|
TÔNG HUẤN
BÍ TÍCH YÊU THƯƠNG
- SACRAMENTUM CARITATIS
Của
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Gửi Các Vị
Giám Mục, Hàng Giáo Sĩ, Đời Tận Hiến và Giáo Dân
Về
Phần Hai
THÁNH THỂ, MỘT MẦU NHIỆM CẦN PHẢI CỬ HÀNH
«Thật thế, thật thế, Tôi bảo cho các người biết,
không phải Moisen đă cho các người bánh bởi trời
mà là Cha Tôi đă ban bánh thực từ trời” (Jn 6:32)
Cấu
trúc của việc cử hành Thánh Thể
43. Sau
khi đề cập tới những yếu tố quan trọng hơn về nghệ thuật cử hành
được khơi lên trong Thượng Nghị, giờ đây tôi muốn hướng tới một số khía
cạnh đặc biệt về cấu trúc của việc cử hành Thánh Thể là những ǵ đ̣i
phải đặc biết chú trọng vào lúc này đây, nếu chúng ta muốn trung thành
với ư hướng chủ yếu của vấn đề canh tân phụng vụ được Công Đồng Chung
Vaticanô II kêu gọi, liên tục với truyền thống cao cả của Giáo Hội.
Mối hiệp nhất
nội tại của tác động phụng vụ
44.
Trước hết, cần phải suy nghĩ về mối hiệp nhất vốn có của nghi thức Thánh
Lễ. Cả trong việc hướng dẫn giáo lư cũng như nơi cách thức cử hành thực
sự, người ta cần phải tránh đừng gây ấn tượng là hai phần của nghio thức
này chỉ là những ǵ kế cạnh nhau. Phụng vụ lời Chúa và phụng vụ Thánh
Thể, với những nghi thức mở đầu và kết thúc, “liên hệ chặt chẽ với nhau
đến nỗi cả hai làm nên chỉ một tác động tôn thờ duy nhất” (132). Lời
Chúa và Thánh Thể có một mối liên hệ nội tại với nhau. Từ việc lắng nghe
lời Chúa, đức tin được phát sinh và củng cố (cf. Rm 10:17); nơi Thánh
Thể, Lời đă hóa thành nhục thể ban ḿnh cho chúng ta như là lương thực
thiêng liêng (133). Bởi thế, “từ hai bàn tiệc lời Chúa và Ḿnh Chúa Kitô
này, Giáo Hội lănh nhận và cống hiến cho tín hữu bánh sự sống” (134).
Vậy cần phải liên lỉ nhớ rằng lời Chúa, được Giáo Hội đọc và công bố
trong phụng vụ, là những ǵ dẫn tới Thánh Thể như là đích điểm bẩm sinh
của ḿnh.
Phụng vụ lời
Chúa
45.
Cùng với Thượng Nghị, tôi mong muốn rằng phụng vụ lời Chúa bao gờ cũng
phải cẩn thận sửa soạn và cử hành. Bởi thế, tôi thiết tha muốn là cần
phải làm hết sức để bảo đảm rằng việc loan truyền phụng vụ lời Chúa được
ủy thác cho những người đọc dọn trước đàng hoàng. Chúng ta đừng bao giờ
quên rằng “khi Thánh Kinh được đọc lên trong Giáo Hội th́ chính Chúa nói
cùng dân của Ngài, và Chúa Kitô, hiện diện nơi lời của Người, loan báo
Phúc Âm” (135). Khi hoàn cảnh cho phép, có thể cống hiến một vài lời vắn
tắt dẫn nhập để giúp tín hữu tập trung tư tưởng. Nếu hiểu cho đích đáng
th́ lời Chúa cần phải được lắng nghe và chấp nhận bằng một tinh thần
hiệp thông với Giáo Hội và bằng một ư thức rơ ràng về mối hiệp nhất của
lời Chúa với bí tích Thánh Thể. Thật vậy, lời chúng ta công bố và chấp
nhận là Lời đă hóa thành nhục thể (cf Jn 1:14); lời này liên hệ bất khả
phân ly với bản thân của Chúa Kitô cũng như với cách thức bí tích của
việc Người liên tục hiện diện giữa chúng ta. Chúa Kitô không nói trong
quá khứ, nhưng trrong hiện tại, thậm chí Người đang hiện diện nơi tác
động phụng vụ. Trong bối cảnh bí tích này của mạc khải Kitô giáo (136),
th́ kiến thức và việc học hỏi lời Chúa giúp chúng ta có thể khá hơn
trong việc cảm nhận, cử hành và sống Thánh Thể. Cả ở đây nữa, chúng ta
có thể thấy đúng biết bao câu nói “không biết Thánh Kinh là không biết
Chúa Kitô” (137).
