Đại hội Dân Chúa: T̀M LẠI ĐỘNG LỰC
TRUYỀN GIÁO
Nguồn:
http://www.chuacuuthe.com/?p=8427
VRNs (05.10.2010) - Sài G̣n - Giáo hội
Việt Nam đang đi vào giai đoạn cuối của năm thánh kỷ niệm 350 năm
thành lập Tông ṭa và 50 năm thành lập Hàng giáo phẩm. Thật ra công
cuộc truyền giáo đẵ bắt đầu trước đó hơn 100 năm, từ năm 1553. Hạt
giống Lời được gieo vào ḷng đất mẹ gần 500 năm. Hàng trăm ngàn
người đă đổ máu đào làm chứng và bảo vệ đức tin tinh tuyền.
Theo kết quả của cuộc điều tra dân số mới đây (01/04/2009), Việt Nam
có 86.024.600 người, trong đó có gần 6 triệu là Công giáo, chiếm
7,06% dân số.
Khi làm mục vụ hôn nhân, phải đối diện với t́nh trạng quá nhiều
người xin làm đám cưới với thể thức chuẩn khác đạo, tôi thường khó
chịu và hay chất vấn họ rằng tại sao không t́m người có đạo kết hôn,
mà cứ đi lấy người ngoại giáo? Có một cặp đă nói lại với tôi rằng
con gái vừa tốt, vừa đẹp lại vừa có đạo quá ít. Người con ưng ư,
nhưng chưa kịp hỏi tới th́ đă lên xe hoa với người khác rồi. Nghe
vậy tối thấy ḿnh khó chịu với họ là không đúng, bởi đúng như anh
thanh niên đó nói. Trong 100 cô gái, chỉ có 7 cô gái Công giáo, hoặc
trong 100 anh thanh niên, chỉ có 7 anh có đạo. Quả là họ có quá ít
lựa chọn theo ư của Giáo hội.
Tư đây câu hỏi lớn đặt ra với Giáo hội rằng tại sao đă gần 500 năm
rồi, mà Công giáo vẫn chỉ là một cộng đồng thiểu số trên quê hương
ḿnh?
1. Giáo hội đang
ưu tiên cho việc ǵ?
Trong tác phẩm Chuyện Làng Hồ, kể về quá tŕnh khai phá và h́nh
thành miền truyền giáo Tây Nguyên. Trong đó có đoạn nói đến việc sẽ
chuyển giao công cuộc truyền giáo lại cho người Việt th́ các thừa
sai MEP tỏ ra không tin tưởng người Việt có thể giúp các sắc tộc
khác đón nhận đức tin cách tinh tuyền, trừ một vài người như thầy
Sáu Do.
Biết điều đó, nhiều thừa sai người Việt tự ái và cho rằng các thừa
sai phương Tây đă quá tự tin ở ḿnh và coi thường người bản địa. Sự
khó chịu đó rất đáng được cảm thông, nhưng nếu can đảm nén giận để
nh́n rơ vào sự thật th́ chúng ta thấy những hồ nghi của các nhà
truyền giáo ngoại quốc không phải là không có căn cứ.
Giáo hội Việt
Nam đă và đang đầu tư vào những ǵ?
Chúng ta xây nhà thờ, xây các trung tâm mục vụ hoành tráng, xây các
tu viện thật lớn, xây đền đài, xây các trung tâm hành hương thật lớn.
Ai sẽ được hưởng lợi từ cho các công tŕnh này? Câu trả lời thật đơn
giản: Người Công giáo, và chỉ người Công giáo. Rất hiếm khi người
ngoại giáo đến nhà thờ, họa hoằn lắm mới có ai ngoại giáo đến các
trung tâm mục vụ. Chỉ cần đọc các chương tŕnh hoạt động của chúng
ta hàng tháng, hàng tuần và mỗi ngày tại các nhà thờ, tu viện, các
trung tâm mục vụ và hành hương, chúng ta sẽ thấy ngay. Không hề có
một chương tŕnh hay một phần chương tŕnh nào đó cho người ngoại
giáo.
Chung ta đang đầu tư cho chính ḿnh
mà thôi !
Nh́n sang các anh chị em Tin Lành, chúng ta xem họ đầu tư như thế
nào?
Họ góp 1/10 thu nhập để thờ phượng Chúa và xin Chúa sử dụng nó cho
hiệu quả. Chúng ta thấy họ sẳn sàng đầu tư dịch và in Thánh Kinh để
biếu, để tặng rất nhiều. Khi làm việc cho các anh chị em thuộc các
sắc tộc thiểu số, các thừa sai Công giáo phần nhiều phải dùng các
sách Thánh Kinh do anh chị em Tin Lành dịch để rao giảng Lời Chúa
cho các sắc tộc đó. Tại sao? V́ anh chị em Tin Lành đă đầu tư dịch
Thánh Kinh ra hầu hết các tiếng của các sắc tộc thiểu số ở Việt Nam.
