Giáo Hội Hiệp Thông

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 536 Thứ Sáu 17/12/2010

 

 

Chủ đề của Đại Hội Dân Chúa Năm Thánh 2010 là “Giáo Hội tại Việt Nam: Mầu Nhiệm, Hiệp Thông và Sứ Vụ”. Để tiếp theo đề tài Giáo Hội Mầu Nhiệm, hôm nay chúng ta tiến sang chiều kích thứ hai của Giáo Hội, đó là chiều kích hiệp thông, chúng ta cần theo dơi đề tài Giáo Hội Hiệp Thông với những trích đoạn tiêu biểu về phương diện lư thuyết của Tài Liệu Làm Việc và của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Giáo Phận Mỹ Tho, cũng như về phương diện áp dụng thực hành của Đức Cha Giuse Trần Xuân Tiếu, Giáo Phận Long Xuyên.

 

 

TÀI LIỆU LÀM VIỆC CỦA ĐẠI HỘI DÂN CHÚA

 CHƯƠNG II: HIỆP THÔNG

GIÁO HỘI NHƯ DẤU CHỈ VÀ KHÍ CỤ CỦA SỰ HIỆP NHẤT GIỮA CON NGƯỜI VỚI THIÊN CHÚA VÀ GIỮA CON NGƯỜI VỚI NHAU

 

2. Giáo Hội Như Dấu Chỉ Hiệp Thông

 

a. Tương Quan Hiệp Thông với Thiên Chúa

 

(14)      Thiên Chúa yêu thương những kẻ thuộc về Ngài, không những muốn cho họ ở trong nhà Ngài luôn măi (x. Tv 23,6), mà c̣n cho họ được nên một với Ngài trong Đức Giêsu Kitô. V́ thế, các tín hữu phải luôn khao khát gặp gỡ Thiên Chúa trong đời sống cầu nguyện và không ngừng vun đắp tâm t́nh thờ phượng tin yêu. Với tâm hồn trong sạch, các tín hữu thông hiệp thường hằng với Thiên Chúa trong ân sủng, họ sốt sắng tiếp nhận Thánh Thể và liên kết với các chi thể khác trong Thân Ḿnh của Chúa Kitô, họ biến tâm hồn ḿnh thành đền thờ của Chúa Thánh Thần, họ nối kết bằng một t́nh yêu mạnh hơn cả sự chết đối với những người đă an nghỉ trong Chúa Kitô, đang c̣n phải thanh luyện hay đă được tôn vinh.

 

Trong một mức độ nào đó, các tín hữu Việt Nam vẫn nổi bật về cách sống đạo siêng năng cầu nguyện và lănh nhận bí tích. Tuy nhiên, Giáo Hội tại Việt Nam cần xây dựng và canh tân một đời sống thờ phượng có khả năng nối kết đức tin với cuộc sống.  Để việc canh tân được sâu xa, các tín hữu Việt Nam được Thiên Chúa mời gọi đọc Thánh Kinh, và như Đức Maria, suy niệm Lời Chúa không ngừng.  Chính nhờ Lời được vang lên trong ngôi nhà Giáo hội có truyền thống sống động, không phải như một kiến thức suông nhưng như lời cầu nguyện có sức hoán cải và tạo sự hiệp thông, chúng ta mới nhận ra khuôn mặt đích thực của Đức Kitô, là ngôi vị trung tâm của Mạc khải, chứ không đơn thuần là một học thuyết hay lư tưởng cao cả.  Một khi được thấm nhuần Lời Chúa, bám chặt vào Lời Chúa như lương thực trường tồn của ḿnh (x. Ga 6,27; Mt 4,4; Kh 10,9; Gr 15,16; Đnl 8,3), người tín hữu Việt Nam sẽ vững bước trên những nẻo đường của cuộc sống và thế giới khi thi hành sứ mạng của người ngôn sứ.  Chính v́ thế, trong mọi hoàn cảnh, Giáo Hội tại Việt Nam cần thúc đẩy việc học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, coi đây như mối ưu tiên hàng đầu của mọi hoạt động mục vụ.

