|
MARANATHA - Xin Chúa hăy đến
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 482 Thứ Sáu
4/12/2009
Chắc
chúng ta đă nghe thấy tiếng Maranatha, và có thể biết được phần nào ư
nghĩa đại quan của nó nhưng có lẽ không biết rơ lắm nó xuất phát từ đâu,
về ngôn ngữ cũng như về văn bản. Maranatha là một cụm từ của tiếng
Aramaic, ngôn ngữ bản xứ của Chúa Giêsu, xuất hiện có một lần duy nhất
trong Thánh Kinh Tân Ước, ở một trong 3 câu cuối cùng của Thư Thư Nhất
Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, đoạn 16 câu 22. Tiếng Maranatha này
nói chung được dịch và có nghĩa là “Chúa ơi, xin hăy đến” hay “Xin hăy
đến Chúa ơi”.
Chúa đến ra sao?
Thật ra
theo lịch sử th́ Chúa Kitô đă đến rồi, về địa điểm như Tiên Tri Mica đă
báo trước ở đoạn 5 câu 1 rằng: “tại Bêlem Xứ Giuđêa” (Mt 2:6), và
về thời điểm, như Thánh Kư Luca cho biết “vào thời Hoàng Đế Rôma
Caesar Augustus”, vị ra lệnh “kiểm tra dân số lần đầu tiên khi
Quirinius làm tổng trấn xứ Syria” (xem Lk 2:1-2). Tuy nhiên, theo
mạc khải thần linh nói chung và theo Thánh Kinh Tân Ước nói riêng th́
việc Lời hóa thành nhục thể xẩy ra vào “thời sau hết”, như được Thánh
Phaolô nói tới trong Thư gửi giáo đoàn Do Thái ở đoạn 1 câu 2. “Thời sau
hết” được Thánh Phaolô nói tới ở đây thật ra, nếu hiểu theo đúng nghĩa
th́ không phải là thời tận thế, v́, theo ngài nói ở Thư gửi Giáo Đoàn
Galata ở đoạn 4 câu 4 đó là “thời điểm ấn định”: “Khi tới thời điểm
ấn định, Thiên Chúa đă sai Con Ngài sinh ra bởi một người nữ, sinh ra
theo lề luật…”. Tức là tới thời điểm cuối cùng theo ấn định của Ngài,
Thiên Chúa muốn thực hiện những ǵ Ngài nói về dự án cứu độ nhân loại sa
ngă, như lời Ngài hứa ngay từ ban đầu và được Sách Sáng Thế Kư ghi lại ở
đoạn 3 cầu 15, và lời Ngài hứa sai Đấng Thiên Sai tới với Dân Do Thái
theo gịng dơi Abraham, như được Sách Khởi Nguyên ghi lại ở đoạn 12 câu
2-3, và gịng dơi Vua Đavit được ghi nhận trong Sách Samuel cuốn 1 đoạn
7 câu 12-13 và 16, những ǵ được Tiên Tri Isaia tiên báo ở đoạn 7 câu 14
về Đấng Emmanuel, và được Thiên Sứ Gabiên lập lại về vương quốc của Đấng
Thiên Sai này trong ngày truyền tin ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 1 câu
32-33. Bởi thế, chẳng những dân Do Thái và cả nhân loại đều trông chờ vị
cứu tinh thiên sai này.