Trong khi đó, bên Công giáo chỉ mới dịch được sách Tân Ước ra các
tiếng Bahnar, Jarai, và K'Ho. Khi giúp cho người Êđê, người Bru Vân
Kiều, chúng tôi phải dùng sách của anh chị em Tin Lành. Ngoài ra, họ
cũng đầu tư mạnh cho các phương tiện truyền thông khác.
Đó là lư do chính về phía con người lư giải cho việc tăng nhanh nhân
số các Cơ đốc nhân thuộc Liên hội thánh Tin Lanh Miền Nam Việt Nam,
từ 500 ngàn năm 1975 tăng lên hơn 2 triệu vào đầu những năm 2000.
Chỉ sau hơn 30 năm, nhân số họ tăng gấp bốn lần.
Nhiều người có cái nh́n tiêu cực về anh chị em Tin Lành th́ cho rằng
họ đă dung tiền hay vật chất để chiêu dụ tín đồ. Ai nói như thế là
chưa t́m hiểu kỷ. Thực tế, mọi Cơ đốc nhân dù giàu hay nghèo, họ đều
dâng hiến 1/10 hoa lợi cho việc thờ phượng Chúa. Họ ư thức việc dâng
hiến là việc làm quan trọng để khẳng định với Chúa rằng ḿnh đă thụ
lănh ơn bởi Người và c̣n tiếp tục cầu mong ơn Người ban cho. Do đó,
ngay các anh chị em Cơ đốc nhân bị bệnh phong, chỉ trồng được ít cụm
khoai ḿ th́ họ cũng mang khoai ḿ đến như hoa lợi mà chính tay họ
thu hoạch được để dâng hiến cho Chúa. Công bằng mà nói. Anh chị em
Tin Lành khi đă theo Chúa th́ họ không từ nan để sống thờ phượng
Chúa và sứ sụ.
Một cha giáo dạy truyền giáo của tôi đă kể một hôm trên đường phố
Sài G̣n, có một bà cụ xin phép ngài dành cho bà năm phút để thưa
chuyện. Theo bà, đây là chuyện quan trọng, nếu không nói ra, bà sẽ
không an tâm. Cha giáo tôi lắng nghe và nhận ra câu chuyện bà tha
thiết muốn kể là câu chuyện về Chúa Yêsu, Đấng cứu độ. Bà ấy là
người Công giáo? Không, là một người Tin Lành.
Người Công giáo có vẻ xa lạ với việc thực hành sứ vụ truyền giáo.
Nhiều người c̣n cho rằng đó là một đặc quyền hay là một ơn riêng
Chúa chỉ ban cho một số người, chứ không ban cho ḿnh, và như thế họ
đang mất dần căn tính Công giáo của ḿnh.
2. Thông chia sứ
vụ của Chúa Yêsu
Đoạn cuối Tin Mừng Marcô viết: Chúa Yêsu nói: “Anh em hăy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo … Đây là dấu
lạ sẽ đi theo những ai có ḷng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được
quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có
uống nhằm thuốc độc, th́ cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên
những người bệnh, th́ những người này sẽ được mạnh khỏe… Các tông đồ
ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và
dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc
16, 15-20).
Đoạn Thánh Kinh này xác nhận sứ vụ truyền giáo là sứ vụ phổ quát của
mọi thành phần Giáo hội. Người tin là người truyền giáo th́ cũng là
người được Chúa ủy thác các hành vi cứu độ (trừ quỷ, giải độ, chữa
lành). Do đó một người nhận ḿnh tin Chúa mà xa lạ với những việc
quyền năng Chúa làm th́ có nghĩa họ đă không thi hành sứ mạng Chúa
trao phó, và v́ thế họ cũng ở trong t́nh trạng xa lạ với ơn cứu độ.
C̣n những ai tin và sống nhờ đức tin th́ dù chưa là kitô hữu theo
nghĩa chặt cũng có thể trở nên cơ hội thông ơn cứu độ cho người khác
rồi.
