờ đó chúng ta mới có thể cảm nghiệm và
loan báo cho kẻ khác sự thật về những lời Chúa Giêsu đă nói khi ĺa biệt
các môn đệ của Người: “Này đây Thày măi măi ở cùng các con cho đến tận
thế” (Mt 28:20).
Ban hành ở
Rôma, tại Ṭa Thánh Phêrô, ngày 22/2, Lễ Ngai Ṭa Thánh Phêrô, trong năm
2007, năm thứ hai của Giáo Triều tôi.
Giáo Hoàng
Biển Đức XVI
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20070222_sacramentum-caritatis_en.html
(1) Cf. Saint Thomas Aquinas,
Summa Theologiae III, q. 73, a. 3.
(2) Saint Augustine, In
Iohannis Evangelium Tractatus, 26,5: PL 35, 1609.
(3) Benedict XVI, Address to
Participants in the Plenary Assembly of the Congregation for the
Doctrine of the Faith (10 February 2006): AAS 98 (2006), 255.
(4) Benedict XVI, Address to
the Members of the Ordinary Council of the General Secretariat of the
Synod of Bishops (1 June 2006): L'Osservatore Romano, 2 June
2006, p. 5.
(5) Cf. Propositio 2.
(6) I am referring here to the
need for a hermeneutic of continuity also with regard to the correct
interpretation of the liturgical development which followed the Second
Vatican Council: cf. Benedict XVI, Address to the Roman Curia (22
December 2005): AAS 98 (2006), 44-45.
(7) Cf. AAS 97 (2005),
337-352.
(8) The Year of the
Eucharist: Suggestions and Proposals (15 October 2004):
L'Osservatore Romano, 15 October 2004, Supplement.
(9) Cf. AAS 95 (2003),
433-475. Also, the Instruction of the Congregation for Divine Worship
and the Discipline of the Sacraments Redemptionis Sacramentum (25
March 2004): AAS 96 (2004), 549-601, expressly desired by John Paul II.
(10) To name only the more
important documents: Ecumenical Council of Trent, Doctrina et canones
de ss. Missae sacrificio, DS 1738-1759; Leo XIII, Encyclical Letter
Mirae Caritatis (28 May 1902): ASS (1903), 115-136; Pius XII,
Encyclical Letter Mediator Dei (20 November 1947): AAS 39 (1947),
521-595; Paul VI, Encyclical Letter Mysterium Fidei (3 September
1965): AAS 57 (1965), 753-774; John Paul II, Encyclical Letter
Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003): AAS 95 (2003), 433-475;
Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments,
Instruction Eucharisticum Mysterium (25 May 1967): AAS 59 (1967),
539-573; Instruction Liturgiam Authenticam (28 March 2001): AAS
93 (2001), 685-726.
(11) Cf. Propositio 1.
(12) No. 14: AAS 98 (2006),
229.
(13) Catechism of the
Catholic Church, 1327.
(14) Propositio 16.
(15) Benedict XVI, Homily at
the Mass of Installation in the Cathedral of Rome (7 May 2005): AAS 97
(2005), 752.
(16) Cf. Propositio 4.
(17) De Trinitate,
VIII, 8, 12: CCL 50, 287.
(18) Encyclical Letter Deus
Caritas Est (25 December 2005), 12: AAS 98 (2006), 228.
(19) Cf. Propositio 3.
(20) Roman Breviary, Hymn
for the Office of Readings of the Solemnity of Corpus Christi.
(21) Benedict XVI, Encyclical
Letter Deus Caritas Est (25 December 2005), 13: AAS 98 (2006),
228.
(22) Benedict XVI, Homily at
Marienfeld Esplanade (21 August 2005): AAS 97 (2005), 891-892.
(23) Cf.
Propositio 3.
(24) Cf. Roman
Missal, Eucharistic Prayer IV.
(25) Cat. XXIII,
7: PG 33, 1114ff.
(26) Cf. De
Sacerdotio, VI, 4: PG 48, 681.
(27) Ibid., III, 4: PG
48, 642.
(28) Propositio 22.
(29) Cf. Propositio 42:
"This eucharistic encounter takes place in the Holy Spirit, who
transforms and sanctifies us. He re- awakens in the disciple the firm
desire to proclaim boldly to others all that he has heard and
experienced, to bring them to the same encounter with Christ. Thus the
disciple, sent forth by the Church, becomes open to a mission without
frontiers."
