|
Được Công Chính Hóa
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 479 Thứ Sáu
13/11/2009
Chúng ta đang sống trong Tháng 11 là Tháng vốn được gọi chung là Tháng
Các Linh Hồn.
Thật ra,
nếu hiểu “Các Linh Hồn” đây là “những người đă ra đi trước chúng ta”,
tức “các linh hồn” đă quá cố hay đă qua đời, đă ra khỏi đời này mà về
đời sau, th́ “Các Linh Hồn” đây không phải chỉ là thành phần được gọi là
“Các Đẳng” cũng là Các Linh Hồn đang c̣n ở trong Luyện Ngục, chưa được
lên Thiên Đàng, mà c̣n là thành phần “Các Thánh” cũng là Các Linh Hồn
đang được hưởng kiến Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng. Phải chăng đó là
lư do, trong Tháng 11 là Tháng Các linh Hồn này, ngay từ hai ngày đầu
tháng, Giáo Hội đă cố ư cử hành hai lễ, ngày mùng 1 với Lễ Trọng kính
Các Thánh, và ngày mùng 2 với Lễ nhớ Các Đẳng không buộc phải tham dự
như Lễ Các Thánh hôm trước?
Trong
Tháng Các Linh Hồn này, Tháng 11 là tháng gần hết cả năm dân sự lẫn Năm
Phụng Vụ này, Giáo Hội chẳng những nhắc nhở Kitô hữu Công giáo chúng ta
về sự chết, về ngày cùng tháng tận của cuộc đời trần gian mau qua tạm
gửi của chúng ta, và về đời sau, về phần rỗi đời đời, tóm lại về 4 sự
sau là sự chết, phán xét, thiên đàng và hỏa ngục, mà c̣n gián tiếp và
khéo léo nhắc nhở chúng ta một cách đặc biệt về cái cốt lơi làm nên đời
sống Kitô hữu của chúng ta đó là việc chúng ta Được Công Chính Hóa.
Vấn đề
được đặt ra ở đây là nếu chúng ta tin có đời sau th́ chúng ta đang t́m
kiếm những ǵ ở đời này và đă sửa soạn ra sao cho những ǵ ở đời sau là
cơi vĩnh hằng phải đến của chúng ta? Tất nhiên, đối với thành phần Kitô
hữu chúng ta, thành phần tin có đời sau, th́, theo đức tin, cái quan
trọng nhất trên đời này đó là phần rỗi đời đời, đến nỗi, “được lợi lăi
cả thế gian mà mất linh nào nào có ích chi?” (Mt 16:26). Thế nhưng, muốn
được rỗi con người chúng ta cần phải được cứu độ, “Được Công Chính Hóa”!
Vậy Công Chính Hóa là ǵ và làm sao để “Được Công Chính Hóa”, được cứu
rỗi đời đời?
Vấn đề
Công Chính Hóa là một tín lư rất quan trọng trong toàn bộ tín lư của
Giáo Hội nói chung, nhất là kể từ biến cố xuất hiện Phong Trào Thệ Phản
cũng là Phong Trào Cải Cách xẩy ra vào đầu thế kỷ 16, năm 1517, với linh
mục Ḍng Âu Quốc Tinh ở Đức quốc là Lutherô. Sau biến nạn chia rẽ nội bộ
trong Giáo Hội này, một cuộc phân rẽ trầm trọng xẩy ra một lần nữa, và
đó là lần thứ hai nơi lịch sử của Giáo Hội, sau cuộc phân rẽ lần đầu với
Chính Thống Giáo Đông phương năm 1052, Giáo Hội Công Giáo đă lên tiếng
phi bác những sai lầm của phong trào này và cải tiến kỷ luật trong Giáo
Hội, qua Công Đồng Chung Triđentinô, công
đồng chung thứ 19 của Giáo Hội, một công đồng kéo dài lâu nhất, tới 18
năm trời, từ 1545 đến 1563, qua 5 đời giáo hoàng, và đă tuyên bố
nhiều sắc lệnh về tín lư và kỷ luật nhất.
