TÔNG HUẤN

BÍ TÍCH YÊU THƯƠNG - SACRAMENTUM CARITATIS

 

Của

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Gửi Các Vị Giám Mục, Hàng Giáo Sĩ, Đời Tận Hiến và Giáo Dân

Về

 

 

Phần Ba

 THÁNH THỂ, MỘT MẦU NHIỆM CẦN PHẢI ĐƯỢC SỐNG

 

“Như Cha hằng sống đă sai Tôi và Tôi sống bởi Cha thế nào

th́ ai ăn Tôi cũng sẽ sống bởi Tôi như thế” (Jn 6:57)

  

 

 

Sống luật buộc giữ Ngày Chúa Nhật

 

73.       Ư thức về nguyên tắc quan trọng mới mẻ về việc Thánh Thể truyền đạt cho Kitô hữu này, các Nghị Phụ tái khẳng định tấm vóc quan trọng của việc buộc giữ ngày Chúa Nhật đối với tất cả mọi tín hữu, coi nó như là một mạch nguồn của tự do chân thực giúp họ có thể sống mỗi ngày theo những ǵ họ cử hành vào “Ngày của Chúa”. Đời sống đức tin bị hiểm nguy khi chúng ta mất đi ước muốn thông phần vào việc cử hành Thánh Thể cùng với việc tưởng niệm cuộc chiến thắng vượt qua của Thánh Thể. Việc tham dự vào cộng đồng phụng vụ Chúa Nhật với tất cả mọi anh chị em của ḿnh, với những ai chúng ta được làm nên một thân thể trong Chúa Giêsu Kitô, là những ǵ đ̣i hỏi theo lương tâm của Kitô hữu chúng ta và đồng thời cũng giúp vào việc h́nh thành lương tâm ấy. Việc mất đi ư nghĩa của Ngày Chúa Nhật là Ngày của Chúa, một ngày cần phải được thánh hóa, là triệu chứng của một thứ mất mát đi cái cảm quan chân thực về tự do Kitô giáo, thứ tự do của thành phần con cái Thiên Chúa (206). Ở đây một số nhận định của vị tiền nhiểm khả kính của tôi là Đức Gioan Phaolô II trong Tông Thư Dies Domini – Ngày của Chúa (207) vẫn tiếp tục c̣n giá trị quan trọng. Khi nói về các chiều kích khác nhau của việc cử hành Chúa Nhật của Kitô giáo, ngài nói rằng chính Ngày của Chúa liên quan tới công cuộc tạo dựng, Ngày của Chúa – Dies Domini như là ngày của một cuộc tân tạo và của tặng ân Thánh Linh bởi Chúa Phục Sinh. Ngày của Giáo Hội - Dies Ecclesiae như là ngày cộng đồng Kitô hữu qui tụ lại để cử hành, và Ngày của con người – Dies hominis như là ngày của hân hoan, nghỉ ngơi và bác ái huynh đệ. 

 

Bởi thế Chúa Nhật trở thành như là một ngày thánh từ ban đầu, khi tất cả mọi tín hữu, bất cứ ở đâu, có thể trở thành thành phần loan tin vui về và bảo hộ cho ư nghĩa đích thực của thời gian. Nó mang lại cho Kitô hữu ư nghĩa cuộc đời và một cách thức mới cảm nghiệm thời gian, những mối liên hệ, việc làm, sự sống và sự chết. Bởi vậy, vào Ngày của Chúa các nhóm của Giáo Hội cần phải tổ chức, quanh Thánh Lễ, những hoạt động của cộng đồng Kitô hữu, những tụ họp về xă hội, những chương tŕnh dạy dỗ đức tin cho trẻ em, giới trẻ và người lớn, những cuộc hành hương, các việc làm bác ái, và những giây phút cầu nguyện khác nhau. V́ những thứ giá trị quan trọng này – vẫn biết là tối Thứ Bảy, bắt đầu với Giờ Kinh Tối Thứ Nhất, đă thuộc về Ngày Chúa Nhật và là một thời điểm có thể làm trọn trách nhiệm Ngày Chúa Nhật – chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Nhật là ngày cần phải giữ cho thánh hảo, kẻo ngày này cuối cùng trở thành một ngày “trống vắng Thiên Chúa” (208).

 

Ư nghĩa của việc nghỉ ngơi và của việc làm

 

