Tại
sao “Học
hỏi
về
Giáo
hội
như Mầu nhiệm,
Hiệp thông, Sứ
vụ”?
I. Vui Mừng:
Tôi đă đọc
“Thư Hội đồng
giám mục Việt
Nam gửi cộng
đồng dân Chúa
công bố Năm
Thánh 2010”,
trong số 3 có
nói rằng:
“Năm Thánh 2010
là cơ hội thuận
lợi cho chúng ta
học hỏi về Giáo
Hội mầu nhiệm,
hiệp thông, sứ
vụ”. Rồi
trong “Nội
quy Năm Thánh
2010” đăng
trong báo Hiệp
thông số 52,
cũng của Hội
đồng giám mục,
trong phần II cử
hành Năm Thánh
2010, nói rằng:
“Hội đồng
giám mục Việt
Nam ‘quyết tâm
cùng nhau làm
mới h́nh ảnh
Giáo Hội tại
Việt Nam’, và
chọn chủ đề của
Năm thánh 2010
là:
Giáo Hội tại
Việt Nam: Mầu
nhiệm – Hiệp
thông – Sứ vụ
Chủ đề này được
triển khai theo
3 chủ điểm lớn
sau đây: Giáo
hội
mầu nhiệm – giáo
hội hiệp thông –
giáo hội sứ vụ”.
Một “tiểu
ban” sẽ soạn
thảo các tài
liệu học hỏi và
cử hành Năm
thánh theo 3
chiều kích, hay
3 lănh vực mục
vụ (giáo hội mầu
nhiệm, giáo hội
hiệp thông, giáo
hội sứ vụ)… Điều
làm tôi vui mừng
chính là được
“học hỏi về
giáo hội”
và “cùng
nhau làm mới
h́nh ảnh giáo
hội tại Việt Nam”,
theo 3 chủ
điểm hay 3 chiều
kích: mầu nhiệm,
hiệp thông, sứ
vụ. Tôi có
dịp hỏi một số
linh mục già
cũng như trẻ,
một số tu sĩ, và
giáo lư viên
rằng có biết tại
sao mà HĐGM chọn
lựa học hỏi về
giáo hội theo 3
chiều kích kể
trên không? Tất
cả đều trả lời
là chẳng có thắc
mắc tại sao, mà
thấy các ngài
nêu ra th́ cứ
việc học hỏi
thôi. C̣n tôi,
tôi đọc hết Đề
cương và các bài
viết trong báo
Hiệp thông cho
tới nay chủ ư
t́m xem HĐGM có
nói tại sao đă
chọn để học hỏi
giáo hội theo mô
h́nh đó không,
mà chỉ thấy
trong Nội quy,
(phần I. Ư nghĩa
và mục đích),
nêu ra quyết tâm
“làm mới h́nh
ảnh gia đ́nh
giáo hội tại
Việt Nam theo
h́nh mẫu mà công
đồng Vatican II
1965 đă phác
hoạ: giáo hội
hiệp thông, giáo
hội tham gia,
giáo hội v́ loài
người”,
nên tôi cũng
không rơ lư do
các ngài đă chọn
lựa. Nhưng riêng
tôi, tôi rất tâm
đắc, và nhận
thấy chọn lựa
của HĐGM rất
chính đáng, hữu
ích và c̣n cần
thiết cho giáo
hội Việt Nam hôm
nay, bởi v́ tôi
may mắn có được
tài liệu của
Thượng hội đồng
giám mục đặc
biệt 1985, THĐGM
này được gọi là
đặc biệt v́ để
kỷ niệm 20 năm
bế mạc Công đồng
Vatican II, do
Đức Gioan Phaolô
II triệu tập,
cùng với 118
Nghị phụ đại
diện các HĐGM,
nhằm “trao
đổi và đào sâu
các kinh nghiệm
và các kiến thức
để áp dụng công
đồng”, cũng
như “góp phần
vào việc thực
thi công đồng
cách trung thực
và đầy đủ trong
đời sống giáo
hội”. THĐGM
đặc biệt này
không phổ biến
tài liệu dưới
h́nh thức Tông
huấn, như các
THĐGM khác, mà
chỉ phát hành
một tập tài liệu
gồm báo cáo của
Đức Hồng y
Garrone và Đức
Hồng y Danneels.