Tuy
nhiên, sau Công Đồng Chung Vaticanô II, theo chiều hướng cởi mở, Giáo
Hội Công giáo đă đẩy mạnh phong trào đại kết Kitô giáo, và thành quả đầu
tiên và quan trọng nhất của trên 30 năm đối thoại đại kết, đó là bản
Tuyên Ngôn Chung về Tín Lư Công Chính Hóa với Liên Hiệp Lutherô Thế Giới.
Hôm Chúa Nhật Lễ Các Thánh 1/11/2009 vừa rồi, ĐTC Biển Đức XVI đă nhắc
lại biến cố đại kết quan trọng này sau Kinh Truyền Tin thế này: “Đúng
10 năm qua đi từ ngày các vị đại diện hàng đầu của tổ chức Liên Hiệp
Lutherô Thế Giới và Giáo Hội Công Giáo kư Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lư
Công Chính Hóa, ở Augsburg, ngày 31/10/1999. Sau đó, vào năm 2006, Hội
Đồng Methodist Thế Giới cũng đồng ư với bản tuyên ngôn này. Bản văn kiện
này đă chứng thực một sự đồng thuận giữa những người Lutherô và Công
Giáo về những chân lư nền tảng của tín lư công chính hóa, những sự thật
đưa chúng ta tới chính tâm điểm của Phúc Âm cũng như tới những vấn đề
thiết yếu của đời sống chúng ta”.
Sau đó,
chính Đức Thánh Cha đương kim Biển Đức XVI của chúng ta, vị đă góp công
rất lớn trong biến cố đại kết này khi c̣n là hồng y tổng trưởng Thánh Bộ
Tín Lư Đức Tin Joseph Ratzinger, đă dẫn giải thêm về “những sự thật
đưa chúng ta tới chính tâm điểm của Phúc Âm cũng như tới những vấn đề
thiết yếu của đời sống chúng ta” như sau: “Chúng ta được Thiên
Chúa chấp nhận và cứu chuộc; cuộc sống của chúng ta được ghi khắc nơi
chân trời của ân sủng, nó được dẫn dắt bởi một Vị Thiên Chúa xót thương,
Đấng tha thứ tội lỗi của chúng ta và gọi chúng ta đến một sự sống mới
theo Con của Ngài; chúng ta sống bởi ân sủng của Thiên Chúa và chúng ta
được kêu gọi để đáp lại tặng ân của Ngài; tất cả những điều ấy giải
thoát chúng ta khỏi sợ hăi và thấm nhập vào chúng ta niềm hy vọng và
ḷng can đảm trong một thế giới đầy bất ổn, lo âu và đau khổ”.
Để có
một cái nh́n khái lược và chính xác về Bản Tuyên Ngôn Chung, Đức Hồng Y
Edward I. Cassidy, Chủ Tịch Hội Đồng Ṭa Thánh Phụ Trách Cổ Động Hiệp
Nhất Kitô Giáo, cũng là vị đại diện Giáo Hội Công Giáo, cùng với Giám
Mục Christain Krause, đại diện Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới, chính thức kư
vào Bản Tuyên Ngôn Chung tại Augsburg, nước Đức, ngày 31-10-1999, đă
tŕnh bày cho biết rơ ràng về tiến tŕnh và nội dung của văn kiện có 44
khoản này, ít là 4 điểm chính yếu sau đây:
Thứ nhất,
Bản Tuyên Ngôn Chung không phải là một lời Tuyên Xưng mới, cũng không
phải là một văn kiện dung ḥa.
Thứ hai,
Bản Tuyên Xưng Chung đây muốn tóm tắt những thành quả đối thoại sau một
thời đoạn kéo dài 30 năm trời giữa Luthêrô và Công Giáo Rôma về khoản
tín lư này, bằng cách nói lên những ǵ được mỗi một cộng đồng tin tưởng
chủ trương nơi những sự thật nền tảng về khoản tín lư ấy, cũng như cho
thấy việc hai bên cắt nghĩa về những sự thật nền tảng ấy không tương
khắc với nhau.