 

b. Tương Quan Hiệp Thông Giữa Giáo Hội tại Việt Nam và Giáo Hội Phổ Quát

 

(15) Sách Khải huyền mô tả nền móng của thành Giêrusalem trên cao có khắc tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên (x. Kh 21,14). Giáo Hội địa phương chân thật phải mang tính tông truyền, tức là phải liên kết bền chặt với các thánh tông đồ được biểu lộ qua việc gắn bó bền chặt với Đấng Kế vị thánh Phêrô, là “nguyên lư và nền tảng hữu h́nh và trường tồn của sự hợp nhất, cả của cộng đoàn các Giám mục cũng như của cộng đoàn các tín hữu,”  nhằm phục vụ sự hiệp nhất trong đức tin và đời sống của toàn thể Dân Thiên Chúa.  Cộng đoàn tín hữu tại Việt Nam luôn thể hiện t́nh hiệp thông với Giáo Hội phổ quát, với Đức Thánh Cha là Đấng Kế Vị thánh Phêrô, qua thái độ tôn kính vâng phục chân thành. Chính Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đă ca ngợi vẻ đẹp đức tin này của Giáo Hội tại Việt Nam.  Sự gắn bó trung thành này phát xuất từ chính bản chất đức tin công giáo chứ không chỉ đơn thuần do quan hệ ngoại giao hay xă hội. Do đó, phải nỗ lực duy tŕ và phát huy sự hiệp nhất với Ṭa Thánh; đồng thời, Toà Thánh cũng luôn tôn trọng và nhạy bén với những nét đặc thù trong lịch sử cũng như văn hoá của dân Việt.

 

Cũng trong viễn tượng hiệp thông, Giáo Hội Việt Nam muốn đẩy mạnh sự gặp gỡ và hợp tác với các Giáo Hội chị em trong các quốc gia khác, đặc biệt tại Á Châu. Sự liên đới hợp tác giữa các Giáo hội tại Á châu vốn có nhiều điểm gần gũi về địa lư, văn hóa, tôn giáo, v.v, sẽ làm nổi bật hơn nữa một Giáo hội duy nhất cũng như giúp ích nhiều cho việc chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng trong châu lục mênh mông này, như Thượng Hội Đồng Giám Mục Á châu cũng như Tông huấn Giáo hội tại Á châu mong mỏi.

 

c. Tương Quan Hiệp Thông Giữa Mọi Thành Phần Dân Chúa

 

(16)      Sống mầu nhiệm hiệp thông chính là điều mà các môn đệ Chúa Kitô tại Việt Nam phải thực thi mọi nơi và mọi lúc. Lời nhận định của lương dân về cộng đoàn Giáo Hội sơ khai tại Giêrusalem “ḱa họ thương mến nhau biết bao”, hay biệt hiệu “Đạo yêu thương” được gán cho cộng đoàn tín hữu đầu tiên trên đất Thăng Long, vẫn luôn thúc đẩy các tín hữu tại Việt Nam phải thể hiện rơ nét hơn nữa một Giáo Hội hiệp thông bằng cách phát huy mối tương quan trong đức ái giữa các thành phần Dân Chúa.

 

Trong giai đoạn sắp tới, mô h́nh Giáo Hội hiệp thông và tham gia cần được đề ra như một ưu tiên mục vụ và t́m cách thể hiện sao cho hiệu quả trong linh mục đoàn, trong tổ chức giáo xứ như một gia đ́nh, cũng như thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các giáo phận, giữa các giáo phận và ḍng tu, cũng như giữa các ḍng tu với nhau.  Sự hiệp thông và tham gia này cũng cần được thể hiện bằng những phương án cụ thể như thực hiện những kế hoạch mục vụ chung, nâng đỡ và chia sẻ với nhau về nhân sự cũng như tài chính, v.v.

 

d. Góp Phần Xây Dựng Sự Hiệp Thông Trong Cộng Đồng Nhân Loại.

