Tham luận của ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp

                            

MẦU NHIỆM GIÁO HỘI           

                                     

             Suốt hai ngàn năm qua, các Kitô hữu đă thể hiện niềm tin qua nhiều cách thế sống, h́nh thức diễn tả, cơ cấu tổ chức và mô h́nh Giáo hội khác nhau. Mỗi mô h́nh này hàm chứa một quan niệm thần học và một đường hướng mục vụ, cũng như cũng đưa ra một mô h́nh riêng về Giáo hội, cũng như một cố gắng cụ thể của các tín hữu để thực ơn gọi Kitô hữu trong những bối cảnh văn hoá, chính trị, xă hội, kinh tế riêng biệt.

Công cuộc canh tân và thích nghi của công đồng Vatican II đă bắt đầu với một cái nh́n mới về "mầu nhiệm Giáo hội" trong đó quan niệm Giáo hội như "Dân Thiên Chúa" được đặc biệt đề cao. Cuộc canh tân mà "Đại hội Dân Chúa Việt Nam" muốn  thực hiện cũng phải khởi đi từ một cái nh́n mới và đúng đắn về Giáo hội. Đề cương Giáo hội tại Việt Nam đă chọn mô h́nh Giáo hội: Mầu Nhiệm - Hiệp Thông - Sứ Vụ.  

Xin góp một vài ư nhỏ chung quanh đề tài "Mầu nhiệm Giáo hội" và "Cộng đồng Dân Chúa".    

                                               
1-         Mô h́nh Giáo hội tiền Vatican II

            Nh́n tổng quát, từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX, hai mô h́nh chiếm vị trí ưu tiên trong Giáo hội học là "mô h́nh kim tự tháp” và “Xă hội hoàn hảo”.

            Trong nhiệt tâm chống lại Phong trào Cải cách và sự can thiệp quá đáng của Nhà nước vào sinh hoạt nội bộ của Giáo Hội, một số nhà thần học Công giáo thường tŕnh bày Giáo Hội như một “Xă hội hoàn hảo”, nghĩa là tổ chức đích thực, một chủ thể quyền bính, một pháp nhân, có đầy đủ quyền tự quyết và tự trị như bất cứ vương quốc trần gian hay xă hội dân sự nào khác. Người ta đề cao yếu tố pháp lư hơn yếu tố bí tích, nhấn mạnh đến cơ chế hơn chiều kích mầu nhiệm, thánh thiêng của Giáo hội.

Mô h́nh kim tự tháp triệt để tôn vinh hàng giáo phẩm. Hồng y Noberto Bellarmino đă viết như sau: “Giáo Hội là một cộng đồng các tín hữu, được kết hợp do việc tuyên xưng niềm tin Kitô giáo, do việc lănh nhận các bí tích, dưới quyền lănh đạo của các mục tử hợp pháp, và, trên hết, của vị Đại diện duy nhất của Chúa Kitô trên trần gian, Đức Giáo chủ Roma”[1]. Việc đề cao quyền tối thượng tuyệt đối của Đức Thánh Cha được coi là một lợi khí để chống lại phong trào Cải cách và để canh tân Giáo hội.

Một số tác giả không ngần ngại quả quyết rằng Đức Kitô đă lập Giáo Hội như một xă hội phẩm trật, hoàn thiện và quân chủ. Bản văn của Công đồng Vatican I là một dẫn chứng điển h́nh: “Giáo hội của Đức Kitô không phải là một xă hội gồm các phần tử b́nh đẳng, làm như thể là tất cả các tín hữu đều có những quyền như nhau; trái lại, đó là một xă hội bất b́nh đẳng, và điều đó không chỉ có nghĩa là trong số các tín hữu có những người là giáo sĩ, có những người là giáo dân, mà nhất là v́ trong Giáo hội, Chúa đă thiết đặt một quyền mà một số người đă nhận được để thánh hóa, dạy dỗ và cai quản, trong khi những người khác không có quyền ấy”[2].