74.       Sau hết, ngày nay rất cần phải nhớ rằng ngày của Chúa cũng là ngày nghỉ ngơi thôi làm việc nữa. Rất hy vọng rằng sự kiện này cũng sẽ được xă hội dân sự công nhận, nhờ đó cá nhân con người có thể được phép khỏi phải làm việc mà không bị trừng phạt. Kiô hữu, không phải là không căn cứ vào ư nghĩa của Ngày Hưu Lễ theo truyền thống Do Thái, đă thấy nơi Ngày của Chúa là một ngày nghỉ ngơi khỏi những gắng gỏi hằng ngày của ḿnh. Đây là một điều rất có ư nghĩa, v́ nó tương đối hóa việc làm và hướng nó về con người: việc làm ccho con người chứ không phải con người cho việc làm. Cũng dễ thấy được việc này thực sự bảo vệ con người nam nữ, giải phóng họ khỏi h́nh thức khả dĩ trở thành nô lệ. Như tôi có dịp đă nói, “việc làm có tầm vóc quan trọng đối với tầm mức hoàn trọn của con người cũng như đối với việc phát triển của xă hội. Bởi thế, nó bao giờ cũng cần phải được nh́n nhận và thi hành làm sao để hoàn toàn tôn trọng phẩm vị của con người và bao giờ cũng cần phải phục vụ cho công ích. Đồng thời vấn đề cần thiết ở đây là con người không được để ḿnh trở thành nô lệ cho việc làm hay thần tượng hóa nó, cho rằng để t́m thấy nơi nó ư nghĩa tối hậu và sau cùng của đời sống” (209). Chính vào ngày được dâng cho Thiên Chúa này mà con người nam nữ mới hiểu được ư nghĩa của đời sống ḿnh và cả việc làm của ḿnh (210).

 

Các cuộc tụ họp Chúa Nhật thiếu vắng linh mục

 

75.       Việc tái nhận thức được ư nghĩa của việc cử hành Chúa Nhật đối với đời sống của Kitô hữu tự nhiên dẫn tới một mối quan tâm về vấn đề của những cộng đồng Kitô hữu thiếu linh mục, và v́ thế là nơi sẽ không thể cử hành Lễ vào Ngày của Chúa. Ở đây cần phải nói rằng có nhiều trướng hợp khác nhau xẩy ra.  Thượng Nghị trước hết đă khuyên giục rằng tín hữu cần phải đến một trong những nhà thời trong Giáo Phận của ḿnh là nơi chắc chắn có sự hiện diện của linh mục, thậm chí điều đ̣i hỏi này cần phải trả một giá hy sinh nào đó (211). Bất cứ ở đâu có những khoảnh cách quá xa thực tế không thể thực hiện viện tham dự vào Thánh Thể Chúa Nhật, th́ các cộng đồng Kitô hữu này vẫn cần phải qui tụ lại với nhau để ca ngợi Chúa và tưởng niệm Ngày được giành cho Ngài. Tuy nhiên, điều này cần được kèm theo bởi sự hướng dẫn thích đáng về sự khác nhau giữa Thánh Lễ và những việc qui tụ Chúa Nhật thiếu vắng linh mục. Việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội cần phải được thể hiện ở trường hợp thiếu linh mục bằng việc bảo đảm là phụng vụ lời Chúa – được hướng dẫn bởi một vị phó tế hay một vị lănh đạo cộng đồng là thành phần được thẩm quyền tương hợp ủy thác đàng hoàng – được thi hành theo một nghi thức đặc biệt được soạn dọn và Hội Đồng Giám Mục phê chuẩn cho mục đích này (212). Tôi lập lại là chỉ có các Đấng Bản Quyền mới có thể ban năng quyền cho rước lễ ở những việc phụng vụ như thế, khi lưu ư tới nhu cầu cần phải có khả năng phân biệt nào đó. Hơn nữa, cần phải lưu ư là những cộng đồng này không gây ra lầm lẫn về vai tṛ chính yếu của linh mục và các bí tích nơi đời sống của Giáo Hội. Tầm quan trọng của vai tṛ này được trao cho giáo dân, thành phần cần được cám ơn về việc dấn thân của họ trong việc phục vụ cộng đồng của ḿnh, không bao giờ làm lu mờ đi thừa tác vụ bất khả châm chước của các linh mục đối với đời sống của Giáo Hội (213). Bởi thế, cần phải lưu ư tới việc bảo đảm là những cộng đồng thiếu vắng ấy không khuyến khích những nhăn quan của giáo hội học bất tương hợp với sự thật của Phúc Âm và truyền thống của Giáo Hội. Trái lại, chúng cần phải là những giây phút đặc biệt nguyện cầu cùng Thiên Chúa sai tới các vị linh mục hợp với ư muốn của Ngài. Về vấn đề này, thật là cảm động cckhi đọc những lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong các Bức Thư Gửi Cho Các Linh Mục Thứ Năm Tuần Thánh 1979 về những nơi tín hữu, bị thiếu linh mục bởi một chế độ độc tài, đến gặp gỡ nhau ở một nhà thờ hay một đền thánh, đặt lên bàn thờ chiếc giây stola họ vẫn giữ được và đọc các kinh nguyện ccủa phụng vụ Thánh Thể, giữ thinh lặng “vào lúc tương đương với việc biến thể” như một dấu hiệu cho thấy “họ thiết tha khao khát nghe những lời mà chỉ có công hiệu khi được thốt ra từ môi miệng của vị linh mục” (214) ra sao. Ư thức như thế, và quan tâm tới thiện ích khôn sánh xuất phát từ việc cử hành Thánh Thể, tôi xin tất cả các linh mục hăy sẵn sàng viếng thăm và thương xuyên bao nhiêu có thể các cộng đồng được kư thác cho việc chăm sóc mục vụ của ḿnh, kẻo các cộng đồng ấy vẫn cứ thiếu vắng bí tích yêu thương quá lâu.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20070222_sacramentum-caritatis_en.html