Hôm nay, sau 25
năm, đọc lại tài
liệu ấy, tôi
thấy như HĐGMVN
đang muốn cùng
với Dân Chúa làm
lại kinh nghiệm
của các nghị phụ
của THĐGM đặc
biệt. Các nghị
phụ này hầu hết
đă tham dự Công
đồng, khi về gặp
lại nhau sau 20
năm đem áp dụng
những đổi mới
của Công đồng,
đă góp ư cho
nhau những nhận
xét và kinh
nghiệm sâu sắc,
mà ngày nay tôi
nghĩ rằng có
nhiều người chưa
biết đến, nếu
biết sẽ hiểu
giáo hội sâu hơn
và thực thi giáo
huấn của Công
đồng tích cực
hơn.
Quả vậy, trong
tài liệu của
THĐGM đặc biệt,
các nghị phụ đă
cho biết một số
điều cốt yếu sau
đây:
1.
Khi bắt
đầu họp Công
đồng Vatican II,
các nghị phụ đă
đưa ra quá nhiều
lược đồ, sau các
ngài mới nhất
trí “tập
trung vào 3
chiều kích là:
Chúa Kitô, Giáo
hội,
và thế giới”.
2.
Từ 3
chiều kích đó,
các nghị phụ
“đặt Chúa
Giêsu Kitô là
nền tảng và
trung tâm của
tất cả các tài
liệu Công đồng”
(quy Kitô), và
chọn “Giáo
hội
là đề tài trung
tâm của Công
đồng
… Giáo
hội
vâng lời Thiên
Chúa cử hành các
mầu nhiệm Chúa
Kitô cho thế
giới được cứu độ”,
đây chính là
sứ vụ của Giáo
hội.
3.
Khi bàn
về đề tài trung
tâm là Giáo
hội,
Đức Hồng y
Garrone báo cáo
rằng các nghị
phụ Công đồng đă
làm một việc đặc
biệt là
“đảo ngược viễn
tượng có tính
cách cơ bản, làm
người ta phải
nh́n Giáo
hội
như một toàn bộ
trước khi nh́n
Giáo
hội
trong chi tiết
của các yếu tố
cấu thành”,
nghĩa là các
ngài đă không
theo cái nh́n cơ
bản mà thần học
cổ điển quen
tŕnh bày về
Giáo
hội
như: trước hết
là định nghĩa,
nguồn gốc, rồi
đến các đặc
tính, tổ chức,
các thánh thông
công … nhưng các
ngài đă chọn lựa
để bàn ngay đến
Giáo
hội
là mầu nhiệm, là
hiệp thông, là
sứ vụ.
Sự đảo ngược này
tránh cho mọi
người có cái
nh́n bị phân tán
vào các chi tiết
cấu thành nhưng
có một cái nh́n
tổng hợp và hữu
cơ về Giáo
hội:
tổng hợp là bao
gồm được nhiều
thành phần có
quan hệ chặt chẽ
với nhau làm
thành một tổng
thể; c̣n hữu cơ,
không phải là
đối nghịch với
vô cơ, mà là có
quan hệ không
thể tách rời
nhau để tồn tại
hoặc hoạt động,
như trong một cơ
thể vậy.
“Nhờ thế, người
ta có thể trả
lại cho mỗi yếu
tố, chức năng
chính xác của nó
trong một viễn
tượng toàn diện
và dưới ánh sáng
của một cứu cánh
chung. Nhờ vậy
mỗi cơ quan t́m
lại được ư nghĩa
đích thực của
ḿnh, chẳng hạn
mọi quyền bính
đều mang tính
cách một phục vụ”.