            Lá thư của đức Leô XIII gởi Tổng Giám mục giáo phận Tours, vào năm 1888, một lần nữa lặp lại quan niệm thần học này: “Trên thực tế, ta nhận thấy rơ ràng và thường xuyên rằng trong Giáo Hội đương nhiên có hai giai cấp: chủ chăn và con chiên, nghĩa là những người lănh đạo và những người thường dân. Giai cấp thứ nhất có nhiệm vụ dạy dỗ, cai quản và hướng dẫn cách sống cho mọi người, và đặt ra lề luật. Giai cấp thứ hai phải phục tùng giai cấp thứ nhất: vâng lời họ, thi hành lệnh và tôn vinh họ”. 

            Vào giữa thế kỷ XX, Đức Piô XII vẫn c̣n diễn tả mối tương quan giữa giáo sỹ với giáo dân trong ḷng Giáo Hội theo chiều hướng này: “Theo ư muốn của Thiên Chúa, các Kitô hữu được chia làm hai bậc: giáo sĩ và giáo dân. Cũng do ư muốn của Ngài, trong Giáo Hội có hai loại quyền bính: quyền thánh chức và quyền tài phán. Hơn nữa, do kế hoạch của Thiên Chúa, con người tiến tới thánh chức – nghĩa là được gia nhập vào phẩm trật giám mục, linh mục và thừa tác viên – do việc chịu chức thánh. Riêng quyền tài phán, chiếu theo luật Chúa, được trực tiếp trao phó cho Đức Giáo chủ và, cũng chiếu theo luật đó, cho cả các giám mục nữa, nhưng phải qua trung gian của vị kế nhiệm thánh Phêrô”.

            Trong mô h́nh Giáo hội đó, dĩ nhiên vai tṛ và sứ vụ của giáo dân hoàn toàn bị quên lăng, không hề được nhắc đến. Trên thực tế, người giáo dân b́nh thường chẳng hề có một vai tṛ và vị thế nào trong Giáo Hội. Về vấn đề này, Hồng y Gasquet kể một giai thọai dí dỏm: Ngày kia, vào giai đoạn tiền Công đồng Vatican II, một người dự ṭng hỏi một linh mục Công giáo về vai tṛ của giáo dân trong ḷng Giáo hội. Vị linh mục điềm nhiên trả lời: Giáo dân có ba vị thế trong Giáo Hội: thứ nhất, quỳ gối trước bàn thờ; thứ hai, ngồi trên ghế; thứ 3, thưa amen sau các lời nguyện. Và Hồng y hóm hỉnh nói thêm: người ta đă quên mất một vai tṛ quan trọng khác: móc ví lấy tiền... để công đức cho nhà thờ.    

2-         Đường hướng của Vatican II

             Khi triệu tập Công đồng Vatican II, đức Gioan XXIII muốn làm một cuộc canh tân đích thực để Giáo Hội có khả năng loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu cho con người và thời đại hôm nay. Ngài ước mong Công đồng sẽ khai mở một mùa xuân mới và mời gọi các Kitô hữu sáng suốt nhận diện “những dấu chỉ thời đại”, những dấu chỉ của hy vọng, bất chấp những khó khăn và mây mù hiện tại.

            Trong bài diễn văn bế mạc khoá I của Công đồng, Đức Gioan XXIII  ước mong “Công đồng sẽ đích thực là ‘lễ Hiện Xuống mới’, làm cho Giáo hội được triển nở trong nguồn năng lực nội tại và mở rộng ra tất cả mọi lănh vực của hoạt động nhân loại. Sẽ là một bước nhảy vọt của triều đại Đức Kitô trong thế giới, một tái xác quyết (...) có tính thuyết phục hơn Tin mừng cứu độ, sự loan báo rạng ngời về quyền tối thượng của Thiên Chúa, về t́nh huynh đệ nhân loại trong bác ái, về hứa hẹn hoà b́nh dưới trần thế cho những người thiện tâm”[3].