(30) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium,
3; for an example, see: Saint John Chrysostom, Catechesis 3,
13-19: SC 50, 174-177.
(31) John Paul II, Encyclical
Letter Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003), 1: AAS 95 (2003),
433.
(32) Ibid., 21: AAS 95
(2003), 447.
(33) Cf. John Paul II,
Encyclical Letter Redemptor Hominis (4 March 1979), 20: AAS 71
(1979), 309-316; Apostolic Letter Dominicae Cenae (24 February
1980), 4: AAS 72 (1980), 119-121.
(34) Cf.
Propositio 5.
(35) Cf. Saint
Thomas Aquinas, Summa Theologiae, III, q. 80, a. 4.
(36) No. 38: AAS
95 (2003), 458.
(37) Second Vatican Ecumenical
Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 23.
(38) Congregation for the
Doctrine of the Faith, Letter on Some Aspects of the Church Understood
as Communion Communionis Notio (28 May 1992), 11: AAS 85 (1993),
844-845.
(39) Propositio 5: "The
term ‘catholic' expresses the universality deriving from the unity that
the Eucharist, celebrated in each Church, fosters and builds up. The
particular Churches in the universal Church thus have, in the Eucharist,
the duty to make visible their own unity and diversity. This bond of
fraternal love allows the trinitarian communion to become apparent. The
Councils and Synods express in history this fraternal aspect of the
Church."
(40) Cf.
ibid.
(41) Decree on the Ministry
and Life of Priests Presbyterorum Ordinis, 5.
(42) Cf. Propositio 14.
(43) Dogmatic Constitution on
the Church Lumen Gentium, 1.
(44) De Orat. Dom., 23:
PL 4, 553.
(45) Second Vatican Ecumenical
Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 48,
cf. ibid., 9.
(46) Cf. Propositio 13.
(47) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium,
7.
(48) Cf. ibid., 11;
Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the Church's Missionary
Activity Ad Gentes, 9, 13.
(49) Cf. John Paul II,
Apostolic Letter Dominicae Cenae (24 February 1980), 7: AAS 72
(1980), 124-127; Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the
Ministry and Life of Priests Presbyterorum Ordinis, 5.
(50) Cf. Code of Canons of
the Eastern Churches, can. 710.
(51) Cf. Rite of the
Christian Initiation of Adults, General Introduction, 34-36.
(52) Cf. Rite of Baptism
for Children, Introduction, 18-19.
(53) Cf. Propositio 15.
(54) Cf. Propositio 7;
John Paul II, Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia (17 April
2003), 36: AAS 95 (2003), 457-458.
(55) Cf. John Paul II,
Post-Synodal Apostolic Exhortation Reconciliatio et Paenitentia
(2 December 1984), 18: AAS 77 (1985), 224-228.
(56) Cf. Catechism of the
Catholic Church, 1385.
(57) For example, the
Confiteor, or the words of the priest and people before receiving
Communion: "Lord, I am not worthy to receive you, but only say the
word and I shall be healed." Not insignificantly does the liturgy
also prescribe certain very beautiful prayers for the priest, handed
down by tradition, which speak of the need for forgiveness, as, for
example, the one recited quietly before inviting the faithful to
sacramental communion: "By the mystery of your
body and blood, free me from all my sins and from every evil. Keep me
always faithful to your teachings and never let me be parted from you."
(58) Cf. Saint John Damascene,
Exposition of the Faith, IV, 9: PG 94, 1124C; Saint Gregory
Nazianzen, Oratio 39, 17: PG 36, 356A; Ecumenical Council of
Trent, Doctrina de sacramento paenitentiae, Chapter 2: DS 1672.
(59) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium,
11; John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Reconciliatio et
Paenitentia (2 December 1984), 30: AAS 77 (1985), 256-257.
(60) Cf.
Propositio 7.
(61) Cf. John
Paul II, Motu Proprio Misericordia Dei (7 April 2002): AAS 94
(2002), 452-459.
(62) Together with the Synod
Fathers I wish to note that the non-sacramental penitential services
mentioned in the ritual of the sacrament of Reconciliation can be
helpful for increasing the spirit of conversion and of communion in
Christian communities, thereby preparing hearts for the celebration of
the sacrament: cf. Propositio 7.
(63) Cf. Code of Canon Law,
can. 508.