Vậy Mùa
Vọng của Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng đây mang
một ư nghĩa ǵ nếu chỉ trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ nhất trong khi
Người đă đến rồi? Nếu Mùa Vọng này chỉ có tính cách phụng vụ để tưởng
niệm một biến cố lịch sử liên quan tới Mầu Nhiệm Giáng Sinh th́ biến cố
lịch sử hoàn toàn qua đi ấy sẽ chỉ là những ǵ xẩy ra theo chu kỳ thời
gian vậy thôi, với những tưng bừng nhộn nhịp đầy tính cách thương mại và
vui chơi không khác ǵ một ngày Tết quốc tế. Đến đây chúng ta mới thấy
Mùa Vọng chỉ thực sự có ư nghĩa khi con người nói chung và Kitô hữu nói
riêng, đặc biệt qua phụng vụ Mùa Vọng, luôn thiết tha than lên rằng “Maranatha
– Xin Chúa hăy đến”. Có nghĩa là con người, dù sống trong Mùa Vọng
hay không, hằng liên lỉ “xin Chúa hăy đến” này luôn hướng về Chúa là
“Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Jn 17:3), ở chỗ chỉ biết khát khao Chúa
“hết ḷng muốn, hết linh hồn, và hết sức lực” (Deut 6:5). Để rồi, như Mẹ
Maria, một Trinh Nữ hoàn toàn tinh tuyền “không biết đến nam nhân” (Lk
1:34) và sẵn sàng “xin vâng” (Lk 1:38) theo Thánh Ư Chúa với tất cả con
người và cuộc đời của ḿnh, Thiên Chúa đă đến với Mẹ nơi Lời đă hóa
thành nhục thể bởi quyền phép Thánh Linh thế nào, th́ những ai hằng khao
khát trông mong “xin Chúa hăy đến” cũng sẽ được thỏa nguyện khi Chúa quả
thực sẽ đến với họ và qua họ đến với thế giới. Phải, chỉ khi nào con
người thực sự có được một cảm nghiệm thần linh về sự hiện diện của Chúa
Kitô là Lời Nhập Thể trên trần gian này nói chung và trong Giáo Hội nói
riêng, th́ phụng vụ của Giáo Hội đối với họ mới đúng là việc cử hành mầu
nhiệm thánh và hiện thực mầu nhiệm thánh, mầu nhiệm của Đấng “đă yêu
chúng ta trước” (1Jn 4:19), Đấng hằng muốn đến gặp gỡ chúng ta, tỏ ḿnh
cho chúng ta và ở với chúng ta, Đấng đă đích thân khơi lên trong chúng
ta chính niềm khát vọng “Maranatha – Xin Chúa hăy đến” để Người tiếp tục
đến với chúng ta.
Thật ra
Chúa Giêsu Kitô là Lời Nhập Thể sẽ không đến với những tâm hồn thiết tha
“xin Chúa hăy đến” này một cách hữu h́nh và cụ thể như một nhân vật lịch
sử Giêsu Nazarét xưa kia đă đến với 12 chàng thanh niên để kêu gọi họ
theo Người với tư cách là thành phần chứng nhân tiên khởi mang danh Tông
Đồ. Ngày nay, cũng như dọc suốt gịng lịch sử của Giáo Hội, nhân vật
Giêsu Nazarét là Lời Nhập Thể, Đấng đă Tử Giá và Phục Sinh, và là Đấng
đang ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế đây (cf. Mt 28:20), vẫn đang tiếp
tục đến với chung nhân loại và riêng Kitô hữu qua hai hoạt động chính
yếu là phụng vụ và truyền giáo của Giáo Hội. Qua phụng vụ, Người đến với
nhân loại nơi bí tích Rửa Tội để họ được tái sinh và được sự sống, và
với Kitô hữu qua các bí tích khác, nhất là bí tích Thánh Thể, Ḥa Giải
và Thêm Sức để nhờ đó họ được “sự sống viên măn hơn” (Jn 10:10). Qua
truyền giáọ, Người đến với loài người nơi chứng từ sống động nơi thành
phần tín hữu sống thánh, cũng như qua Phúc Âm được các vị thừa sai rao
giảng. Theo tu đức, Chúa c̣n đến với một thiểu số linh hồn được tuyển
chọn với những thánh giá đau khổ chất ngất, nhất là Người đến vào những
đêm tăm tối đức tin khủng khiếp, để họ có thể được chia sẻ sâu đậm hơn
bao giờ hết với cuộc khổ nạn của Người, nhờ đó Người có thể tiếp tục
sống trong họ cho phần rỗi của các tội nhân cần đến ḷng thương xót của
Người.