Để được như
thế, tín hữu cần được giúp đỡ để cảm nhận những ǵ là phong phú của
Thánh kinh được thấy nơi sách bài đọc qua những hoạt động mục vụ, qua
phụng vụ lời Chúa và bài đọc khi cầu nguyện (lectio divina). Cần
phải nỗ lực để khuyến khích những h́nh thức cầu nguyện được truyền thống
củng cố, như Phụng Vụ Giờ Kinh, nhất là Kinh Ban Mai, Kinh Tối và Kinh
Đêm, cũng như những cử hành ngày vọng áp. Bằng việc cầu nguyện các bài
Thánh Vịnh, các bài đọc Thánh Kinh và những bài đọc được rút tỉa từ
truyền thống lớn lao trong Giờ Kinh Thần Vụ, chúng ta có thể cảm nghiệm
sâu xa hơn về biến cố của Chúa Kitô và về công cuộc cứu độ, một cảm
nghiệm trái lại làm phong phú việc chúng ta hiểu biết và tham dự vào
việc cử hành Thánh Thể (138).
Bài giảng
46. V́
tầm quan trọng của lời Chúa mà phẩm chất của bài giảng cần phải được cải
tiến. Bài giảng “là một phần của tác động phụng vụ” (139), và có mục
đích nuôi dưỡng việc hiểu biết sâu xa hơn lời Chúa, nhờ đó lời Chúa có
thể sinh hoa kết trái trong đời sống của người tín hữu. Bởi thế, các vị
thừa tác viên thánh chức cần phải “cẩn thận sửa soạn bài giảng, căn cứ
vào một kiến thức hoàn toàn đầy đủ về Thánh Kinh” (140). Cần phải tránh
đi những bài giảng tổng quan và trừu tượng. Tôi đặc biệt xin những vị
thừa tác viên này hăy giảng làm sao để bài giảng liên hệ chặt chẽ việc
loan báo lời Chúa với việc cử hành có tính cách bí tích này (141) cũng
như với đời sống của cộng đồng, nhờ đó lời Chúa thực sự trở thành dưỡng
chất sống c̣n và là sức đỡ nâng của Giáo Hội (142). Không được quên mất
mục đích giáo lư và huấn dụ của bài giảng. Trong diễn tŕnh của phụng
niên, cũng thích đáng trong việc cống hiến cho tín hữu, một cách khôn
ngoan và căn cứ vào sách bài đọc chu kỳ 3 năm, những bài giảng “theo chủ
đề” về những đề tài lớn của đức tin Kitô giáo, dựa theo những ǵ đă được
Huấn Quyền lấy thế giá phác họa thành bốn “trụ cột” cho Sách Giáo Lư
Giáo Hội Công Giáo và cuốn Tổng Tóm mới đây, tức là việc tuyên xưng đức
tin, việc cử hành mầu nhiệm Kitô giáo, đời sống trong Chúa Kitô và việc
cầu nguyện của Kitô giáo (143).
(c̣n tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20070222_sacramentum-caritatis_en.html
|
|