(64) Paul VI, Apostolic
Constitution Indulgentiarum Doctrina (1 January 1967), Norms,
No. 1: AAS 59 (1967), 21.
(65) Ibid., 9: AAS 59
(1967), 18-19.
(66) Cf. Catechism of the
Catholic Church, 1499-1532.
(67) Ibid., 1524.
(68) Cf. Propositio 44.
(69) Cf. Synod of Bishops,
Second General Assembly, Document on the Ministerial Priesthood
Ultimis Temporibus (30 November 1971): AAS 63 (1971), 898-942.
(70) Cf. John Paul II,
Post-Synodal Apostolic Exhortation Pastores Dabo Vobis (25 March
1992), 42-69: AAS 84 (1992), 729-778.
(71) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium,
10; Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter on Certain
Questions Concerning the Minister of the Eucharist Sacerdotium
Ministeriale (6 August 1983): AAS 75 (1983), 1001-1009.
(72) Catechism of the
Catholic Church, 1548.
(73) Ibid., 1552.
(74) Cf. In Iohannis
Evangelium Tractatus, 123, 5: PL 35, 1967.
(75) Cf. Propositio 11.
(76) Cf. Decree on the
Ministry and Life of Priests Presbyterorum Ordinis, 16.
(77) Cf. John XXIII,
Encyclical Letter Sacerdotii Nostri Primordia (1 August 1959):
AAS 51 (1959), 545-579; Paul VI, Encyclical Letter Sacerdotalis
Coelibatus (24 June 1967): AAS 59 (1967), 657-697; John Paul II,
Post-Synodal Apostolic Exhortation Pastores Dabo Vobis (25 March
1992), 29: AAS 84 (1992), 703-705; Benedict XVI, Address to the Roman
Curia (22 December 2006): L'Osservatore Romano, 23 December 2006,
p. 6.
(78) Cf. Propositio 11.
(79) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Decree on Priestly Formation Optatam Totius,
6; Code of Canon Law, can. 241, § 1 and can. 1029; Code of Canons of the
Eastern Churches, can. 342 § 1 and can. 758; John Paul II, Post-Synodal
Apostolic Exhortation Pastores Dabo Vobis (25 March 1992), 11,
34, 50: AAS 84 (1992), 673-675; 712-714; 746-748; Congregation for the
Clergy, Directory for the Ministry and Life of Priests Dives
Ecclesiae (31 March 1994), 58; Congregation for Catholic Education,
Instruction Concerning the Criteria for the Discernment of Vocations
with regard to Persons with Homosexual Tendencies in view of their
Admission to the Seminary and to Holy Orders (4 November 2005): AAS 97
(2005), 1007-1013.
(80) Cf. Propositio 12;
John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Pastores Dabo Vobis
(25 March 1992), 41: AAS 84 (1992), 726-729.
(81) Second Vatican Ecumenical
Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 29.
(82) Cf. Propositio 38.
(83) Cf. John Paul II,
Post-Synodal Apostolic Exhortation Familiaris Consortio (22
November 1981), 57: AAS 74 (1982), 149-150.
(84) Apostolic Letter
Mulieris Dignitatem (15 August 1988), 26: AAS 80 (1988), 1715-1716.
(85) Catechism of the
Catholic Church, 1617.
(86) Cf. Propositio 8.
(87) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium,
11.
(88) Cf. Propositio 8.
(89) Cf. John Paul II,
Apostolic Letter Mulieris Dignitatem (15 August 1988): AAS 80
(1988), 1653-1729; Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter
to the Bishops of the Catholic Church on the Collaboration of Men and
Women in the Church and in the World (31 May 2004): AAS 96 (2004),
671-687.
(90) Cf. Propositio 9.
(91) Cf. Catechism of the
Catholic Church, 1640.
(92) Cf. John Paul II, Post-Synodal
Apostolic Exhortation Familiaris Consortio (22 November 1981),
84: AAS 74 (1982), 184- 186; Congregation for the Doctrine of the Faith,
Letter to the Bishops of the Catholic Church concerning the Reception of
Holy Communion by Divorced and Remarried Members of the Faithful
Annus Internationalis Familiae (14 September 1994): AAS 86 (1994),
974-979.
(93) Cf. Pontifical Council
for Legislative Texts, Instruction on the Norms to be Observed at
Ecclesiastical Tribunals in Matrimonial Proceedings Dignitas Connubii
(25 January 2005), Vatican City, 2005.
(94) Cf. Propositio 40.