4.
Ư muốn
của công đồng là
như thế, nhưng
sau công đồng 20
năm, THĐGM đặc
biệt đă nhất trí
rằng “khái
niệm Giáo
hội
như mầu nhiệm,
tỏ ra khó hiểu
đối với nhiều
Kitô hữu”,
và “ư niệm
Giáo
hội
– Hiệp thông đă
không thấm nhập
vào dân Kitô
giáo”,
dù công đồng
nhận thấy
“ư tưởng hiệp
thông đă trở
thành giá trị
tối hậu”,
và Công đồng đă
“lấy khái
niệm Giáo
hội
Hiệp thông làm
khái niệm căn
bản cho công
tŕnh học hỏi
của ḿnh”.
5.
V́ thế,
các nghị phụ của
THĐGM đặc biệt
chọn chủ đề
trung tâm là:
“Giáo
hội
lắng nghe Lời
Chúa, cử hành
các mầu nhiệm
của Chúa Kitô để
thế giới được
cứu độ”.
Và từ chủ đề
trung tâm này
các ngài rút ra
4 đề tài để khai
triển:
1.
Mầu nhiệm
của Giáo
hội
là ǵ?
2.
Nguồn
mạch sống của
Giáo
hội
là Lời Chúa
trong Thánh Kinh
và Thánh Truyền.
3.
Giáo
hội
là “hiệp
thông” như
thế nào?
4.
Sứ vụ của
Giáo
hội
hôm nay là ǵ?
Các ngài muốn
“đào sâu sự hiểu
biết về Công
đồng – cả văn tự
lẫn tinh thần –
để đi tới chỗ
thực hiện Công
đồng cách trung
thực và đầy đủ
trong đời sống
Giáo
hội”.
1.
Để giúp
Dân Chúa nắm bắt
được ư nghĩa
toàn vẹn hay
toàn diện (sens
integral) của
các chủ đề trên,
các nghị phụ đă
khai triển mỗi
chủ đề một cách
ngắn gọn, súc
tích như sau:
2.
Mầu nhiệm của
Giáo
hội
là ǵ?
“Tất cả sự
quan trọng của
Giáo
hội
bắt nguồn từ mối
quan hệ giữa
Giáo
hội
và Chúa Kitô,
một Chúa Kitô là
Thiên Chúa làm
người”.
Từ mối quan hệ
này mà Giáo
hội
được Công đồng
“mô tả như
Dân Thiên Chúa,
Thân Ḿnh Chúa
Kitô, Hôn thê
của Chúa Kitô,
Đền thờ của Chúa
Thánh Thần, Gia
đ́nh của Thiên
Chúa”. Đó là
“mầu nhiệm
Giáo
hội
trong Chúa Kitô”.
“Giáo
hội
được coi là dấu
chỉ và dụng cụ
của sự thánh
thiện”.
Tuy nhiên,
“Giáo
hội
vẫn c̣n là Giáo
hội
mang trong ḷng
những người tội
lỗi. Giáo
hội
thánh nhưng vẫn
phải được thanh
luyện”.
3.
Giáo
hội
là hiệp thông
như thế nào?
“Chữ hiệp
thông phức tạp,
nó có nghĩa ǵ?
Cơ bản đó là
hiệp thông với
Thiên Chúa, nhờ
Chúa Giêsu,
trong Chúa Thánh
Thần. Sự hiệp
thông đó được
thực hiện trong
Lời Chúa và
trong các nhiệm
tích”. Sự
hiệp thông này
có “tính hiệp
nhất và tính đa
dạng” nghĩa
là “Giáo
hội
duy nhất và phổ
quát lại thật sự
hiện diện trong
mọi Giáo
hội
địa phương”,
“chính nhờ và
trong các Giáo
hội
địa phương mà có
một Giáo
hội
công giáo duy
nhất”.