            Tuy nhiên, lược đồ đầu tiên của “Hiến chế tín lư về Giáo hội”, do tiểu ban chuẩn bị công đồng soạn thảo, hoàn toàn không phản ảnh thao thức, ước vọng và hướng đi mà đức Gioan XXIII đă vạch ra. Nền tảng Giáo hội học của lược đồ này vẫn là quan điểm một Giáo hội học theo mô h́nh cũ, nhấn mạnh quá đáng đến yếu tố pháp lư, đầy giáo sĩ tính, trong khi đó chiều kích huyền nhiệm và ngôn sứ lại quá mờ nhạt.

Tại phiên họp khoáng đại của Công đồng, lược đồ này bị phê phán gắt gao và được trả về cho uỷ ban soạn thảo. Một lược đồ thứ hai ra đời và đệ tŕnh các nghị phụ vào mùa hè năm 1963. Lược đồ mới rút gọn vào bốn chương:

(I) Mầu nhiệm Giáo hội.

(II) Cơ cấu phẩm trật Giáo Hội, đặc biệt chức Giám mục

(III) Cộng đồng Dân Thiên Chúa, đặc biệt về giáo dân;

(IV) Lời mời gọi nên thánh trong Giáo Hội.

            Kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1963, Công đồng thảo luận sôi nổi về mô h́nh Giáo hội và lược đồ kể trên bị loại bỏ. Hồng y L. Suenens, với tư cách là thành viên của Uỷ ban điều hành công đồng, đă làm một “cuộc cách mạng Copernic về Giáo Hội học”: Nếu trong mô h́nh trước đây, trục chính của Giáo hội là Cơ cấu phẩm trật th́ từ nay là chính cộng đồng Dân Chúa. V́ vậy, chương III sẽ được chia thành hai phần: một phần mang tựa đề “Cộng đồng Dân Chúa” đề cập đến căn tính chung của tất cả các thành viên của Giáo Hội và sẽ là chương II; chương II cũ sẽ trở thanh chương III; c̣n phần mang tựa đề “Người Giáo dân” sẽ là chương IV, đề cập đặc biệt đến vai tṛ của Kitô hữu giáo dân. Kể từ đó, đề tài “Cộng đồng Dân Chúa” được sát nhập vào lược đồ của Hiến chế tín lư về Giáo Hội như một chương đặc biệt, nằm giữa chương I nói về huyền nhiệm của Giáo Hội và các chương kế tiếp đề cập đến sự khác biệt về trách vụ của các Kitô hữu. Nội dung cuối cùng của Hiến chế là:

I-   Mầu nhiệm Giáo hội.  II-  Dân Thiên Chúa.  III- Hàng Giáo phẩm….IV- Giáo dân. V-  Ơn gọi nên thánh. VI- Tu sĩ. VII- Giáo hội lữ hành.. VIII-  Đức Maria trong mầu nhiệm Đức Kitô và Giáo hội.

             Để hiện diện và loan báo Tin Mừng cho nhân loại, dĩ nhiên Giáo Hội cần những cơ cấu tổ chức hữu h́nh, nhưng Giáo Hội không thể tương đồng với bất cứ tổ chức xă hội, kinh tế hay chính trị nào khác. Lư do đơn giản là Giáo Hội được h́nh thành từ ư định muôn đời của Thiên Chúa và được Chúa Thánh Thần đồng sáng lập với Chúa Kitô.

            Hiến chế “Ánh sáng muôn dân” đă dành trọn chương I để diễn tả ư nghĩa thần học của Giáo hội: “Mầu nhiệm Giáo hội biểu lộ trong chính việc thành lập. Thực thế, Đức Giêsu đă khai sinh Giáo hội qua việc rao giảng Tin Mừng, loan báo sự tới đến của Nước Thiên Chúa, như đă hứa hẹn trong Kinh Thánh từ ngàn xưa (…). Nước này xuất hiện đối với mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Đức Kitô (…). Các phép lạ của Người chứng thực rằng Nước Thiên Chúa đă thực sự đến trần gian (…). Nhưng trước hết, Nước này biểu lộ trong chính bản thân Đức Kitô, con Thiên Chúa và Con loài người, Đấng đă đến ‘để phục vụ và hiến mạng sống ḿnh làm giá cứu chuộc muôn dân”[4].          