 

(17)      Giáo Hội tại Việt Nam muốn thực thi trọn vẹn sứ mạng trở nên dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp thông giữa người với người, vượt lên trên mọi khác biệt về giai cấp, văn hóa hay chính kiến.  Tuy vẫn c̣n những thiếu sót do khả năng giới hạn của con người, nhưng kể từ khi có mặt trên đất nước này, các tín hữu Việt Nam thật sự đă và vẫn đang đóng góp tích cực cho sự hiệp thông giữa người với người trên quê hương đất nước này, đặc biệt qua những cách thức phục vụ đa dạng trong các lănh vực xă hội, y tế và giáo dục.  Theo hướng đi này và noi gương các vị tiền nhân và chứng nhân đức tin, các tín hữu Chúa Kitô tại Việt Nam luôn chung tay với những người thành tâm thiện chí nỗ lực xây dựng và phát triển môi trường ḿnh đang sinh sống cho xứng với phẩm giá con người.  Đó cũng là cách thức mà Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đă cổ vơ khi nói đến các “cộng đồng nhân sinh cơ bản”, trong đó các Kitô hữu không chỉ quan tâm đến đời sống thờ phượng trong nhà thờ nhưng là những hạt nhân sinh động trong cộng đồng xă hội. 

 

Khi quan tâm đến việc lành mạnh hóa và phát triển môi trường xă hội, Giáo Hội tại Việt Nam không chủ trương chính trị đảng phái,  nhưng chỉ quan tâm đến sự sống và sự phát triển toàn diện của mỗi người và mọi người, nhất là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi. Chính v́ thế, một đàng Giáo Hội không chấp nhận thỏa hiệp với những ǵ là tội lỗi và bất công; đàng khác, Giáo Hội vẫn luôn mong muốn giúp mọi người đón nhận ḷng nhân hậu xót thương và tha thứ của Thiên Chúa trong Đức Kitô.  Bằng cách đó, Giáo Hội cống hiến cho quê hương một t́nh hiệp nhất dân tộc vượt lên trên những dị biệt về chủng tộc, giai cấp xă hội hay chính kiến.

 

 

Bài tham luận của ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc, GP. Mỹ Tho

GIÁO HỘI HIỆP THÔNG
theo MÔ H̀NH HIỆP THÔNG của BA NGÔI THIÊN CHÚA

 

 

I. GIÁO HỘI LÀ MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG

 

1. Hiệp thông theo chiều đứng và chiều ngang

 

Khi tuyên xưng Giáo Hội là “Mầu nhiệm hiệp thông”, ư niệm hiệp thông không là một ư niệm đơn nghĩa, nhưng phải được hiểu trước hết theo “chiều đứng”, rồi mới theo “chiều ngang”[2]. Thiếu chiều đứng, không có Giáo Hội theo nghĩa Kitô giáo, mà chỉ c̣n là một “tập thể” như những tập thể trần gian khác. Hiệp thông trước hết là “Hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi” : trong Chúa Thánh Thần chúng ta nên một với Chúa Giêsu, và nhờ Chúa Giêsu chúng ta nên một với Thiên Chúa. Rồi mới đến chiều ngang là “nhờ kết hợp với Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, chúng ta nên một với nhau, làm thành Giáo Hội, “Thân Thể mầu nhiệm” của Chúa.

 

2. Hiệp thông hữu h́nh và vô h́nh

 

Hiệp thông Giáo Hội vừa là vô h́nh, vừa là hữu h́nh[5]. Khía cạnh vô h́nh, chính là sự hiệp thông của mỗi người với Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, sự hiệp thông với những người được cùng chia sẻ bản tính thần linh của Thiên Chúa (divinae consortes naturae[6]). Ngoài sự hiệp thông vô h́nh, c̣n có “hiệp thông hữu h́nh” trong “Giáo lư các Tông đồ”, trong “đời sống Bí tích” và trong “phẩm trật Hội Thánh”.

 

Bộ mặt hữu h́nh rơ rệt nhất là “Cộng đồng các tín hữu”, là Tập thể các Kitô hữu, những người môn đệ của Chúa Giêsu, những con người tin và bước theo Chúa Giêsu, được tổ chức theo “phẩm trật”. Phẩm trật trong Giáo Hội được Chúa Giêsu lập ra, để phục vụ và hướng dẫn Giáo Hội. Phẩm trật không đi ngược với sự hiệp thông, trái lại được Chúa Thánh Thần sử dụng để hoàn toàn phục vụ sự hiệp thông.