Thứ ba,
phương pháp tŕnh bày đó là, đầu tiên nêu lên đức tin chung đối với mỗi
một sự thật được bàn tới, sau đó, nếu cần th́ cắt nghĩa đường hướng hay
những điểm nhấn mạnh được mỗi bên chủ trương theo truyền thống của ḿnh
về sự thật đặc biệt ấy.
Thứ bốn,
Bản văn kiện tŕnh bày khá chi tiết về bảy vấn đề căn bản sau đây:
1) T́nh
Trạng Loài Người Bất Lực và Tội Lỗi Liên Quan đến Việc Công Chính Hóa;
2) Việc
Công Chính Hóa là Việc Tha Thứ Tội Lỗi và là Việc Làm Nên Chính Trực;
3) Việc
Công Chính Hóa bởi Ân Sủng và nhờ Đức Tin;
4) Người
Được Công Chính Hóa như là Một Tội Nhân;
5) Lề
Luật và Phúc Âm;
6) Việc
Bảo Đảm Phần Rỗi; và
7) Các
Việc Lành Phúc Đức của Người Được Công Chính Hóa.
Giờ đây,
chúng ta cùng nhau theo dơi 7 vấn đề then chốt này: “những sự thật
đưa chúng ta tới chính tâm điểm của Phúc Âm cũng như tới những vấn đề
thiết yếu của đời sống chúng ta”.
4.1-
T́nh Trạng Bất Lực và Tội Lỗi của Con Người với Việc Công Chính Hóa
19.
Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, để được cứu rỗi, tất cả mọi người
đều phải lệ thuộc hoàn toàn vào ân sủng cứu độ của Thiên Chúa. Niềm tự
do họ có đối với con người cũng như đối với sự vật trên thế gian này
không phải là tự do đối với phần rỗi, v́ là những tội nhân, họ phải chịu
Thiên Chúa phán quyết và không thể tự ḿnh trở về với Chúa để được giải
cứu, không thể nên công chính trước nhan Thiên Chúa, hay không thể dùng
khả năng của ḿnh để chiếm lấy ơn cứu độ. Việc công chính hóa được thực
hiện hoàn toàn là do ơn Chúa. V́ Công Giáo và Luthêrô cùng nhau tuyên
xưng điều này, nên phải công nhận:
20.
Khi người Công Giáo nói rằng, con người ‘cộng tác’ trong việc sửa soạn
cũng như trong việc chấp nhận trở nên công chính, bằng cách ưng thuận
tác động công chính hóa của Thiên Chúa, là họ thấy việc ưng thuận riêng
tư này tự nó là hiệu quả của ân sủng, chứ không phải là một tác động
phát xuất từ những khả năng bẩm sinh của loài người.
21.
Theo giáo huấn của người Luthêrô, con người không thể cộng tác vào việc
cứu rỗi của ḿnh, v́ là tội nhân, họ chủ động chống lại Thiên Chúa và
chống lại tác động cứu độ của Ngài. Người Luthêrô không phủ nhận là
người ta có thể từ chối hoạt động của ân sủng. Khi họ nhấn mạnh là con
người chỉ có thể lănh nhận (hoàn toàn thụ động) việc công chính hóa, là
v́ họ có ư loại trừ hết mọi khả năng đóng góp của con người vào việc
công chính hóa bản thân ḿnh, nhưng họ cũng không phủ nhận là bản thân
tín hữu cần phải hoàn toàn dấn thân sống đức tin của ḿnh theo tác dụng
của Lời Chúa.
4.2-
Công Chính Hóa là Việc Tha Thứ Tội Lỗi và Làm Cho Nên Chính Trực
22.
Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, Thiên Chúa lấy ân sủng mà tha thứ
tội lỗi cho con người, đồng thời giải thoát con người khỏi quyền lực cai
trị của tội lỗi, cùng ban cho con người tặng ân sự sống mới trong Chúa
Kitô. Khi con người nhờ đức tin được thông phần với Chúa Kitô, Thiên
Chúa không c̣n qui tội cho họ nữa, và nhờ Thánh Linh Ngài thực hiện nơi
họ một t́nh yêu chủ động. Hai khía cạnh này nơi tác động sủng ái của
Thiên Chúa: cả việc thứ tha tội lỗi và việc hiện diện cứu độ của chính
Thiên Chúa, không được tách ĺa nhau, v́ con người nhờ đức tin được liên
kết với Chúa Kitô, Đấng là đức chính trực của chúng ta nơi bản thân
Người (1Cor 1:30). V́ Công Giáo và Luthêrô cùng nhau tuyên xưng điều ấy
nên phải công nhận:
23.
Khi người Luthêrô nhấn mạnh rằng, đức chính trực của Chúa Kitô là đức
chính trực của chúng ta, th́ trước hết họ có ư nhấn mạnh là tội nhân
được làm cho nên chính trực trước nhan Thiên Chúa trong Chúa Kitô, nhờ
việc công bố thứ tha tội lỗi, và cũng có ư nhấn mạnh là đời sống của con
người chỉ được đổi mới ở tại việc hiệp nhất với Chúa Kitô mà thôi. Khi
họ nhấn mạnh ân sủng của Thiên Chúa là t́nh yêu tha thứ (‘hồng ân của
Thiên Chúa’), th́ họ không phủ nhận việc canh tân đời sống Kitô hữu.
Trái lại, họ có ư nói lên rằng, công chính hóa vẫn không dính dáng đến
việc cộng tác của con người, cũng như không lệ thuộc vào các hiệu quả
canh tân đời sống của ân sủng nơi con người.
24.
Khi người Công Giáo nhấn mạnh đến việc canh tân con người nội tâm bằng
việc lănh nhận ân sủng được ban xuống như tặng ân cho người tín hữu, là
họ muốn nhấn mạnh ơn tha thứ của Thiên Chúa luôn luôn mang lại tặng ân
sự sống mới, một sự sống trở nên hiệu nghiệm bởi t́nh yêu chủ động trong
Chúa Thánh Thần. Bởi thế, họ không chối bỏ việc Thiên Chúa ban phát ơn
công chính hóa cho con người mà vẫn không dính dáng ǵ tới việc cộng tác
của con người.
4.3-
Công Chính Hóa bởi Đức Tin và nhờ Ân Sủng
25.
Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, tội nhân được công chính hóa bởi đức
tin theo tác động cứu độ của Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Bằng hoạt động
của Chúa Thánh Thần nơi phép rửa, họ được ban tặng ân cứu độ, tặng ân
làm nền tảng cho cả đời sống Kitô hữu. Họ đặt ḷng tin tưởng của ḿnh
nơi lời hứa sủng ái của Thiên Chúa bằng đức tin công chính hóa, đức tin
bao gồm cả ḷng cậy trông Thiên Chúa và ḷng mến yêu Ngài. Một đức tin
như vậy linh hoạt trong yêu thương, nhờ đó, Kitô hữu không thể và không
được thụ động không làm ǵ. Thế nhưng, bất cứ những ǵ nơi con người
được công chính hóa có trước hay theo sau tặng ân đức tin nhưng không
này đều không phải là nguồn gốc của việc công chính hóa hay làm nên việc
công chính hóa.
26.