Chúa
Giêsu Kitô chắc chắn cũng sẽ đến thế gian lần thứ hai. Nhưng không hoàn
toàn như lần thứ nhất nữa, cả về h́nh thức, cách thức và mục đích. Về
h́nh thức, Người sẽ không đến một cách hữu h́nh và cụ thể như Người đă
sống giữa các tông đồ và di chuyển trên phần Đất Hứa của dân Do Thái xưa,
v́ Người đă phục sinh và thân xác của Người đă hoàn toàn trở thành linh
thiêng, bởi thế Người sẽ đến lần thứ hai “trong vinh quang” (Mt 25:31).
Về cách thức, Người sẽ không c̣n cần phải làm phép lạ để chứng tỏ quyền
năng thần linh của Người, nhờ đó làm cho con người tin vào Người và qua
đó Người cho thấy sứ vụ cứu thế của Người trong việc cứu độ con người
khỏi tội lỗi và sự chết của họ; bởi thế, không có vấn đề phép lạ Chúa sẽ
làm hay cần phải làm để tỏ ḿnh ra ở vào thời điểm tận thế, những ǵ
được Người cảnh báo là chỉ xuất phát từ thành phần tiên tri giả và kitô
giả, cần phải đề pḥng kẻo bị mắc lừa. Về mục đích, như Thánh Phaolô cho
biết trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái đoạn 9 câu 28 như thế này: “Người
sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa tội mà là để mang ơn cứu độ
đến cho những ai thiết tha trông đợi Người”, tức là cho thành phần
Maranatha luôn ước nguyện “Xin Chúa hăy đến”. Ngoài ra, thời điểm khi
Chúa đến là thời điểm tận thế chứ không phải tận thế xẩy ra rồi sau đó
Chúa mới đến, như Thánh Phêrô nói trong Thư Thứ Hai của ḿnh ở đoạn 3
câu 10 như sau: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm, và vào ngày đó các
tầng trời sẽ bùng nổ tan biến, các yếu tố sẽ bị lửa thiêu hủy, và trái
đất cùng với tất cả mọi việc làm của nó sẽ được bộc lộ”.
Thế
nhưng, đối với thành phần Maranatha “Xin Chúa hăy đến” th́ tận thế hay
không tận thế lúc nào cũng là giây phút Chúa đến với họ, v́ họ luôn khao
khát gặp Người, ở với Người và nên một với Người muôn đời muôn kiếp.
Chính v́ Chúa đến lần thứ hai là để mang ơn cứu độ cho những ai thiết
tha trông đợi Người như họ mà, ngay sau đoạn 24 Phúc Âm của ḿnh về ngày
tận thế, Thánh Mathêu đă thuật lại hai dụ ngôn ở cùng đoạn 25 với cuộc
chủng thẩm sau đó, như một nhắc nhở về cách thức đón chờ và nghênh đón
Chúa đến, đó là dụ ngôn 10 cô phù dâu và dụ ngôn các nén bạc. Vậy, để
cùng nhau thực sự khao khát Chúa và cảm nghiệm được Chúa thật sự đă đến
và đang ở với chung Giáo Hội và riêng Kitô hữu đang sống trong Ơn Thánh,
nhất là đang ước nguyện “xin Chúa hăy đến”, chúng ta cùng nhau suy niệm
hai bài dụ ngôn cánh chung này trong Phúc Âm Thánh Mathêu.
Nghênh Đón Chàng Rể
Trong bài
Phúc Âm về 10 Trinh
Nữ,
Chúa Giêsu muốn dạy cho riêng các môn đệ của Người, kể cả những vị chứng
nhân tiên khởi bấy giờ cũng như thành phần môn đệ Kitô hữu chúng ta sau
đó và hiện nay cũng như sau này, về cách thức để nghênh đón Người, tức
về cách thức để có thể gặp được Người, gặp được Đấng không phải đến lần
đầu, mà là đến lần cuối cùng.
Trước hết, bài Phúc Âm về dụ ngôn 10 người trinh nữ hay 10 cô phù dâu
cầm đèn đi đón chàng rể, trong đó có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan.