 

II. GIÁO LƯ TRUYỀN THỐNG CỦA GIÁO HỘI VỀ HIỆP THÔNG

 

5. Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương

 

Chúng ta có thể nói, theo một nghĩa loại suy[18], về sự hiệp thông của các Giáo Hội địa phương với Giáo Hội Rôma và sự hiệp thông giữa các Giáo Hội với nhau. Đức Thánh Cha là người kế vị Thánh Phêrô, đứng đầu “Tông đồ đoàn”, cũng là người đứng đầu “Giám mục đoàn”, và sự hiệp thông này làm thành Giáo Hội phổ quát. Nhưng không được quan niệm Giáo Hội địa phương có trước, và Giáo Hội phổ quát chỉ là “tổng số các Giáo Hội địa phương”. Chính Giáo Hội của Chúa Kitô là Giáo Hội phổ quát sinh ra các Giáo Hội địa phương và hiện hữu trong các Giáo Hội địa phương. Công thức tín lư “Ecclesia in et ex Ecclesiis” (Giáo Hội trong và từ các Giáo Hội) phải được bổ sung bằng một công thức tín lư khác là “Ecclesiae in et ex Ecclesia” (các Giáo Hội trong và bởi Giáo Hội)[19].

 

III. MỘT VÀI DẤU NHẤN CẦN THIẾT ĐỂ TRÁNH NHỮNG TƯ  TƯỞNG CỰC ĐOAN VỀ HIỆP THÔNG

 

Một từ ngữ trong Thần học Công  giáo cần được nhấn mạnh, để đức tin của chúng ta luôn là đức tin Tông truyền, đó là chữ và. Chữ và là một từ nối kết, chứ không là một từ phân ly.

 

1. Duy nhất và Đa dạng

 

Khi nói đến sự hiệp thông trong Giáo Hội, chúng ta đề cập đến “tính Duy nhất” và “sự Đa dạng”[20]. Không có sự chọn lựa giữa Duy nhất và Đa dạng, không có sự mâu thuẩn giữa Một và Nhiều. Nếu quá nhấn mạnh đến sự Duy nhất, chúng ta dễ rơi vào rập khuôn và đồng nhất, bấy giờ môi trường giáo xứ hay giáo phận có thể bóp chết các sáng kiến, dập tắt các đặc sủng của Chúa Thánh Thần. Nếu quá nhấn mạnh tới sự đa dạng, chúng ta có thể rơi vào sự hỗn loạn và chia rẽ.

 

Hơn bao giờ hết, ở đây Giáo Hội phải là “h́nh tượng” của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ có một Thiên Chúa là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha không phải là Chúa Con, Chúa Con không phải là Chúa Thánh Thần. Chúa Cha cũng không phải là Chúa Thánh Thần. Nhưng cả Ba Ngôi ở trong nhau và là Một với nhau.

 

2. Ḥa điệu và Tương phản

 

Một chữ và khác cần nhấn mạnh là chữ và giữa hai chữ ḥa điệu và tương phản (harmonie et contraste). Trong hiệp thông có ḥa điệu và tương phản đi đôi, hay chỉ có ḥa điệu mà không có chút tương phản nào ? Nếu dùng triết lư Đông phương, chúng ta sẽ bảo rằng không có ǵ thuần âm, cũng không có ǵ thuần dương. Nếu chỉ có âm, th́ không có ḥa điệu, mà nếu chỉ có dương th́ cũng không có ḥa điệu. Âm và Dương là hai điều tương phản, và ḥa điệu giữa âm và dương là ḥa điệu giữa những điều tương phản.

 

Nếu nhấn mạnh ḥa điệu mà coi thường tương phản, th́ chúng ta sẽ rất sợ những tương phản, những quan điểm trái ngược, mà có khi chúng ta đồng hóa với sự chống đối và nghĩ rằng như thế là không c̣n sự hiệp thông. Nếu quá nhấn mạnh tương phản, chúng ta trở thành những người chỉ thích nói ngược, và như thế sẽ không góp phần xây dựng được điều ǵ, mà chỉ phá đổ. Ở đây ta hăy ứng dụng triệt để câu nói của Đức Thánh Cha Gioan XXIII : Duy nhất trong những ǵ chính yếu, tự do trong những ǵ c̣n nghi ngờ, bác ái trong hết mọi sự (In necessariis unitas, in dubiis libertas, in omnibus caritas[21]).