Theo người Luthêrô hiểu, Thiên Chúa công chính hóa tội nhân bằng đức tin
mà thôi (sola fide). Với đức tin, họ hoàn toàn đặt ḷng tin tưởng vào
Đấng Tạo Hóa cũng là Đấng Cứu Chuộc của họ, nhờ đó, họ sống hiệp thông
với Ngài. Chính Thiên Chúa tác động đức tin khi Ngài dùng lời tác tạo
của ḿnh làm phát sinh ra một ḷng tin tưởng như thế. V́ tác động của
Thiên Chúa là một việc sáng tạo mới, tác động của Ngài ảnh hưởng đến tất
cả mọi chiều kích của con người và dẫn họ đến một đời sống hy vọng cũng
như yêu thương. Theo tín lư về ‘việc công chính hóa bởi duy một ḿnh đức
tin’, cần phải phân biệt, chứ không phải tách biệt, giữa chính việc công
chính hóa và việc canh tân lối sống của con người, một việc canh tân cần
phải có bởi được công chính hóa, mà nếu thiếu việc canh tân này cũng kể
như đức tin không có. Nhờ có căn bản rơ ràng mới tiến hành đến việc canh
tân đời sống, một việc canh tân phát xuất từ t́nh yêu Thiên Chúa đă ban
cho con người được công chính hóa. Việc công chính hóa và việc canh tân
được liên kết với nhau trong Chúa Kitô, Đấng hiện diện trong đức tin.
27.
Theo sự hiểu biết của ḿnh, người Công Giáo cũng thấy rằng, đức tin là
nền tảng trong việc công chính hóa. V́ không có đức tin không thể nào có
việc công chính hóa. Những con người được công chính hóa nhờ phép rửa là
những người nghe lời Chúa và là những người tin vào lời Chúa. Công chính
hóa tội nhân là việc tha thứ tội lỗi và làm cho họ nên chính trực bằng
ơn công chính hóa, ơn làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Được
công chính hóa, người chính trực lănh nhận nơi Chúa Kitô đức tin, đức
cậy và đức mến, nhờ đó, họ được hiệp thông với Ngài. Mối liên hệ mới mẻ
với Thiên Chúa ấy hoàn toàn là do ḷng ưu ái của Thiên Chúa, hằng liên
lỉ lệ thuộc vào tác động cứu độ và sáng tạo của Vị Thiên Chúa là Đấng
chân thực để con người có thể tin cậy nơi Ngài này. Như thế, ơn công
chính hóa không bao giờ thuộc về con người, làm cho họ có thể lên mặt
với Thiên Chúa. Nếu giáo huấn của Công Giáo nhấn mạnh đến việc canh tân
đời sống bằng ơn công chính hóa, th́ việc canh tân trong đức tin, đức
cậy và đức mến này luôn luôn tùy thuộc vào ân sủng khôn lường của Thiên
Chúa, và không đóng góp ǵ cho việc công chính hóa làm cho con người có
thể hănh diện trước nhan Thiên Chúa (Rm 3:27).
4.4-
Người Được Công Chính Hóa là Một Tội Nhân
28.
Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, trong phép rửa, Chúa Thánh Thần đă
liên kết con người với Chúa Kitô, đă công chính hóa và thực sự đă canh
tân con người. Thế nhưng, con người được công chính hóa, trong cả đời
sống, phải liên lỉ cần đến ơn công chính nhưng không của Thiên Chúa. Họ
cũng luôn luôn chịu ảnh hưởng đàn áp tấn công của quyền lực tội lỗi (cf
Rm 6:12-14), và không tránh khỏi cuộc đối chọi kéo dài cả đời với những
ǵ phản lại Thiên Chúa nơi các ước muốn vị kỷ của Adong xưa (cf Gal
5:16; Rm 7:7-10). Người được công chính hóa cũng phải xin Chúa hằng ngày
thứ tha cho ḿnh như trong Kinh Chúa Dạy (Mt 6:12; 1Jn 1:9), hằng được
kêu gọi ăn năn cải thiện cùng thống hối, và hằng được nhận lại ơn Chúa
thứ tha.
29.