Mọi thành phần
trong Giáo
hội
duy nhất đó, từ
Đức Giáo
hoàng
đến các giám
mục, các hội
đồng giám mục,
các linh mục, tu
sĩ, giáo dân nam
nữ già trẻ …
hiệp thông với
nhau bằng việc
tham gia và đồng
trách nhiệm, và
c̣n phải hiệp
thông đại kết
với các cộng
đồng ngoài công
giáo nữa.
4.
Sứ vụ của Giáo
hội
trong thế giới
là ǵ?
Tự bản chất thâm
sâu, Giáo
hội
là mầu nhiệm, là
hiệp thông với
Thiên Chúa và
với mọi thành
phần trong Giáo
hội;
Giáo
hội
c̣n được sai tới
thế giới để đối
thoại với thế
giới và t́m cách
cứu độ thế giới,
một thế giới mà
các nghị phụ
thấy sau công
đồng 20 năm, đă
“gia tăng các
nạn đói kém, áp
bức bất công và
chiến tranh, nạn
tra tấn, nạn bạo
hành, và đủ mọi
h́nh thức bạo
động khác”.
Giáo
hội
địa phương phải
hội nhập văn
hoá, đối thoại
với các tôn giáo
ngoài Kitô giáo
và với cả những
người không tin.
Đặc biệt THĐ
1985 nhắc lại
thái độ của công
đồng là: “vui
mừng và hy vọng,
ưu sầu và lo
lắng của con
người ngày nay,
nhất là của
người nghèo và
những ai đau
khổ, cũng phải
là vui mừng và
hy vọng, ưu sầu
và lo lắng của
các môn đệ Chúa
Kitô”, và
c̣n quyết tâm
“chọn lựa dành
ưu tiên cho
những người
nghèo và việc
thăng tiến con
người”. Các
ngài mong muốn
Giáo
hội
“ư thức hơn
về sứ vụ của
ḿnh nhằm phục
vụ người nghèo,
kẻ bị áp bức,
những người sống
bên lề”. Các
ngài nhấn mạnh
rằng: “ngoài
cái nghèo vật
chất, c̣n có sự
thiếu tự do và
các của cải
thiêng liêng mà
người ta có thể
coi như một h́nh
thức của nghèo
khổ. Sự thiếu
thốn đó đặc biệt
nghiêm trọng khi
tự do tôn giáo
bị sức mạnh tiêu
diệt. Một cách
tiên tri, Giáo
hội
phải tố cáo mọi
h́nh thức nghèo
khó và áp bức,
bênh vực và cổ
cơ ở mọi nơi các
quyền cơ bản và
bất khả tước
đoạt của con
người”.
Và “Thượng
hội đồng tỏ bày
sự hiệp thông
với các anh chị
em đang bị bắt
bớ v́ đức tin
hay v́ cổ vơ cho
công lư. THĐ
dâng lên Thiên
Chúa lời cầu
nguyện cho họ”.
Những điều cốt
yếu tóm lại ở
trên cho thấy
rằng để việc đào
sâu ư nghĩa về
Giáo
hội,
và để có thể thi
hành giáo huấn
của Công đồng
cách thiết thực,
đầy đủ hơn trong
đời sống Kitô
hữu, THĐ đặc
biệt đă triển
khai mô h́nh
Giáo
hội
là mầu nhiệm, là
hiệp thông, là
sứ vụ, nhằm làm
cho Giáo
hội
có được một ư
nghĩa toàn vẹn
hay toàn diện
hơn, từ đó có
thể có cái nh́n
tổng hợp và hữu
cơ về Giáo
hội,
và cũng nhờ đó
giúp cho mọi
thành phần trong
Giáo
hội
hiểu sâu xa và
đầy đủ hơn căn
tính toàn vẹn
của ḿnh.