 

3. Rồi và Chưa

 

Từ ngữ và cũng cần phải nhấn mạnh trong biện chứng “rồi và chưa” (déjà và pas encore) trong Thần học. Giáo Hội Chúa Kitô có thực sự là Giáo Hội hiệp thông, là Dấu chỉ , là H́nh tượng của sự “Hiệp thông Ba ngôi” không ? Rồi và Chưa. Nhờ và trong Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thực sự đă là “Mầu nhiệm hiệp thông”, là Môi sinh T́nh yêu, là nơi gặp gỡ tốt nhất, sâu xa nhất giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau.

 

Nhưng Giáo Hội cũng c̣n đang lữ thứ, đang hành tŕnh hướng đến hiệp thông. Khía cạnh chưa này rất rơ khi chúng ta nh́n vào các thành viên của Giáo Hội. Nhiều thành viên c̣n rất xa Chúa và xa nhau. Thân phận người Kitô hữu vẫn là thân phận tội lỗi, mặc dù đă được công chính hóa nhờ ân sủng v́ đă tin vào Đức Giêsu Kitô. Các thành phần dân Chúa c̣n phải cố gắng rất nhiều để có thể bước theo Chúa Giêsu trên con đường Vượt qua của Người. Bao lâu Giáo Hội c̣n tại thế, th́ Vượt qua và Hiệp thông vẫn c̣n kèm theo nhau : chúng ta kết hợp với Chúa để Vượt qua với Người, rồi nhờ Vượt qua với Người chúng ta lại kết hợp mật thiết hơn với Người.

 

Quá nhấn mạnh khía cạnh rồi, chúng ta sẽ thất vọng khi nh́n thấy những rạn nứt, chia rẽ, xung đột trong lịch sử Giáo Hội, và ngay trong hiện trạng mà chúng ta đang sống. Hăy lưu ư khía cạnh chưa, để chúng ta vừa là những con người thực tế, vừa không ngừng nỗ lực vươn lên, vừa cầu xin “Ơn Thông hiệp” là Thánh Thần T́nh yêu mà chắc chắn Thiên Chúa ban cho ta, mỗi lần ta cầu xin. Nhấn mạnh khía cạnh chưa là hướng tới cái “sẽ đến”, hướng tới tương lai, ḷng tràn ngập hy vọng, v́ tin tưởng vào T́nh yêu của Thiên Chúa, T́nh yêu lớn hơn tội lỗi và mạnh hơn tử thần.

 

IV. NHỮNG Ư NGHĨA KHÁC NHAU CỦA TỪ HIỆP THÔNG

 

Hiệp thông là một ư niệm rất phong phú về nội dung, nên có thể dùng một số từ ngữ khác, diễn tả những khía cạnh khác nhau, mà khía cạnh nào cũng đều có những hệ luận quan trọng cho đời sống tu đức của người Kitô hữu và công việc mục vụ của Giáo Hội.

 

1. Hiệp thông là “Thông phần” (participatio)

 

Trước hết hiệp thông là “Thông phần”. Tất cả chúng ta đều được ăn cùng một Bánh, uống cùng một Chén, thông phần vào “Ḿnh và Máu Thánh Chúa”, thông phần Hy tế thập giá của Chúa Kitô[22]. Tất cả chúng ta đều được thông phần cùng một Thần Khí, được uống cùng một thứ Nước Sự Sống là Thần Khí, v́ chúng ta đă chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một Thân Thể[23]. Trong Thần Khí, chúng ta được thông phần Sự Sống của Chúa, Anh Sáng của Chúa, T́nh yêu của Chúa, Sức mạnh của Chúa.