Người Luthêrô cho thân phận của Kitô hữu này là một thân phận ‘vừa là
chính nhân vừa là tội nhân’. Tín hữu hoàn toàn là con người chính trực,
bởi Thiên Chúa thứ tha tội lỗi cho họ bằng Lời Chúa cũng như bằng Bí
Tích, và ban cho họ đức chính trực của Chúa Kitô mà họ đáng được trong
đức tin. Nơi Chúa Kitô, họ được nên người công chính trước nhan Thiên
Chúa. Tuy nhiên, nh́n vào ḿnh theo lề luật, họ nhận thấy rằng họ vẫn
hoàn toàn là tội nhân. Tội lỗi vẫn sống trong họ (1Jn 1:8; Rm 7:17, 20),
v́ họ không thôi quay về với các ngụy thần và không kính mến Thiên Chúa
bằng một t́nh yêu nguyên vẹn như Thiên Chúa là Đấng Dựng Nên họ đ̣i hỏi
(Deut 6:5; Mt 22:36-40 pr.). T́nh trạng phản nghịch với Thiên Chúa ấy
thực là tội lỗi vậy. Tuy nhiên, quyền lực làm chủ của tội lỗi đă bị chế
ngự bởi công nghiệp của Chúa Kitô. Tội lỗi không c̣n ‘làm chủ’ Kitô hữu
nữa, v́ chính nó đă bị Chúa Kitô là Đấng kẻ được công chính hóa gắn bó
trong đức tin ‘làm chủ’ rồi. Bởi thế, trong cuộc sống này, Kitô hữu có
thể sống công chính một phần nào. Cho dù tội lỗi, Kitô hữu vẫn không ĺa
xa Thiên Chúa, v́ hằng ngày, trong việc trở về với phép rửa, con người
đă được tái sinh bởi phép rửa và bởi Thánh Thần lại được thứ tha tội lỗi.
Như thế, tội lỗi ấy không c̣n làm cho con người bị trầm luân hay bị chết
đời đời nữa. Vậy, khi người Luthêrô nói rằng, những người được công
chính hóa cũng là những tội nhân, và nói rằng t́nh trạng họ phản chống
Thiên Chúa thực sự là tội lỗi, th́ họ không phủ nhận là, dù có tội như
thế, thành phần này vẫn không ĺa xa Thiên Chúa và tội lỗi ấy là tội lỗi
đă được ’làm chủ’. Theo những xác nhận này, cho dù có hiểu khác với
người Công Giáo về tội lỗi nơi con người được công chính hóa, người
Luthêrô cũng đồng ư với người Công Giáo Rôma.
30.
Người Công Giáo chủ trương rằng, ân sủng của Chúa Giêsu Kitô ban cho khi
lănh nhận phép rửa tẩy sạch tất cả những ǵ là tội lỗi ‘theo đúng nghĩa
của nó’ và là tội lỗi ‘đáng bị trầm luân’ (Rm 8:1). Tuy nhiên, con người
vẫn c̣n một khuynh hướng hạ (đam mê) bởi tội mà ra và đẩy con người đến
việc phạm tội. V́, theo niềm tin Công Giáo, tội lỗi của con người bao
giờ cũng dính dáng đến yếu tố cá nhân, và bởi yếu tố cá nhân này không
có ở nơi khuynh hướng hạ ấy, nên người Công Giáo không cho rằng khuynh
hướng hạ này là tội lỗi theo đúng nghĩa của nó. Họ không phủ nhận là
khuynh hướng hạ này không xứng hợp với dự án nguyên thủy của Thiên Chúa
về con người, và theo khách quan, nó nghịch lại với Thiên Chúa và vẫn là
kẻ thù mà con người cả đời phải chống chọi. Người Công Giáo nhấn mạnh là,
được ơn Chúa Kitô giải cứu, khuynh hướng hạ phản nghịch với Thiên Chúa
này không đáng bị phạt chết đời đời, cũng như không tách ĺa con người
được công chính hóa khỏi Thiên Chúa. Thế nhưng, khi cá nhân con người tự
ư tách ḿnh ĺa khỏi Thiên Chúa, th́ việc họ tuân giữ lại các giới răn
cũng chưa đủ, v́ họ phải lănh nhận ơn tha thứ và b́nh an nơi Bí Tích Ḥa
Giải qua lời xá tội lỗi của họ, căn cứ vào việc Thiên Chúa giải ḥa
trong Chúa Kitô.