Một nhóm thanh niên ở làng Bon Pan, xă Ia Rsai, huyện KrôngPa, tỉnh
Gia Lai tham dự tuần lễ tĩnh tâm chuẩn bị lănh nhận các bí tích gia
nhập Kitô giáo. Trong khóa tĩnh tâm, cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn
Phán, CSsR nhấn mạnh với họ về hoạt động của Chúa Yêsu nơi những
người tin. Sau những ngày tĩnh tâm, họ trở về làng. Làng họ có một
thanh niên chưa theo đạo đang trong t́nh trạng “lui asơi” – bỏ cơm –
tức là sắp chết. Họ lên nhà người hấp hối này và xin người mẹ - bà
chủ nhà - cho phép họ đặt tay cầu nguyện cho chàng thanh niên này.
Chủ nhà đồng ư. Các anh dự ṭng quỳ gối chung quanh người bệnh dang
tay cầu nguyện, rồi đặt tay trên người bệnh. Sau đó họ trở về nhà mà
chẳng bận tâm ǵ cả. Ba ngày sau, khi họ đi rừng, trong nhóm họ có
mặt cả người thanh niên đă hấp hối được họ đặt tay cầu nguyện.
Những người chưa được rửa tội, nhưng tin Chúa th́ Chúa cũng dùng để
thực hiện hành vi cứu độ cho người khác là thế.
Những người càng giữ đạo lâu năm, càng trở nên cứng ḷng, khó đón
nhận ơn Chúa cứu. Rồi họ cũng dễ dàng lên án người tội lỗi. Nhưng
đối với Chúa, ngay người tội lỗi mà tin Chúa th́ Chúa cũng có thể
biến họ thành công cụ của Người.
Anh Ama H’ Nguyên - ba của con Nguyên - là người ở xă Ia Hru, lấy vợ
và về nhà vợ ở làng Pleiwueng, xă Hbông, huyện Chưsê, tỉnh Gia Lai.
Hai vợ chồng sống được ít lâu th́ anh đổ đốn, rượu chè, đánh đập vợ
con nhiều đến mức làng phải xử bằng cách trục xuất anh ra khỏi nhà
vợ, đuổi về làng cũ. Về lại Ia Hru, anh được tuyển làm angten cho
công an, chuyên chỉ điểm để công an bắt các nhóm cầu nguyện. Anh đă
lập được nhiều thành tích với công an, nhưng một hôm, anh đang canh
me để bắt một nhóm cầu nguyện lớn, trong lúc đợi cho đông người rồi
báo công an ập vô. Anh nghe người ta hát những bài hát vừa lạ vừa
quen. Lạ v́ không phải những bài hát ca ngợi ông Hồ hay đảng cộng
sản, quen v́ đó là những bài hát bằng tiếng Jarai, tiếng mẹ đẻ của
anh. Anh mon men lại nghe, rồi lần ḅ lên nhà. Mọi người đang tề tựu
cầu nguyện gặp anh th́ sợ, nhưng anh ra dấu cho họ đừng sợ, hôm nay
anh muốn nghe họ hát họ đọc kinh và cầu nguyện.
Sau buổi đó, anh giả từ không làm angten cho công an nữa, mà bắt đầu
theo đạo. Học đạo được hai năm, anh được rửa tội, cha Giuse Trần Sĩ
Tín, CSsR, sai anh trở về với làng của vợ anh. Vợ con anh tha thứ,
đón nhận anh vào lại nhà.
Những người hang xóm ngạc nhiên từ ngày anh trở về nhà vợ, tối tối
không c̣n nghe cải nhau, đánh nhau và tiếng kêu gào, chửi bới nữa,
mà nghe tiếng hát và tiếng cười rất vui. Họ đến xem th́ thấy anh mở
sách hát dạy vợ con hát, rồi mở sách Tân Ước tiếng Jarai ra đọc cho
vợ con nghe, rồi cầu nguyện. Những người hang xóm đến nhà anh cũng
muốn được anh giúp họ như anh đang giúp vợ con anh. Số người đông
dần. Từ đó, Pleiwueng trở thành một cộng đoàn.
Năm 2002, khi tôi đến Tây Nguyên, anh Ama H’ Nguyên cho biết,
Peiwueng và các làng xung quanh đă có hơn 1.500 người tin theo Chúa.
Sau 10 năm, từ một anh chàng hư đốn, Chúa đă làm cho vùng đất đó
thành một cộng đoàn Công giáo.
Những người đó, nhóm thanh niên dự ṭng Bon Pan hay anh Ama H’
Nguyên có phải là những người truyền giáo không?
Xét theo thói quen của chúng ta th́ không phài, nhưng xét theo tác
động cứu độ th́ họ là những người truyền giáo. Truyền giáo đối với
họ không phải là đi dạy một giáo lư về Chúa Yêsu, mà đơn giản là để
cho Chúa Yêsu chữa lành người bệnh, và kể lại việc Chúa đă làm trên
cuộc đời ḿnh.
Lm. AN THANH,
CSsR