 

2. Hiệp thông là “Chia sẻ” (partage, sharing)

 

Hiệp thông c̣n có nghĩa là “chia sẻ”. Nghi lễ Bẻ Bánh ( Fractio Panis) trong Giáo Hội sơ khai, chính là Bí tích Thánh Thể, là “Bánh bẻ ra” để chia sẻ cho mỗi người chúng ta, là Thân Ḿnh của Chúa Kitô “tự hiến” cho chúng ta. Phaolô viết : “Chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10, 17).

 

3. Hiệp thông là “Kết hợp với” (Communio : Cum-Unio)

 

Ư nghĩa cơ bản nhất và thẳm sâu nhất của từ hiệp thông là “yêu mến”, là “gắn bó với nhau” là “kết hợp”, là “nên một với nhau”. Mục vụ hiệp thông là mục vụ nối kết, là “cùng nhau suy nghĩ và hành động”, là “đối thoại và cộng tác với nhau”.

 

4. Phân biệt giữa từ Hiệp thông và Hiệp nhất

 

Hiệp thông là một “tiến tŕnh”, một “vận hành” của t́nh yêu bao gồm sự “hướng về nhau” (tương hướng), “giao lưu với nhau” (tương giao), “kết hợp với nhau” (tương hợp), “hiện diện trong nhau” (tương tại). Hiệp thông không ǵ khác hơn là yêu nhau và gắn bó mật thiết với nhau. Chúa Thánh Thần là “Ngôi Vị T́nh yêu” nối kết Chúa Cha và Chúa Con mật thiết đến nỗi là một “Bản Thể Duy Nhất”. Chúa Thánh Thần được Chúa Cha và Chúa Con ban cho ta là “Thần lực T́nh yêu”, nhờ đó ta yêu mến, kết hợp với Ba Ngôi Thiên Chúa và với nhau.

 

Hiệp nhất là một trạng thái, là kết quả của tiến tŕnh, của hành vi yêu nhau : “là một với nhau v́ yêu nhau”. Trạng thái này nhấn mạnh tới sự “Duy nhất”, “Thống nhất” ngược với t́nh trạng chia rẽ, phân hóa, tan ră do thiếu t́nh yêu, của tập thể nhỏ như gia đ́nh hay lớn hơn như xă hội, dân tộc, kể cả tập thể tôn giáo như giáo xứ, giáo phận… Hiệp nhất là một trạng thái b́nh an, ổn định, đoàn kết, v́ không có sự chống đối, xung đột, không có hận thù ghen ghét…

 

Nhưng dù có nhấn mạnh sự hiệp nhất tới đâu đi nữa, chúng ta không được quên rằng, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi (Nhất Thể Tam Vị), và là Thiên Chúa Ba Ngôi Duy Nhất (Tam Vị Nhất Thể). “Sự hiệp thông Ba Ngôi” phải là mẫu mực, là  mô h́nh của Giáo Hội.

 

KẾT LUẬN

 

Ba Ngôi Thiên Chúa là Cội nguồn đầu tiên của loài người và của Giáo Hội, Ba ở đây cũng không chỉ là con số, mà là sự “giao lưu”, sự “trao đổi kỳ diệu”, là “sự viên măn của cái nhiều”, là những “tương quan t́nh yêu và sự sống”, là sự “chu lưu của t́nh yêu và sự sống”. Ba Ngôi Thiên Chúa cũng là Quê hương cuối cùng của loài người và của Giáo Hội.

 

Giáo Hội là Gia đ́nh của Thiên Chúa ở trần gian, làm sao cho mọi người sinh hoạt trong Giáo Hội , đều cảm thấy như “ở nhà ḿnh” : “Anh em không c̣n phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh, và là người nhà của Thiên Chúa” (Ep2, 19).

 

Giáo Hội là H́nh tượng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Làm sao mọi người có thể nhận ra t́nh yêu của Thiên Chúa khi nh́n vào Giáo Hội ! Sự hiệp thông mật thiết giữa các thành phần dân Chúa là bằng chứng chắc chắn nhất và là dấu chỉ hữu hiệu nhất[26] : “Cứ dấu này người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau” (Ga 13, 35).