4.5- Lề
Luật và Phúc Âm
31.
Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, con người được công chính hóa bởi
đức tin vào phúc âm ‘tách biệt với các việc làm theo lề luật qui định’ (Rm
3:28). Chúa Kitô đă làm trọn lề luật, và bằng cuộc tử nạn và phục sinh
của ḿnh, Người đă làm chủ lề luật như là một đường lối cứu độ. Chúng ta
cũng tuyên xưng rằng, các giới luật của Thiên Chúa vẫn c̣n hiệu lực của
ḿnh đối với thành phần được công chính hóa, và giáo huấn cũng như gương
mẫu của Chúa Kitô là những ǵ cho thấy ư muốn của Thiên Chúa sẽ là tiêu
chuẩn cho người được công chính hóa tác hành theo.
32.
Người Luthêrô cho rằng, việc phân biệt và thứ tự trên dưới giữa lề luật
với phúc âm là những ǵ thiết yếu để hiểu được việc công chính hóa. Theo
phương diện thần học thực dụng của họ th́ lề luật là điều bó buộc và là
điều cáo buộc. Suốt cuộc sống của ḿnh, tất cả mọi người, kể cả Kitô hữu,
một cuộc sống họ là những tội nhân, phải chịu đựng việc cáo buộc này,
một cáo buộc tố giác tội lỗi của họ, để rồi, bằng niềm tin vào phúc âm,
họ sẽ không ngần ngại trở về với t́nh thương của Thiên Chúa trong Chúa
Kitô, Đấng duy nhất công chính hóa họ.
33.
V́ lề luật như là một đường lối cứu độ đă được phúc âm làm cho nên trọn
và chế ngự, người Công Giáo mới cho rằng Chúa Kitô không phải là nhà ban
bố luật theo kiểu Moisen. Khi người Công Giáo nhấn mạnh là người chính
trực buộc phải tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa th́ họ cũng không
chối bỏ là, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đă xót thương hứa cho con
cái Ngài ơn được sống đời đời.
4.6-
Việc Bảo Đảm Phần Rỗi
34.
Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, người tín hữu có thể tin cậy vào
t́nh thương và các lời hứa của Thiên Chúa. Bất chấp nỗi yếu hèn của ḿnh,
cũng như bất chấp những đe dọa nhiều mặt nguy hiểm đến đức tin của ḿnh,
cậy dựa vào sức mạnh của việc Chúa Kitô tử nạn và phục sinh, họ cũng có
thể vững tâm vào lời hứa hiệu năng của ơn Thiên Chúa nơi Lời Chúa và Bí
Tích, nhờ thế họ nắm chắc được ơn này.
35.. Người Cải Cách đặc biệt nhấn mạnh đến điều này, đó là, giữa thử
thách cám dỗ, người tín hữu không được cậy dựa vào ḿnh mà phải hoàn
toàn cậy dựa vào Chúa Kitô và tin tưởng nơi một ḿnh Người. Bằng việc
tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa, chứ không bao giờ cậy dựa vào bản
thân, họ nắm chắc được phần rỗi của ḿnh.
36. Người Công Giáo có thể chung một quan tâm với người Cải Cách
trong việc đặt đức tin vào thực tại khách quan của lời Chúa Kitô hứa,
trong việc bỏ đi cảm nghiệm riêng tư của ḿnh, cũng như trong việc tin
tưởng vào nguyên lời thứ tha của Chúa Kitô mà thôi (cf Mt 16:19, 18:18).
Theo Công Đồng Chung Vaticanô II, người Công Giáo cho rằng sống đức tin
là hoàn toàn phó ḿnh cho Thiên Chúa, Đấng giải thoát chúng ta khỏi bóng
tối tội lỗi cùng sự chết và làm cho chúng ta bừng lên sự sống đời đời.