(95) Benedict XVI, Address to
the Tribunal of the Roman Rota for the Inauguration of the Judicial Year
(28 January 2006): AAS 98 (2006), 138.
(96) Cf. Propositio 40.
(97) Cf.
ibid.
(98) Cf.
ibid.
(99) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium,
48.
(100) Cf. Propositio 3.
(101) Here I would recall the
words filled with hope and consolation found in Eucharistic Prayer II:
"Remember our brothers and sisters who have gone to their rest in the
hope of rising again. Bring them and all the departed into the light of
your presence."
(102) Cf. Benedict XVI, Homily
(8 December 2005): AAS 98 (2006), 15-16.
(103) Dogmatic Constitution on
the Church Lumen Gentium, 58.
(104) Propositio 4.
(105) Relatio post
disceptationem, 4: L'Osservatore Romano, 14 October 2005, p.
5.
(106) Cf. Serm. 1, 7;
11, 10; 22, 7; 29, 76: Sermones dominicales ad fidem codicum nunc
denuo editi, Grottaferrata, 1977, pp. 135, 209ff., 292ff.; 337;
Benedict XVI, Message to Ecclesial Movements and New Communities
(22 May 2006): AAS 98 (2006), 463.
(107) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Pastoral Constitution on the Church in the Modern
World Gaudium et Spes, 22.
(108) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on Divine Revelation Dei
Verbum, 2, 4.
(109) Propositio 33.
(110) Sermo 227, 1: PL
38, 1099.
(111) In Iohannis
Evangelium Tractatus, 21, 8: PL 35, 1568.
(112) Ibid., 28, 1: PL
35, 1622.
(113) Cf. Propositio
30. Weekday Masses, which the faithful are encouraged to attend, find
their proper form on the day of the Lord, the day of Christ's
resurrection; Propositio 43.
(114) Cf. Propositio 2.
(115) Cf. Propositio
25.
(116) Cf. Propositio
19. Propositio 25 states: "An authentic liturgical action
expresses the sacredness of the eucharistic mystery. This should be
evident from the words and actions of the priest who celebrates, as he
intercedes to God the Father both with the faithful and on their
behalf."
(117) General Instruction
of the Roman Missal, 22; Second Vatican Ecumenical Council,
Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum Concilium, 41;
cf. Congregation for Divine Worship and the Discipline of the
Sacraments, Instruction Redemptionis Sacramentum (25 March 2004),
19-25: AAS 96 (2004), 555-557.
(118) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Decree on the Pastoral Office of Bishops in the
Church Christus Dominus, 14; Constitution on the Sacred Liturgy
Sacrosanctum Concilium, 41.
(119) General Instruction
of the Roman Missal, 22.
(120) Cf. ibid.
(121) Cf. Propositio
25.
(122) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum
Concilium, 112-130.
(123) Cf. Propositio
27.
(124) Cf.
ibid.
(125) In these matters the
provisions of the General Instruction of the Roman Missal,
319-351, are to be faithfully observed.
(126) Cf. General
Instruction of the Roman Missal, 39-41; Second Vatican Ecumenical
Council, Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum Concilium,
112-118.
(127) Sermo 34, 1: PL
38, 210.
(128) Cf. Propositio
25: "Like every artistic expression, singing must be closely adapted to
the liturgy and contribute effectively to its aim; in other words, it
must express faith, prayer, wonder and love of Jesus present in the
Eucharist."
(129) Cf. Propositio
29.
(130) Cf. Propositio
36.
(131) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum
Concilium, 116; General Instruction of the Roman Missal, 41.
(132) General Instruction
of the Roman Missal, 28; cf. Second Vatican Ecumenical Council,
Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum Concilium, 56;
Sacred Congregation of Rites, Instruction Eucharisticum Mysterium
(25 May 1967), 3: AAS 57 (1967), 540-543.
(133) Cf. Propositio
18.
(134)
Ibid.
(135) General Instruction
of the Roman Missal, 29.
(136) Cf. John Paul II,
Encyclical Letter Fides et Ratio (14 September 1998), 13: AAS 91
(1999), 15-16.
(137) Saint Jerome, Comm.
in Is., Prol.: PL 24, 17; cf. Second Vatican Ecumenical Council,
Dogmatic Constitution on Divine Revelation Dei Verbum, 25.
(138) Cf. Propositio
31.