 

                                    

Bài tham luận của ĐGM Giuse Trần Xuân Tiếu, GP. Long Xuyên

HIỆP THÔNG TRONG HỘI THÁNH ĐỊA PHƯƠNG

 

Tài liệu làm việc của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam dùng giáo huấn của Công đồng Vaticanô II để khẳng định: Hội Thánh Việt Nam phải trở nên bí tích của sự hiệp thông, hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa và hiệp thông giữa con người với nhau [1]. V́ thế, sự hiệp thông của Hội Thánh vừa là ân sủng của Thiên Chúa và cũng là trách nhiệm của con nguời. Ân sủng và trách nhiệm v́ sự hiệp thông của Hội Thánh là điều kiện thiết yếu để Hội Thánh là mầm mống của Nước-Trời-Đang-Phát-Triển [2], trong đó dân Thiên Chúa trở thành dụng cụ của Chúa Thánh Thần, thi hành chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa Cha, là qui tụ nhân loại và mọi loài thụ tạo cách viên măn trong ngày cánh chung trong Chúa Kitô [3].

 

Với ư tưởng ṇng cốt trên về sự hiệp thông của Hội Thánh, tôi xin tŕnh bày 3 điểm chính:

 

1. Một Hội Thánh Tham Gia và Hiệp Thông V́ Sứ Vụ.

2. Hiệp Thông trong nội bộ Hội Thánh trong tinh thần Đồng Trách Nhiệm.

3. Hội Thánh Đồng Trách Nhiệm đối thoại với cộng đồng nhân loại để xây dựng sự hiệp thông.

 

I. MỘT HỘI THÁNH HIỆP THÔNG VÀ THAM GIA V̀ SỨ VỤ

 

Tông Huấn Giáo hội Tại Á châu – Ecclesia in Asia (EA) viết: “Sự Hiệp thông trong Hội thánh ngụ ư nói mỗi Hội thánh địa phương (tại Á Châu) phải trở nên điều mà các nghị phụ Thượng Hội Đồng gọi là một Hội Thánh Tham Gia [6].

 

Như vậy, nhờ ân sủng của bí tích Thánh tẩy và bí tích Thêm sức, mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận được tham dự vào Sứ Vụ là chứng nhân và giảng dạy về sự Hiệp thông. Theo ư nghĩa này, Hội Thánh địa phương trở thành lớp học của Chúa Thánh Thần, trong đó, mọi người, giáo sĩ và giáo dân, vừa là học tṛ vừa là giáo viên về sự hiệp thông trong cuộc lữ hành trần thế. Quả thật, dân Thiên Chúa trong Hội thánh địa phương, nhờ được tham dự vào vai tṛ ngôn sứ, tư tế, và vương đế của Đức Kitô, được mời gọi tham dự vào bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể, và được Chúa Thánh Thần liên kết hiệp nhất trong đức tin, đức ái, và đức cậy. Đây thật là gia đ́nh của Thiên Chúa mà từng người và mọi ngừơi có sứ vụ đón nhận, sống, và thông truyền những giá trị về sự thật từ Lời Chúa, về t́nh yêu cứu độ, và về sự tự do của con cái Thiên Chúa hướng đến cùng đích là qui tụ đoàn con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối trong sự hiệp thông trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.

 

II. HIỆP THÔNG TRONG NỘI BỘ HỘI THÁNH VỚI TINH THẦN ĐỒNG TRÁCH NHIỆM

 

Nhờ bí tích Thánh Tẩy, mọi Kitô Hữu không chỉ chia sẻ sự sống thần linh, mà c̣n chia sẻ sứ vụ của Chúa Kitô nơi trần thế trong chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa. Chính v́ thế, sự hiệp thông trong giáo phận được thể hiện trong tinh thần đồng trách nhiệm của toàn thể dân Thiên Chúa đối với sứ mạng của Hội Thánh Chúa Kitô.

 

Kế đến, tinh thần đồng trách nhiệm c̣n được thể hiện trong tương quan giữa hàng giáo sĩ và giáo dân. Thật vậy, mọi kitô hữu được mời gọi tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô. Trong khi hàng giáo dân tham dự vào chức linh mục phổ quát, th́ hàng giáo sĩ tham dự vào chức linh mục thừa tác của Chúa Kitô. Theo ư nghĩa này, tinh thần đồng trách nhiệm phải được Hội thánh địa phương biểu hiện trong hội đồng mục vụ giáo xứ, giáo hạt, và giáo phận. Tinh thần đồng trách nhiệm c̣n được thực hiện qua hội đồng kinh tế của giáo xứ và giáo phận.