Trong dụ ngôn Chúa dạy, 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan vừa giống nhau
lại vừa khác nhau ở đoạn đầu, giống nhau ở đoạn giữa, và khác nhau ở
đoạn cuối. Họ giống nhau trong đoạn đầu ở cả 10 cô đều mang cầm đèn sáng
trong tay nhưng lại khác nhau cũng trong giai đoạn này, ở chỗ 5 cô mang
đèn mà không mang theo dầu c̣n 5 cô kia mang cả đèn lẫn dầu. Họ giống
nhau trong đoạn giữa ở chỗ tất cả đều chờ đợi chàng rể và đă thiếp ngủ
đi cho tới nửa đêm là lúc có tiếng gọi “Ḱa chàng rể tới, hăy ra đón
chàng”. Và họ khác nhau trong giai đoạn cuối cùng là những cô mang đèn
lẫn dầu được vào tham dự tiệc cưới với chàng rể, c̣n những cô hết dầu
không được tiếp nhận. Bài Phúc Âm được kết thúc bằng lời Chúa khuyên dạy:
“Hăy tỉnh thức v́ các con không biết được ngày giờ”. Như thế, vấn đề
nghênh đón Chúa Kitô đến lần thứ hai để có thể gặp được Người và hoan
hưởng với Người ở đây là việc “tỉnh thức”, hay ở tại khôn ngoan. Tuy
nhiên, theo bài Phúc Âm này th́ ư nghĩa thực sự của việc “tỉnh thức” hay
của sự khôn ngoan đây là ǵ? Được thể hiện qua những tác động nào?
Để hiểu được ư nghĩa thực sự của việc “tỉnh thức”, chúng ta hăy để ư tới
ba yếu tố quan trọng liên quan đến, thứ nhất, tính cách của thành phần
chủ thể được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm, thứ hai ư nghĩa của
đèn và dầu được họ sử dụng trong việc đi đón chàng rể, và thứ ba, thời
điểm họ chờ đợi chàng rể đến. Về tính cách của thành phần chủ thể được
Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay là 10 cô trinh nữ hay 10 cô
phù dâu. Vậy ư nghĩa của việc “tỉnh thức” liên quan đến tính cách của
chủ thể là các cô trinh nữ chứ không phải các bà góa, hay các cô phù dâu
chứ không phải các chàng phù rể, sửa soạn nghênh đón Chàng Rể Kitô đây
là ǵ, nếu không phải là việc trang điểm đẹp đẽ để có thể xứng đáng diễm
lệ vào dự tiệc cưới của chàng rể và với chàng rể. Ở đây chúng ta cũng có
thể hiểu được vai tṛ của người Kitô hữu, sau khi lănh nhận phép rửa, họ
chẳng những được nên tinh tuyền như những người trinh nữ trong Chúa Kitô,
mà c̣n trở nên thành phần phù dâu của Giáo Hội hiền thê Chúa Kitô nữa.
Mà hiền thê Giáo Hội Chúa Kitô đă trang điểm diễm lệ để nghênh đón Chúa
Kitô thế nào (x Rev 21:2), các cô trinh nữ hay phù dâu cũng phải trang
điểm diễm lệ để nghênh đón Người như vậy mới là “tỉnh thức”.