Ba năm sau, năm
1986, tông huấn
“về ơn gọi và
sứ mạng của giáo
dân trong Giáo
hội
và thế giới”,
đă theo mô h́nh
trên, để khai
triển ơn gọi và
sứ mạng đó trong
3 chương đầu:
·
Chương 1:
Phẩm giá của
giáo dân trong
giáo hội – Mầu
nhiệm.
·
Chương 2:
Sự tham gia của
giáo dân vào đời
sống giáo hội –
Hiệp thông.
·
Chương 3:
Tinh thần đồng
trách nhiệm
trong giáo hội –
Sứ vụ.
Rồi năm 1992
Tông huấn Đào
tạo linh mục
cũng theo cách
tổng hợp của
Công đồng, để
đặt chức linh
mục trong mô
h́nh giáo hội
như mầu nhiệm,
Hiệp thông, Sứ
vụ, để từ đó t́m
ra căn tính, bản
chất, và linh
đạo của linh
mục.
Sau đó năm 1996,
tông huấn đời
thánh hiến có 3
chương th́:
·
Chương đầu:
tŕnh bày
“Đời thánh hiến
trong mầu nhiệm
của giáo hội”.
·
Chương 2:
nói về Đời thánh
hiến dấu chỉ
hiệp – thông
trong giáo hội.
·
Chương 3:
bàn về những
người được thánh
hiến cho sứ vụ
truyền giáo.
Đó là công việc
mà giáo hội toàn
cầu đă làm. Đặc
biệt ở Á châu,
năm 1999 THĐGM Á
châu cũng đă
theo mô h́nh
trên để đào sâu
ư nghĩa về Giáo
hội
và cố gắng suy
tư t́m ṭi nhằm
làm cho giáo hội
đổi mới cách
hiện diện tại Á
châu, giúp cho
việc Phúc âm hoá
Á châu được hữu
hiệu. Hơn nữa,
liên HĐGM Á châu
c̣n dấn thân
tích cực để suy
tư và đề xuất
nhiều sáng kiến
góp phần làm cho
bộ mặt Giáo
hội
tại Á châu có
thể hấp dẫn dân
tộc Á châu hơn,
chẳng hạn như
Giáo
hội
phải hiệp thông
trong nội bộ,
phải đối thoại
với các tôn giáo
bạn, phải ưu
tiên lo thăng
tiến phẩm giá
con người nhất
là người nghèo
bị đàn áp bóc
lột, phải hội
nhập văn hoá, và
sống đời chứng
nhân …
Như vậy, sau 20
năm công đồng
Vatican II, các
nghị phụ của
THĐGM đặc biệt
thấy rằng chủ đề
Giáo
hội
là mầu nhiệm,
hiệp thông, sứ
vụ chưa được dân
Kitô giáo hiểu
và đem áp dụng,
nên các ngài đă
góp ư để hiểu
sâu hơn mà đem
áp dụng vào đời
sống, rồi các
THĐGM theo sau
cũng như liên
HĐGM Á châu tiếp
tục đào sâu và
t́m cách thực
thi trong đời
sống. Và năm nay
2010, sau 25 năm
THĐGM đặc biệt,
Giáo
hội
tại Việt Nam đă
chọn chủ đề
trên, để học hỏi
và trả lời câu
hỏi “Hỡi Giáo
hội
tại Việt Nam,
hăy nói xem ḿnh
là ai?”
(xem đề cương),
và để “quyết
tâm làm mới h́nh
ảnh gia đ́nh
Giáo
hội
tại Việt Nam”
(xem nội quy).
Có người cho là
muộn, nhưng muộn
c̣n hơn không
(Better late
than never), bởi
v́ có một kư giả
hỏi Đức Giáo
hoàng
Bênêđictô XVI là
có cần một
Vatican III
không, th́ Ngài
trả lời: “Tôi
thiết tưởng
chuyện đó không
xảy ra trong
tương lai gần …
c̣n lâu chúng ta
mới thực hiện
được hết những
điều của công
đồng Vatican II”
(xem Muối cho
đời trang 253).