            Giáo Hội không phải là một cộng đồng như bất cứ cộng đồng nhân loại nào, mà là một cộng đồng đặc biệt. Đây chính là “Dân Thiên Chúa có Đức Kitô làm Thủ lănh (...), có phẩm giá và sự tự do hào hùng của con cái Chúa, mà tâm hồn của họ là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Luật của họ là điều răn mới, giới răn yêu thương như chính Đức Kitô đă yêu chúng ta (xc Ga 13,34). Sau cùng, cứu cánh của họ chính là Nước Thiên Chúa, đă được Người khai mở trên trần gian và tiếp tục phát triển cho đến ngày thế mạt”[5].

            Giáo hội được kết thành bởi các yếu tố khác biệt nhau, nhưng luôn bổ sung cho nhau và bất khả phân ly, vừa nhân loại vừa thần thiêng: đây là một “Giáo hội thánh thiêng, một cộng đoàn của niềm tin, hy vọng và bác ái” xuất hiện ở trần gian “như một cơ cấu hữu h́nh”, đồng thời vừa là một “xă hội tổ chức theo phẩm trật” vừa là “Nhiệm thể Đức Kitô”, vừa là “đoàn thể hữu h́nh” vừa là “cộng đồng thiêng liêng”, vừa là “Giáo hội tại thế” vừa là “Giáo hội tràn đầy ân sủng trên trời”[6].

            Thay v́ những định nghĩa nặng nề tính chất pháp lư, Công đồng đă tŕnh bày Giáo Hội bằng nhiều h́nh ảnh biểu tượng, hàm chứa trong Thánh kinh và thánh truyền. Chiều kích mầu nhiệm và vai tṛ của Chúa Thánh Linh được đặc biệt đề cao. Do tính độc đáo của nó, quan niệm Giáo Hội như Dân Thiên Chúa được đặc biệt đề cao: Giáo Hội là cộng đồng Dân Chúa, bao gồm những người đă gia nhập vào Thân thể Nhiệm mầu của Đức Kitô qua bí tích Thánh tẩy: “Thực vậy, tất cả những ai tin nơi Đức Kitô đều được tái sinh không phải bởi mầm có thể huỷ diệt, nhưng do mầm bất diệt nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống (xc. 1 Pr 1,23), không phải bởi xác thịt nhưng do nước và Thánh thần (xc. Ga 3,5-6) và trở thành “một giống ṇi được thu phục, mà trước kia chưa phải là một dân, nay là Dân Thiên Chúa”(1Pr 2,9-10)[7].

Tất cả các thành viên của Giáo hội có “chung một phẩm giá v́ được tái sinh trong Đức Kitô, cùng một ân huệ được làm con, một lời mời gọi nên hoàn thiện, một ơn cứu độ, một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia”. Tất cả đều được tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô. Những khác biệt về thừa tác vụ trong Giáo hội đều do nhu cầu của cộng đồng Dân Chúa và nhằm mục đích phục vụ cộng đồng mà thôi.

3-         Vài đề nghị

a)-        "Tài liệu làm việc" viết một cách lạc quan rằng "các tín hữu tại Việt Nam vẫn luôn xác tín Giáo hội là Dân Thiên Chúa, là Thân Ḿnh Đức Kitô... Cách nào đó, có thể nói họ đă sống trước những điều Giáo hội sẽ minh định trong các văn kiện công đồng". Một số người khác lại cho rằng mô h́nh Giáo hội ở Việt Nam hôm nay vẫn mang nặng dấu ấn của những mô h́nh Giáo hội thời trước công đồng Vatican II, nghĩa là nặng tính chất cơ cấu, pháp lư và theo mô h́nh kim tự tháp. Đă đến lúc cần giảm thiểu yếu tố h́nh thức để đào sâu mầu nhiệm Giáo hội và vai tṛ của Thánh Linh.