Về ư nghĩa
của việc cầm đèn đi đón chàng rể của 10 cô trinh nữ hay phù dâu đây liên
quan như thế nào tới ư nghĩa của việc “tỉnh thức” để nghênh đón Chúa
Kitô đến lần cuối cùng? Tại sao 10 cô trinh nữ hay 10 cô phù dâu này lại
cầm đèn mà không cầm những thứ khác, như cầm hoa thơm hay quà tặng? Phải
chăng đèn đây là đức tin, dầu đây là đức cậy và ánh sáng phát ra từ cây
đèn có dầu đây là đức ái? Bởi v́, sau khi lănh nhận phép rửa, con người
chẳng những được khỏi tội tổ tông (lẫn tội ḿnh làm nếu đă có trí khôn),
tức trở nên tinh tuyền như một người trinh nữ, mà c̣n nhận được các thần
đức tin, cậy, mến là những khả năng thần linh để giúp họ có thể tác hành
như con cái Thiên Chúa nữa. Đức ái là ánh sáng chỉ có thể chiếu tỏa từ
cây đèn đức tin mà thôi, nhưng cây đèn đức tin lại không thể chiếu tỏa
ánh sáng đức ái nếu thiếu dầu đức cậy. Đó là lư do khi gặp khốn khó,
nhiều khi cây đèn đức tin nơi Kitô hữu đă bị tắt lịm đức mến, v́ không
đủ nhẫn nại đợi chờ, không đủ cậy trông hy vọng, nhất là khi gặp phải
những gương mù gương xấu vào lúc cuối thời, như Chúa Giêsu đă nói: “V́
sự dữ tràn lan mà ḷng mến nơi nhiều người sẽ trở nên nguội lạnh” (Mt
24:12). Điển h́nh là trường hợp cả 10 cô trinh nữ hay 10 cô phù dâu
trong bài Phúc Âm Chúa Nhật, chờ đợi chàng rể măi, đến nỗi tất cả đều
mệt mă thiếp ngủ. Thế nhưng, nếu c̣n dầu đức cậy th́ cây đèn đức tin vẫn
có thể bùng lên đức ái khi nghe thấy tiếng loan báo Chúa Kitô đến. Vậy,
“tỉnh thức” liên quan đến đèn và dầu đây chính là ḷng khao khát và mong
đợi Chúa Kitô nơi mỗi Kitô hữu, một niềm hy vọng phát xuất từ đáy ḷng
của họ, chứ không phải một niềm hy vọng vay mượn của ai khác hay mua
được của hàng quán như trường hợp của các cô khờ dại trong bài Phúc Âm.
Về ư nghĩa của việc “tỉnh thức” đối với thời điểm chàng rể Kitô đến.
Chúng ta để ư là, theo bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đến không vào lúc
người ta mong đợi, mà vào ngay lúc mọi người đă ngủ say, tức vào lúc
“nửa đêm”. Vậy lúc “nửa đêm” đây có thể hiểu là thời điểm tâm lư, thời
điểm chung loài người và riêng Kitô hữu đang ngủ mê. Nếu môn đệ Chúa
Kitô phải “là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14), để soi sáng cho cả gia đ́nh
nhân loại, mà lại ngủ mê với ngọn đèn đức tin tắt lịm, th́ thế gian lúc
chàng rể Giêsu đến sẽ tối tăm mù mịt là chừng nào. Thế nhưng, thực tế
cho thấy, vào lần đến thứ nhất, nếu “Lời đă hóa thành nhục thể” (Jn
1:14), như “ánh sáng thật chiếu soi mọi người đă đến trong thế gian” (Jn
1:9), mà thế gian vẫn không nhận biết Người, không chấp nhận Người (x Jn
1:10,11), th́ con người có thể nhận biết Người hay chăng khi Người đến
lần thứ hai, nhất là ở vào thời điểm đầy những tiên tri giả và kitô giả
xuất hiện như nấm lừa đảo được nhiều người (x Mt 24:5,11,24)? Phải chăng,
chỉ khi nào nghe tiếng hô: “Ḱa chàng rể tới, hăy ra nghênh đón người”,
bấy giờ môn đệ mới biết thật đâu là Đấng ḿnh đợi trông. Vậy, “tỉnh thức”
liên quan tới thời điểm Chúa Kitô đến lần thứ hai đây chính là việc đáp
ứng kịp thời dấu chỉ thời đại. Vẫn biết thành phần trinh nữ hay phù dâu
khờ dại cũng có thể nghe được tiếng hô kêu gọi này, song bấy giờ họ
không c̣n đủ khả năng để đáp ứng những ǵ họ cần phải có trong việc quan
trọng nhất cuộc đời họ là việc sẵn sàng và kịp thời nghênh đón Chúa Kitô
nữa.