Và Giáo
hội
tại Việt Nam
hoan hỉ vui mừng
v́ tất cả đang
bắt tay vào việc
đổi mới Giáo
hội
nhờ dịp Năm
thánh này. Muộn
c̣n hơn không,
tuy nhiên lại có
lợi nữa là được
hưởng những kinh
nghiệm rất quư
giá của THĐ đặc
biệt, của Tông
huấn
về Giáo
hội
tại Á châu, nhất
là những thử
nghiệm của Liên
HĐGM Á châu để
cố gắng làm mới
bộ mặt của Giáo
hội
tại Á châu. Giáo
hội
tại Việt Nam chỉ
việc tận dụng
những trải
nghiệm đó để đi
một bước nữa là
áp dụng cho
thích nghi với
bối cảnh Việt
Nam, giúp cho
giáo sĩ, tu sĩ,
giáo dân hiểu và
sống theo mô
h́nh Giáo
hội
mầu nhiệm, hiệp
thông, và sứ vụ
một cách trọn
vẹn hơn.
II. Hy Vọng:
Vui mừng v́
HĐGMVN đă chọn
chủ đề Giáo
hội
mầu nhiệm, hiệp
thông, sứ vụ, đă
soạn Đề cương để
học hỏi, soạn
Nội quy để tổ
chức Đại hội dân
Chúa trao đổi
góp ư, có ban
thư kư đại hội
soạn thảo văn
kiện “thành
bản chỉ dẫn thực
hiện chương
tŕnh mục vụ
tương lai”
(Nội quy c̣n lưu
ư: cần tránh
dừng lại ở những
cách nói mang
tính đại cương
hoặc chỉ cổ vơ).
“Sau đại hội,
HĐGM sẽ xác định
thể thức và thời
điểm toàn thể
GHCG Việt Nam
thi hành những
quyết định được
ghi trong văn
kiện sau đại
hội”. Công
việc chuẩn bị
thật chu đáo. Đó
là lư do chính
đáng để mọi
người càng vui
mừng và hy vọng.
Tuy nhiên, trong
vài năm gần đây,
chúng ta đă và
đang “trải
qua những cuộc
bể dâu” mà
ai cũng biết,
như vụ Toà khâm
sứ Hà Nội và đất
của giáo xứ Thái
Hà (Hà Nội) bỗng
nhiên biến thành
công viên cây
xanh. Việc này
được toàn bộ
Tổng giáo phận
Hà Nội từ Đức
tổng giám mục,
các giám mục,
linh mục, tu sĩ,
giáo dân, đều
hiệp thông với
nhau cách cụ thể
bằng cầu nguyện,
thăm viếng, an
ủi. Ngoài ra c̣n
có 2 giám mục ở
tổng giáo tỉnh
Huế là Đức cha
giáo phận Vinh
và Đức
cha
giáo phận Kontum
cũng có thư hiệp
thông, Đức cha
giáo phận Vinh
c̣n nói rơ:
“việc của Thái
Hà, cũng là việc
của Vinh”.
Và Ḍng Chúa Cứu
Thế ở Sài G̣n
cũng tổ chức cầu
nguyện tỏ t́nh
hiệp thông. C̣n
các nơi khác th́
không lên tiếng
ǵ. Rồi đến vụ
nền nhà thờ giáo
xứ Tam Toà ở
Quảng B́nh bị
chiếm, Đức
hha
giáo phận Vinh
có hiệp thông;
vụ trường học ở
giáo xứ Loan Lư
Huế bị mất, Đức
cha giáo phận
Huế có hiệp
thông. Ơ Sài
G̣n, một khu nhà
đất của các nữ
tu Bác ái
Vinhsơn bị lấy
mất, các vị chủ
chăn Sài G̣n
không lên tiếng.