            Nhiều người đề nghị trong Đại hội Dân Chúa Việt Nam này, Giáo hội Việt Nam nên chân thành nh́n lại chính ḿnh, cố gắng thực hiện cuộc canh tân mà Vatican II đă khai mở, can đảm đưa ra những cải cách hữu hiệu để thực hiện sự b́nh đẳng, hiệp thông và sứ vụ trong Giáo hội. Đặc biệt, cần thiết những giải pháp rơ rệt để "trong Dân Thiên Chúa, các tín hữu thật sự b́nh đẳng trong phẩm giá, được chia sẻ cùng một ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, có cùng một căn tính Kitô hữu".  

            Việc chọn lựa định hướng mục vụ “Đối thoại thẳng thắn và cộng tác chân thành” giữa Giáo hội với xă hội đ̣i hỏi Giáo hội phải đổi mới cơ cấu tổ chức, đường lối tư duy và cách thế hành động để có cơ quan đảm nhiệm tiến tŕnh đối thoại, điều hành và thúc đẩy nó. Cần thiết những “kênh” chính thức và thường xuyên để hiện thực công tác khó khăn này.

            Tuy nhiên, để cuộc đối thoại với bên ngoài được kết quả, cần phải có cuộc đối thoại bên trong giữa các thành phần Dân Chúa, đặc biệt giữa hàng giáo phẩm với giáo dân. Phải chăng cuộc khủng hoảng hiện nay của Giáo hội chúng ta là v́ thiết cuộc đối thoại trong ḷng Giáo hội?

 

b)- Về lănh vực văn hóa, TLLV ư thức rơ rệt mối tương quan tự nhiên và mật thiết giữa loan báo Tin Mừng và hội nhập văn hóa, bởi v́ Nước Thiên Chúa đến với những con người được nối kết sâu xa với một nền văn hóa nào đó. Do đó, “Giáo hội tại Việt Nam nhận ra rằng quê hương là chiếc nôi trong đó ơn gọi Kitô hữu tăng trưởng và người tín hữu sống đức tin trong tinh thần đồng hành với tất cả anh chị em trong cộng đồng dân tộc”.

            Hoàn toàn đồng ư với kế hoạch đề cao văn hóa dân tộc trong việc đào tạo chủng sinh, tu sĩ và giáo lư viên. Bởi v́, hội nhập văn hóa là một cuộc đối thoại sống động giữa Tin Mừng với con người trong mỗi giai đoạn lịch sử. Nó đ̣i hỏi niềm tin Kitô giáo phải được sống, diễn tả và cử hành bằng những chất liệu, tâm t́nh, yếu tố văn hóa của mỗi dân tộc vào một thời điểm lịch sử nhất định. V́ vậy, nó không đơn giản là chuyện dịch thuật, chuyển từ tiếng Latinh sang tiếng Việt mà thôi.

            Để thực hiện điều này chúng ta phải có những chuyên viên vừa thông thạo về thần học, vừa am tường văn hóa dân tộc. Đại hội Dân Chúa nên có  chương tŕnh cụ thể nào nhằm đào tạo các chuyên viên đó trong một tương lai gần.

            Đă đến lúc phải đặt trọng tâm cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Cần mạnh dạn ra khỏi “ghetto Công giáo” để mở rộng cánh cửa ra xă hội, đào sâu vào văn hóa dân tộc và làm cho Tin Mừng chiếu dọi vào mọi lănh vực  của cuộc sống, đặc biệt là lănh vực văn hóa. Câu phát biểu của đức Gioan Phaolô II rất đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Một đức tin mà chưa biến thành văn hóa, là đức tin chưa được đón nhận trọn vẹn, chưa thực sự suy tư, chưa sống một cách chân thành”.

+ Phaolô Nguyễn Thái Hợp

Giám mục Giáo phận Vinh


[1]R. Bellarmino, Prima controversia generalis, Liber. III: “De Ecclesia militante”, c.2.

[2]VaticanI, Lược đồ SupremiPastoris, chương X, Mansi 51, 543.

[3]Gioan XXIII, Diễn văn bế mạc khóa I của Công đồng, số 22.

[4]Vatican II, Lumen Gentium, số 5.

[5]Ibidem, số 9.

[6]Ibidem, 8.

[7]Vatican II, Ánh sáng muôn dân,số 9.