Nén Bạc Cánh Chung
Căn cứ vào
bài Phúc Âm ngắn, 2 câu đầu cho biết có một người trẩy đi phương xa th́
gọi các đầy tớ của ḿnh đến mà trao cho mỗi người một số vốn tùy theo
khả năng của họ, người ít nhất là 1 lượng, người nhiều nhất là 5 lượng,
và người ở giữa là 2 lượng. Sau đó là 3 câu Phúc Âm nói đến việc đáp ứng
của ba người đầy tớ này đối với số vốn bạc được chủ trao cho, hai người
đi sinh lời c̣n một người lại đem chốn giấu nén bạc. Nhưng ba câu này
không buộc đọc. Hai câu tiếp theo của bài Phúc Âm ngắn đó là việc người
đầy tớ được trao cho nhiều nén bạc nhất, sau khi chủ về tính sổ với các
người đầy tớ của ḿnh, liền tŕnh với chủ về những ǵ ḿnh đă làm lợi
cho chủ từ số vốn chủ trao cho. Thế thôi. C̣n phần Phúc Âm sau đó nói
đến việc hai người đầy tớ kia đến tính sổ với chủ, nhất là việc chủ ban
thưởng cho hai người đầy tớ sinh lời và trừng phạt người đầy tớ trả lại
cho chủ nguyên vốn, Giáo Hội không buộc đọc.
Người chủ đi phương xa và phân phát vốn liếng cho các đầy tớ của ḿnh
đây là ai, nếu không phải là Chúa Kitô, Đấng đă về trời sau khi để lại
cho các đầy tớ của ḿnh là thành phần 12 tông đồ 5 nén bạc, gồm có Thánh
Thể, Thánh Vụ, Thánh Ái, Thánh Mẫu và Thánh Thần: Ba nén đầu Người trao
cho các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly (x Lk 22:19; Jn 13:34/15:12), nén thứ
tư Người ở trên Cây Thập Giá trao các vị qua bản thân người tông đồ yêu
dấu của ḿnh là Thánh Gioan Tông Đồ (x Jn 19:27), và nén thứ năm Người
trao cho các vị sau khi Người phục sinh từ trong kẻ chết và thổi hơi
trên các vị (x Jn 20:22). “Sau thời gian dài vắng mặt” đây là ǵ, nếu
không phải thời gian Người Thăng Thiên về trời cùng Cha nhưng qua Thánh
Linh vẫn âm thầm “hằng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế” (Mt 28:20), một
hiện diện thần linh đặc biệt nơi Bí Tích Thánh Thể, nơi Huấn Quyền Giáo
Hội, nơi Đức Tin Thánh Sủng. “Người chủ trở về và tính sổ với các đầy tớ”
đây là ǵ, nếu không phải là việc Người xuất hiện trong vinh quang, một
vinh quang được tỏ hiện rực rỡ nơi Giáo Hội hiền thê diễm lệ của Người
(x Rev 21:2), một thứ diễm lệ phản ánh vinh quang của Người, một thứ
diễm lệ làm Người thỏa măn v́ thấy được tất cả những ǵ ḿnh là và ḿnh
muốn, một thứ diễm lệ thu hút Người, như mời gọi Người “hăy đến” (Rev
22:17).
Nếu nén bạc
đây c̣n ám chỉ tất cả những ǵ thiện hảo Thiên Chúa ban cho mỗi một con
người khi vào trần gian để sống th́ không ai biết ḿnh được rơ ràng và
chắc chắn tất cả bao nhiêu nén. Bởi thế, việc sinh lợi gấp trăm, tức 2
nén sinh 2 nén, 5 nén sinh 5 nén đây, nghĩa là con người biết vận dụng
hết sức ḿnh để sống trọn lành, hay để trả về cho Thiên Chúa tất cả
những ǵ của Thiên Chúa, hay yêu mến Thiên Chúa hết ḷng muốn, hết linh
hồn, hết trí khôn và hết sức lực của ḿnh. Nói cách khác, chúng ta sống
làm sao để cho Thiên Chúa được toàn hiện nơi chúng ta, cho Danh Cha cả
sáng nơi ư thức của chúng ta, cho Nước Chúa trị đến nơi ước vọng của
chúng ta, cho Ư Cha thể hiện nơi cuộc đời của chúng ta. Nên vấn đề đối
với nhân loại chúng ta, nhất là Kitô hữu chúng ta ở đây không phải là
được bao nhiêu nén mà là sinh lợi có đủ hay chăng, dù không biết ḿnh
được bao nhiêu.