Ở Vĩnh Long,
trường cô nhi
của các nữ tu
ḍng thánh
Phaolô cũng biến
thành công viên
cây xanh, nhưng
lại được Đức
giám mục Vĩnh
Long lên tiếng,
và có người can
ngài rằng
“lên tiếng chẳng
ăn thua ǵ đâu”
th́ ngài nói là
“biết rằng
không ăn thua
ǵ, nhưng cứ
phải nói lên sự
thật cho mọi
người biết”.
C̣n khu Giáo
hoàng học viện ở
Đà Lạt cũng được
biến thành công
viên, nhưng Đức
giám mục Đà Lạt
biết và không
lên tiếng… Trước
những “cuộc
bể dâu” như
vậy, văn pḥng
HĐGM Việt Nam có
thông báo cho
biết có nhiều
người tỏ ra bức
xúc v́ không
thấy HĐGM lên
tiếng, nên văn
pḥng cho biết
rằng về vụ đất
đai th́ Đức cha
chủ tịch HĐGM đă
có lên tiếng
trong một bức
thư rồi. Văn
pḥng không đả
động ǵ đến các
cuộc bể dâu: nhà
đất biến thành
công viên, đặc
biệt là cây
thánh giá bị đặt
chất nổ phá tan
tành ở giáo xứ
Đồng Chiêm, Hà
Nội. Ít bữa sau
lại thấy có thư
của Đức cha chủ
tịch HĐGMVN tỏ
t́nh hiệp thông
với Giáo
hội
ở Haiti bị động
đất tàn phá.
Đang khi đó th́
Giáo
hội
Balan bên Âu
châu đă dành một
ngày trong tháng
giêng năm 2010
để hiệp thông
cầu nguyện cho
giáo xứ nhỏ bé
là Đồng Chiêm
thuộc giáo phận
Hà Nội. Chúng ta
cũng thấy Đức
Giáo
hoàng
Bênêđictô XVI
khi biết tin ở
đâu có tai nạn
hoặc thiên tai
lớn như ở Haiti,
ở Chilê, ngài
luôn tỏ t́nh
hiệp thông bằng
cầu nguyện cho
người đă qua
đời, và xin ơn
an ủi cho người
c̣n sống; và ở
lịch công giáo,
có lần trong ư
cầu nguyện mỗi
tháng, ngài c̣n
xin “cầu
nguyện cho mọi
người biểu lộ
t́nh huynh đệ
bằng những cử
chỉ cụ thể”
(ư cầu nguyện
tháng 12-2008).
Xem như thế, nếu
sau công đồng
Vatican II 20
năm, mà các nghị
phụ của THĐGM
đặc biệt đă thấy
rằng mầu nhiệm
Giáo
hội
hiệp thông tỏ ra
khó hiểu và chưa
thấm nhập vào
dân Thiên Chúa,
th́ nay, sau
thêm 25 năm nữa,
cộng đồng dân
Chúa tại Việt
Nam đă trải qua
những cuộc bể
dâu, và đă có
nhiều phản ứng,
nhiều kiểu hiệp
thông khác nhau,
có thể nghĩ rằng
hiệp thông cũng
đă thấm nhập vào
dân Chúa ở đây
nhưng hiệp thông
như thế nào?
Thật khó thẩm
định. Cuối Nội
quy về Năm Thánh
của HĐGMVN có
nêu ra mấy
nguyên tắc để
thẩm định là:
“hiệp nhất trong
những ǵ cốt
yếu, tự do trong
những ǵ hồ
nghi, bác ái
trong tất cả”;
nếu tôi không
lầm th́ những
nguyên tắc trên
được nói tới từ
thời Công đồng
Vatican II, tuy
có vẻ rơ ràng
chính xác, nhưng
việc thẩm định
xem cái ǵ là
cốt yếu, cái ǵ
là hồ nghi…
không phải dễ.