Bởi thế, con người không thể tin tưởng nơi Thiên Chúa, đồng thời lại coi
lời hứa thần linh là không đáng tin tưởng. Không ai được ngờ vực t́nh
thương của Thiên Chúa và công nghiệp của Chúa Kitô. Tuy nhiên, mọi người
có thể quan tâm đến phần rỗi của ḿnh khi họ thấy ḿnh yếu đuối và kém
cỏi. Thế nhưng, nhận thấy ḿnh sa ngă, tín hữu mới có thể tin là Thiên
Chúa muốn cứu độ họ.
4.7-
Các Việc Lành Phúc Đức của Người Được Công Chính Hóa
37. Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng, các việc lành phúc đức – một
đời sống Kitô hữu sống đức tin, đức cậy và đức mến – là do việc công
chính hóa và là hoa trái của việc công chính hóa. Khi thành phần được
công chính hóa sống trong Đức Kitô và hoạt động theo ân sủng nhận được,
là họ làm trổ sinh trái tốt, theo từ ngữ thánh kinh. Bởi Kitô hữu chống
chọi với tội lỗi suốt cuộc đời của ḿnh, họ cũng buộc phải chiếm được
thành quả của việc công chính hóa ấy. Thế nên, cả Chúa Giêsu lẫn các
Sách Thánh tông tuyền đều khuyên giục Kitô hữu hăy làm trổ sinh các việc
yêu thương.
38. Theo người Công Giáo hiểu th́ các việc lành phúc đức, được thực
hiện nhờ ân sủng và hoạt động của Chúa Thánh Thần, góp phần vào việc lớn
lên trong ân sủng, nhờ đó đức chính trực do Thiên Chúa ban cho được bảo
tồn, và cũng nhờ đó việc hiệp thông với Chúa Kitô được sâu đậm hơn. Khi
người Công Giáo xác nhận tính chất ‘công nghiệp’ của các việc lành phúc
đức, là họ muốn nói lên rằng, theo chứng từ thánh kinh, phần thưởng trên
trời được hứa ban cho những việc làm ấy. Họ có ư nhấn mạnh đến trách
nhiệm của con người đối với hành động của ḿnh, chứ không đặt vấn đề
tính chất nơi những việc làm như là các tặng ân ấy, và họ lại càng không
chối bỏ việc công chính hóa bao giờ cũng là một quà tặng nhưng không của
ân sủng.
39. Người Luthêrô cũng chủ trương quan niệm về việc bảo tŕ ân sủng
và việc lớn lên trong ân sủng cùng đức tin. Họ thực sự nhấn mạnh là đức
chính trực được Thiên Chúa ban cho và việc thông phần vào đức chính trực
của Chúa Kitô là những ǵ luôn luôn trọn vẹn. Họ đồng thời cũng cho rằng,
các hiệu quả của những sự ấy có thể được phát triển trong đời sống Kitô
hữu. Tuy nhiên, khi họ quan niệm về các việc lành phúc đức của người
Kitô hữu như là hoa trái và dấu chỉ của việc công chính hóa, chứ không
phải là các ‘công nghiệp’ riêng của con người, th́ họ cũng hiểu được sự
sống đời đời, theo ư nghĩa của Tân Ước, là một ‘phần thưởng’ nhưng không
trong việc người tín hữu làm trọn lời hứa của Thiên Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống:
Chúa
là Đường khi hóa thành nhục thể để chúng con có thể đến cùng Cha khi
thấy Thày là thấy Cha;
Chúa
là Sự Thật khi tự hiến để chúng con được thánh hóa trong chân lư;
Chúa
là Sự Sống khi thông ban Thánh Linh từ thân xác phục sinh vinh hiển của
Chúa.
Xin
cho đàn chiên được Chúa là Chủ Chiên Nhân Lành thí mạng sống ḿnh
biết
hiệp nhất nên một đàn chiên duy nhất theo một chủ chiên duy nhất. Amen.
|
|