Vấn đề của
bài Phúc Âm Thánh Mathêu Năm A áp chót của Phụng Niên là chân lư trọn
vẹn về con người, đó là chân lư con người mang thân phận chỉ là một nô
bộc của Đấng Hóa Công và đóng vai tṛ làm quản lư tất cả những ǵ Ngài
đă ban tặng cho ḿnh hay đặt để nơi ḿnh. Bao giờ hay khi nào con người
sống trong sự thật này, nghĩa là sống đúng thân phận làm tôi Thiên Chúa,
“của Cêsa trả về cho Cêsa”, và đóng đúng vai tṛ làm quản lư cho Ngài,
“của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”, th́ bấy giờ và lúc ấy con người
mới thực sự ước nguyện và hết sức làm cho “danh Cha cả sáng, nước Cha
trị đến, ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, nhờ
đó “Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (1Cor 15:28)
vào lúc cánh chung vậy.
Dấu Chỉ Thời Đại
Mới đây
chúng ta nghe thấy các khoa học gia giả tưởng tuyên bố chính xác ngày
tận thế, đúng hơn là ngày cùng tháng tận của trái đất này, đó là ngày
21/12/2012. Theo các tài liệu được phổ biến th́ ngày dự đoán này của họ
được căn cứ vào
lịch của người Mayan cổ tiền Columbia là giống người vốn thông thái về
toán học và thiên văn đă từng sinh sống tại Mexico, và lịch của người
Mayan này chỉ có tất cả 5125 năm, và ngày 21/12/2012 là ngày cuối cùng.
Thế nhưng, các nhà khoa học Nga và đa số các khoa học gia trên thế giới
đă bác bỏ lời tiên báo này. Theo họ, hoạt động của mặt trời hiện nay
không có ǵ là bất ổn. Họ cho rằng dự đoán t́nh h́nh kinh tế thế giới
liên quan trực tiếp tới cuộc sống của chúng ta mà c̣n chưa chính xác
huống chi dự báo về những sự kiện thảm hoạ thiên nhiên vũ trụ là những
ǵ vốn hết sức phức tạp ngoài tầm kiến thức của con người. Tuy nhiên vẫn
không thể phủ nhận rằng mặt trời chắc chắn sẽ không thể nào kéo dài măi
măi được, ở chỗ, có lúc hoạt động của nó sẽ bất thường thay đổi, gây ảnh
hưởng đến các hành tinh trong thái dương hệ của nó, trong đó có cả trái
đất của chúng ta. Có thể vào năm 2012, theo chu kỳ
50 năm
một
lần,
hoạt động của mặt trời sẽ tăng mạnh so với thời điểm hiện nay, với những
cơn băo mặt trời thường xuyên hơn chăng, do đó gây nên những hậu quả
khôn lường. Vấn đề được người viết đặt ra ở đây là nếu cứ 50 năm một lần
mặt trời có biến động như thế th́ năm 1962 hay 1912 đă xẩy ra những ǵ?
Bất cứ
tiên đoán nào của khoa học cũng là những ǵ không chắc chắn bằng chính
lời khẳng định của Đấng biết hết mọi sự, khi Người phán: “ngày Chúa sẽ
đến như kẻ trộm”. Thế nhưng, qua bộ Phúc Âm Nhất Lăm, chính Người cũng
tiết lộ và báo trước cho thấy những dấu hiệu xẩy ra trước ngày cùng
tháng tận, tức trước khi Người đến trong vinh quang. Một trong những dấu
hiệu báo trước ngày cùng tháng tận của thế gian này đó là t́nh trạng
băng hoại về đạo nghĩa và luân lư của con người, như Người khẳng định ở
Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24 câu 12 như sau: “ḷng của hầu hết con
người ta trở nên nguội lạnh v́ t́nh trạng sự dữ gia tăng”. Thế
nhưng, lạ lùng thay, vào chính thời điểm thế gian đang sống vào mùa đông
nguội lạnh là hiện tượng tiêu biểu cho sự chết này, cho nền văn hóa sự
chết này, lại xẩy ra một sự kiện ngược lại, như Người đă báo trước ở câu
14 sau câu 12 trên đây: “Tin Mừng về vương quốc sẽ được rao truyền
khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân tộc. Chỉ sau đó tận
cùng mới xẩy ra”. Phải chăng các chuyến tông du của Vị Chủ Chăn Tối
Cao của Giáo Hội Công Giáo nói chung, từ Đức Phaolô VI, nhất là 104
chuyến của Đức Gioan Phaolô II đến khắp năm châu bốn biển, chính là
những ǵ đă ứng nghiệm câu Phúc Âm được kết thúc rằng: “Chỉ sau đó tận
cùng mới xẩy ra”?