(139) General Instruction
of the Roman Missal, 29; cf. Second Vatican Ecumenical Council,
Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum Concilium, 7, 33,
52.
(140) Cf. Propositio
19.
(141) Second Vatican
Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum
Concilium, 52.
(142) Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on Divine Revelation Dei
Verbum, 21.
(143) To this end the Synod
has called for the preparation of pastoral aids based on the three-year
lectionary, to help connect the proclamation of the readings with the
doctrine of the faith; cf. Propositio 19.
(144) Cf. Propositio
20.
(145) General Instruction
of the Roman Missal, 78.
(146) Cf. ibid., 78-79.
(147) Cf. Propositio
22.
(148) General Instruction
of the Roman Missal, 79d.
(149) Ibid., 79c.
(150) Taking into account
ancient and venerable customs and the wishes expressed by the Synod
Fathers, I have asked the competent curial offices to study the
possibility of moving the sign of peace to another place, such as before
the presentation of the gifts at the altar. To do so would also serve as
a significant reminder of the Lord's insistence that we be reconciled
with others before offering our gifts to God (cf. Mt 5:23 ff.);
cf. Propositio 23.
(151) Cf. Congregation for
Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Instruction
Redemptionis Sacramentum (25 March 2004), 80-96: AAS 96 (2004),
574-577.
(152) Cf. Propositio
34.
(153) Cf. Propositio
35.
(154) Cf. Propositio
24.
(155) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum
Concilium, 14-20; 30ff.; 48ff; Congregation for Divine Worship and
the Discipline of the Sacraments, Instruction Redemptionis
Sacramentum (25 March 2004), 36-42: AAS 96 (2004), 561-564.
(156) No. 48.
(157)
Ibid.
(158) Cf. Congregation for the
Clergy, Instruction on Certain Questions Regarding the Collaboration of
the Non- Ordained Faithful in the Ministry of Priests Ecclesiae de
Mysterio (15 August 1997): AAS 89 (1997), 852-877.
(159) Cf. Propositio
33.
(160) General Instruction
of the Roman Missal, 92.
(161) Cf. ibid., 94.
(162) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Decree on the Apostolate of the Laity Apostolicam
Actuositatem, 24; General Instruction of the Roman Missal,
95-111; Congregation for Divine Worship and the Discipline of the
Sacraments, Instruction Redemptionis Sacramentum (25 March 2004),
43-47: AAS 96 (2004), 564-566; Propositio 33: "These ministries
must be introduced in accordance with a specific mandate and in
accordance with the real needs of the celebrating community. Those
entrusted with these liturgical services must be chosen with care, well
prepared, and provided with ongoing formation. Their appointment must be
for a limited term. They must be known to the community and be
gratefully acknowledged by the community."
(163) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum
Concilium, 37-42.
(164) Cf. General
Instruction of the Roman Missal, 386-399.
(165) Cf. Congregation for
Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, Instruction on the
Roman Liturgy and Inculturation Varietates Legitimae (25 January
1994): AAS 87 (1995), 288-314.
(166) Post-Synodal Apostolic
Exhortation Ecclesia in Africa (14 September 1995), 55-71: AAS 88
(1996), 34-47; Post-Synodal Apostolic Exhortation Ecclesia in America
(22 January 1999), 16, 40, 64, 70-72: AAS 91 (1999), 752-753,
775-776, 799, 805-809; Post-Synodal Apostolic Exhortation Ecclesia in
Asia (6 November 1999), 21ff.: AAS 92 (2000), 482-487; Post-Synodal
Apostolic Exhortation Ecclesia in Oceania (22 November 2001), 16:
AAS 94 (2002), 382-384; Post-Synodal Apostolic Exhortation Ecclesia
in Europa (28 June 2003), 58-60: AAS 95 (2003), 685-686.
(167) Cf. Propositio
26.
(168) Cf. Propositio
35; Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred
Liturgy Sacrosanctum Concilium, 11.
(169) Cf. Catechism of the
Catholic Church, 1388; Second Vatican Ecumenical Council,
Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum Concilium, 55.
(170) Cf. Encyclical Letter
Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003), 34: AAS 95 (2003), 456.
(171) See, for example, Saint
Thomas Aquinas, Summa Theologiae, III, q. LXXX, a. 1, 2; Saint
Teresa of Jesus, The Way of Perfection, Chapter 35. The doctrine
was authoritatively confirmed by the Council of Trent, Session XIII, c.
VIII.