Rồi c̣n “bác
ái trong tất cả”
cũng rất chung
chung, bởi v́
tôi thấy trước
kia có hai giám
mục chọn khẩu
hiệu giám mục là
“chân lư
trong bác ái”
(Đức cha Bart.
Lâm), và
“chân lư trong
t́nh thương”
(Đức cha FX.
Sang) theo thư
thánh Phaolô (Ep
4,15); rồi mới
đây Đức Giáo
hoàng
Bênêđictô XVI có
Thông điệp
“Bác ái trong
chân lư”.
Cho nên nguyên
tắc “Bác ái
trong tất cả”
phải hiểu thêm
là bác ái trong
chân lư nữa, mà
“bác ái trong
chân lư”
theo Đức cha P.
Khảm nghĩa là
“bác ái cần được
thực thi trong
chân lư… chỉ
trong chân lư
bác ái mới có
thể chiếu toả và
được sống đúng
đắn… Bác ái phải
đi đôi với sự
thật. Sự thật ở
đây là chính
thực tế và những
ǵ đang diễn ra
trong thực tế…
sự thật nền tảng
mà Đức Bênêđictô
XVI nhấn mạnh là
sự thật về con
người” (Một
vài ghi nhận khi
đọc Thông điệp
“bác ái trong
chân lư”,
đăng trong CG và
DT số 1732 trang
16). Từ điển
Việt Nam giải
nghĩa rằng:
“thực tế là tổng
thể những ǵ cụ
thể đang tồn
tại, đang diễn
ra trong tự
nhiên và xă hội,
có quan hệ đến
đời sống con
người”. Về
chuyện “sự
thật”, người
Việt Nam lại có
câu “Sự thật
mất ḷng”
câu này thường
đi với câu:
“thuốc đắng đă
tật, sự thật mất
ḷng”, ư nói
thuốc thường là
đắng và sự thật
dễ làm mất ḷng,
nhưng nên chấp
nhận đắng, chấp
nhận sự thật th́
tốt hơn. Tuy
nhiên đă có
người v́ không
muốn làm mất
ḷng nên không
dám nói lên sự
thật, hoặc có
người nghĩ rằng
ḿnh không biết
ăn nói làm sao
để khỏi mất
ḷng, nên đành
làm thinh không
nói ra sự thật;
đang khi đó có
người khác lại
nghĩ rằng
“phải bảo vệ
giáo lư tinh
tuyền, phải bảo
vệ sự công bằng
cho con người,
nên phải can đảm
nói sự thật khi
cần, dù phải trả
giá bằng mạng
sống”. Thẩm
định vẫn c̣n
khó…
Để Kết,
có trải qua
những cuộc bể
dâu, mới gặp
những điều trông
thấy mà xâu xé
ḷng, bởi nhiều
thách đố mục vụ
vừa phức tạp vừa
nhạy cảm, cho
nên Dân Chúa tại
Việt Nam đang
hết sức vui mừng
và hy vọng, nhờ
dịp Năm Thánh
này, HĐGM Việt
Nam đưa ra những
“thẩm định,
phân định, và
quyết định…
chính xác rơ
ràng… tránh
những cách nói
mang tính đại
cương hoặc chỉ
để cổ vơ”,
điều này chính
các ngài đă đề
ra trong Nội quy
(xem Nội quy
phần III); nhờ
đó “cộng đồng
Dân Chúa có thể
làm mới h́nh ảnh
gia đ́nh Giáo
hội
tại Việt Nam
bằng những cử
chỉ cụ thể, vừa
hiệp nhất trong
những ǵ cốt
yếu, vừa tự do
trong những ǵ
hồ nghi, vừa bác
ái đi đôi với sự
thật, trong tất
cả mọi sự”.
Linh mục Antôn
Nguyễn Mạnh Đồng
Giáo phận Cần
Thơ
www.liendoanconggiao.net