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng là vị Giáo Hoàng liên quan tới hai vị
thánh dính dáng tới lần đến thứ hai của Chúa Kitô, đó là Thánh Louis
Montfort và Thánh Faustina. Về Thánh Montfort, vị Thánh được ngài lấy
khẩu hiệu “totus tuus – tất cả của con là của Mẹ” từ khoản số 233
tác phẩm Thánh Thực Sùng Kính Mẹ Maria của Thánh Nhân, vị thánh, trong
cùng tác phẩm, ở khoản 49, 50 và 55, đă tiên báo rằng Chúa Kitô đến lần
thứ nhất nhờ Mẹ thế nào th́ lần thứ hai cũng thế tuy không cùng một kiểu
cách, và vào những ngày ấy Mẹ Maria sẽ được Thiên Chúa làm cho nhận biết
và yêu mến, một lời tiên báo đă được ứng nghiệm khi Giáo Hội, trong suốt
lịch sử 2000 năm của ḿnh, trong ṿng gần 100 năm, từ giữa thế kỷ 19 đến
giữa thế kỷ 20, đă tuyên xưng 2 tín điều Thánh Mẫu liền, không v́ lạc
thuyết hay bè rồi, mà chỉ v́ nhận biết và yêu mến Mẹ, đó là tín điều Mẹ
Vô Nhiễm ngày 8/12/1854 và tín điều Mẹ Mông Triệu ngày 1/11/1950, và ở
Fatima, mở đầu phần Bí Mật Fatima thứ hai, Mẹ cũng tiết lộ rằng “Thiên
Chúa muốn thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên
thế giới”.
Về Thánh
Faustina, vị nữ tu cùng quê hương Balan của ngài và là vị đă được ngài
phong thánh ngày 30/4/2000, vị thụ khải đă được Chúa Giêsu ủy nhiệm rằng
“con sẽ sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha” (Nhật Kư
429), cho biết dấu hiệu về ngày cùng tháng tận rơ ràng ở đoạn Nhật Kư 83
như sau: “Trước khi Cha đến như một Quan Án công minh th́ Cha đến như
Đức Vua của T́nh Thương. Trước ngày công thẳng, dân chúng sẽ được thấy
một dấu hiệu trên các tầng trời như thế này: Tất cả ánh sáng trên các
tầng trời sẽ bị tắt hết, và bóng tối khủng khiếp sẽ bao trùm cả trái đất.
Đoạn trên bầu trời sẽ xuất hiện h́nh bóng cây thánh giá, và từ những kẽ
hở của các bàn tay chân bị đóng đanh của Chúa Cứu Thế sẽ phát ra những
ánh sáng cả thể chiếu soi mặt đất trong một khoảng thời gian. Điều này
sẽ xẩy ra không lâu trước ngày cùng tận”.
Lạy Chúa
Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đă đến trong thế gian,
Chúa là
Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa loài người tạo vật chúng con.
Chúa quả
thực đă đến với chúng con vào thời sau hết
bởi một
người nữ và theo lề luật để giải cứu những ai lụy thuộc lề luật
nhờ đó
chúng con được trở thành những đứa con thừa nhận của Thiên Chúa,
thành
phần không sinh ra bởi ư muốn con người, bởi huyết nhục,
mà bởi ư
muốn của Thiên Chúa.
Xin Chúa
hăy biến đời sống trần gian chúng con trở thành một Mùa Vọng đợi trông
Chúa
bằng tấm
ḷng chỉ biết khát khao Chúa là Alpha và Omega của chúng con.
Amen.
|
|