(172) Cf. John Paul II,
Encyclical Letter Ut Unum Sint (25 May 1995), 8: AAS 87 (1995),
925-926.
(173) Cf. Propositio
41; Second Vatican Ecumenical Council, Decree on Ecumenism Unitatis
Redintegratio, 8, 15; John Paul II, Encyclical Letter Ut Unum
Sint (25 May 1995), 46: AAS 87 (1995), 948; Encyclical Letter
Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003), 45-46: AAS 95 (2003),
463-464; Code of Canon Law, can. 844 §§ 3-4; Code of Canons of
the Eastern Churches, can. 671 §§ 3-4; Pontifical Council for
Promoting Christian Unity, Directoire pour l'application des
principes et des normes sur l'œcuménisme (25 March 1993), 125,
129-131: AAS 85 (1993), 1087, 1088-1089.
(174) Cf. Nos. 1398-1401.
(175) Cf. No. 293.
(176) Cf. Pontifical Council
for Social Communications, Pastoral Instruction on Social Communications
on the Twentieth Anniversary of "Communio et Progressio" Aetatis
Novae (22 February 1992): AAS 84 (1992), 447-468.
(177) Cf. Propositio
29.
(178) Cf. Propositio
44.
(179) Cf. Propositio
48.
(180) Candidates for the
priesthood can be introduced to these traditions as part of their
seminary training: cf. Propositio 45.
(181) Cf. Propositio
37.
(182) Cf. Constitution on the
Sacred Liturgy Sacrosanctum Concilium, 36, 54.
(183) Propositio 36.
(184) Cf. ibid.
(185) Cf. Propositio
32.
(186) Cf. Propositio
14.
(187) Propositio 19.
(188) Cf. Propositio
14.
(189) Cf. Benedict XVI, Homily
at First Vespers of Pentecost (3 June 2006): AAS 98 (2006), 509.
(190) Cf. Propositio
34.
(191) Enarrationes in
Psalmos 98:9, CCL XXXIX, 1385; cf. Benedict XVI, Address to
the Roman Curia (22 December 2005): AAS 98 (2006), 44-45.
(192) Cf. Propositio 6.
(193) Benedict XVI, Address to
the Roman Curia (22 December 2005): AAS 98 (2006), 45.
(194) Cf. Propositio 6;
Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments,
Directory on Popular Piety and the Liturgy (17 December 2001), Nos.
164-165, Vatican City, 2002; Sacred Congregation of Rites, Instruction
Eucharisticum Mysterium (25 May 1967): AAS 57 (1967), 539-573.
(195) Cf. Relatio post
disceptationem, 11: L'Osservatore Romano, 14 October 2005, p.
5.
(196) Cf. Propositio
28.
(197) Cf. No. 314.
(198) VII, 10, 16: PL 32, 742.
(199) Benedict XVI, Homily at
Marienfeld Esplanade (21 August 2005): AAS 97 (2005), 892; cf. Homily
for the Vigil of Pentecost (3 June 2006): AAS 98 (2006), 505.
(200) Cf. Relatio post
disceptationem, 6, 47: L'Osservatore Romano, 14 October 2005,
pp. 5-6; Propositio 43.
(201) De Civitate Dei,
X, 6: PL 41, 284.
(202) Cf. Catechism of the
Catholic Church, 1368.
(203) Cf. Saint Irenaeus,
Adv. Haer., IV, 20, 7: PG 7, 1037.
(204) Ad Magnes., 9, 1:
PG 5, 670.
(205) Cf. I Apologia,
67, 1-6; 66: PG 6, 430ff., 427, 430.
(206) Cf. Propositio
30.
(207) Cf. AAS 90 (1998),
713-766.
(208) Propositio 30.
(209) Homily (19 March 2006):
AAS 98 (2006), 324.
(210) The Compendium of the
Social Doctrine of the Church, 258, rightly notes in this regard:
"For man, bound as he is to the necessity of work, this rest opens to
the prospect of a fuller freedom, that of the eternal Sabbath (cf.
Heb 4:9-10). Rest gives men and women the possibility to remember
and experience anew God's work, from Creation to Redemption, to
recognize themselves as his work (cf. Eph 2:10), and to give
thanks for their lives and for their subsistence to him who is their
author."
(211) Cf. Propositio
10.
(212) Cf.
ibid.