 

Cuối cùng, sự hiệp thông và tham gia của Giáo hội địa phương được thực hiện một cách rất hợp thời trong các cộng đoàn Giáo hội cơ bản mô phỏng theo các cộng đoàn sơ khai thời các tông đồ (x Cv 2,44-47;4,32-35). Thực vậy, chính các cộng đoàn giáo hội cơ bản là một cách thế thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm của Hội thánh địa phương với sứ vụ trong hoàn cảnh xă hội ngày nay [9].

 

III.    HỘI THÁNH ĐỒNG TRÁCH NHIỆM ĐỐI THOẠI VỚI CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI ĐỂ XÂY DỰNG SỰ HIỆP THÔNG

 

Tông huấn Giáo Hội Tại Á Châu khẳng định: “ Sự đóng góp duy nhất của giáo hội cho các dân tộc trên lục địa (Á Châu), là việc rao giảng về Chúa Kitô Giêsu, Thiên Chúa thật và là Người thật, Đấng Cứu Thế độc nhất và duy nhất cho mọi dân tộc” (EA 10). Đó cũng là sứ vụ của các giáo hội địa phương tại Việt Nam

 

Sứ mạng này là của mọi Kitô hữu v́ “Bản chất của giáo hội lữ hành là truyền giáo”, và Hội Thánh là cộng đồng các sứ giả tin mừng trong thế giới hôm nay. Điều này nói lên tinh thần đồng trách nhiệm của mọi thành phần Dân Chúa trong giáo hội địa phương, thực hiện sự đối thoại để xây dựng sự hiệp thông trong thế giới hôm nay.

 

Tinh thần đồng trách nhiệm này được Liên hiệp Hội Đồng giám mục Á Châu cổ vơ trong tổ chức “Cộng Đồng Nhân Sinh Cơ Bản”, trong đó, các Kitô hữu không chỉ quan tâm đến đời sống phượng tự tại nhà thờ, nhưng là những hạt nhân sinh động trong cộng đồng xă hội” [10]. Chính nhờ cộng đồng nhân sinh cơ bản này, Hội Thánh địa phương đang đối thoại bằng đời sống và bằng hoạt động, để chuẩn bị cho cuộc đối thoại bằng diễn giảng và bằng chia sẻ cảm nghiệm thiêng liêng.

 

Một trong những món quà mà Hội Thánh Việt Nam dâng lên Thiên Chúa trong năm thánh này là xây dựng một Hội Thánh Hiệp Thông và Tham Gia v́ sứ vụ với tinh thần đồng trách nhiệm, để mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Chúa Kitô tiếp tục trổ sinh hoa trái trên quê hương Việt Nam thân yêu.

 

 

Lạy Đức Mẹ La Vang,

chúng con tin tưởng và cảm nhận Mẹ hằng che chở phù tŕ Giáo Hội Việt Nam

trong mọi chặng đường, khi an vui cũng như lúc u sầu,

khi hân hoan cũng như lúc khó khăn, thử thách…

Mẹ chính là khuôn mẫu lư tưởng của Giáo hội,

khi hoàn toàn tự hiến cho công tŕnh cứu chuộc của Chúa Kitô như người nữ tỳ hèn mọn.

Chúng con xin phó thác cho Mẹ

những đường hướng và chương tŕnh mục vụ của Giáo Hội Việt Nam,

như bằng chứng cho sự hoán cải và kiên quyết bước theo Chúa Giêsu Con Mẹ.

Chúng con phó dâng cho Mẹ cả những thiếu sót không thể tránh được của chúng con,

v́ tin rằng không ai kêu cầu Mẹ mà lại không được Mẹ trợ giúp.

Xin Mẹ thương chúc lành cho chúng con và che chở Giáo hội của Chúa Kitô tại Việt Nam

bây giờ và măi măi. Amen.