(213) Cf. Benedict XVI,
Address to the Bishops of Canada – Quebec during their Visit ad Limina
(11 May 2006): cf. L'Osservatore Romano, 12 May 2006, p. 5.
(214) No. 10: AAS 71 (1979),
414-415.
(215) Benedict XVI, General
Audience of 29 March 2006: L'Osservatore Romano, 30 March 2006,
p. 4.
(216) Propositio 39.
(217) Cf. Relatio post
disceptationem, 30: L'Osservatore Romano, 14 October 2005, p.
6.
(218) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium,
39-42.
(219) Cf. John Paul II, Post-Synodal
Apostolic Exhortation Christifideles Laici (30 December 1988),
14, 16: AAS 81 (1989), 409-413; 416-418.
(220) Cf. Propositio
39.
(221) Cf.
ibid.
(222) The Roman Pontifical,
Rites of Ordination of a Bishop, of Priests and of Deacons,
Ordination of a Priest, No. 163.
(223) Cf. John Paul II, Post-Synodal
Apostolic Exhortation Pastores Dabo Vobis (25 March 1992), 19-33;
70-81: AAS 84 (1992), 686-712; 778-800.
(224) Propositio 38.
(225) Propositio 39.
Cf. John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Vita Consecrata
(25 March 1996), 95: AAS 88 (1996), 470-471.
(226) Code of Canon Law, can.
663 § 1.
(227) Cf. John Paul II, Post-Synodal
Apostolic Exhortation Vita Consecrata (25 March 1996), 34: AAS 88
(1996), 407-408.
(228) Encyclical Letter
Veritatis Splendor (6 August 1993), 107: AAS 85 (1993), 1216-1217.
(229) Benedict XVI, Encyclical
Letter Deus Caritas Est (25 December 2005), 14: AAS 98 (2006),
229.
(230) Cf. John Paul II,
Encyclical Letter Evangelium Vitae (25 March 1995): AAS 87
(1995), 401-522; Benedict XVI, Address to the Pontifical Academy for
Life (27 February 2006): AAS 98 (2006), 264-265.
(231) Cf. Congregation for the
Doctrine of the Faith, Doctrinal Note on Some Questions Regarding the
Participation of Catholics in Political Life (24 November 2002): AAS 96
(2004), 359-370.
(232) Cf. Propositio
46.
(233) AAS 97 (2005), 711.
(234) Propositio 42.
(235) Cf. Mart. Polycarp.,
XV, 1: PG 5, 1039, 1042.
(236) Saint Ignatius of
Antioch, Ad. Rom., IV, 1: PG 5, 690.
(237) Cf. Second Vatican
Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium,
42.
(238) Cf. Propositio
42; Congregation for the Doctrine of the Faith, Declaration on the
Unicity and Salvific Universality of Jesus Christ and the Church
Dominus Iesus (6 August 2000), 13- 15: AAS 92 (2000), 754-755.
(239) Cf. Propositio
42.
(240) Benedict XVI, Encyclical
Letter Deus Caritas Est (25 December 2005), 18: AAS 98 (2006),
232.
(241) Ibid., 14.
(242) During the Synod
sessions we heard very moving and significant testimonies about the
effectiveness of the Eucharist in peacemaking. In this regard,
Propositio 49 states that: "Thanks to eucharistic celebrations,
peoples engaged in conflict have been able to gather around the word of
God, hear his prophetic message of reconciliation through gratuitous
forgiveness, and receive the grace of conversion which allows them to
share in the same bread and cup."
(243) Cf. Propositio
48.
(244) Benedict XVI, Encyclical
Letter Deus Caritas Est (25 December 2005), 28: AAS 98 (2006),
239.
(245) Propositio 48.
(246) Benedict XVI, Address to
the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See (9 January 2006): AAS 98
(2006), 127.
(247)
Ibid.
(248) Cf. Propositio
48. In this regard, the Compendium of the Social Doctrine of the
Church has proved most helpful.
(249) Cf. Propositio
43.
(250) Cf. Propositio
47.
(251) Cf. Propositio
17.
(252) Martyrium Saturnini,
Dativi et aliorum plurimorum, 7, 9, 10: PL 8, 707, 709-710.
(253) Cf. John Paul II,
Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003), 53:
AAS 95 (2003), 469.
(254) Eucharistic Prayer I
(Roman Canon).
(255) Propositio 50.
(256) Cf. Benedict XVI, Homily
(8 December 2005): AAS 98 (2006), 15.
|
|