Đức Giáo Hoàng Bin Đức XVI: Bài Ging L Đêm Giáng Sinh 24/12/2010 ở Đền Thờ Thánh Phêrô: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đă sinh ra Con”

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Con là Con Cha, hôm nay Cha đă sinh ra Con” – với câu Thánh Vịnh thứ 2 này, Giáo Hội bắt đầu phụng vụ của đêm thánh này…

 

Việc nên trọn của lời tiên tri này, việc nên trọn bắt đầu đêm ở Bêlem ấy, vừa vô cùng lớn lao hơn lại vừa, theo ngôn ngữ trần gian, nhỏ bé hơn chính lời tiên tri khiến người ta có thể tưởng tưởng. Nó cao cả hơn ở chỗ con trẻ này thực sự là Con Thiên Chúa, thực sự là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Khoảng cách vô cùng giữa Thiên Chúa và con người đă được khắc phục. Thiên Chúa đă chẳng những cúi xuống, như chúng ta đọc thấy trong các bài Thánh Vịnh; Ngài tực sự đă “hạ giáng”, Ngài đă vào đời, Ngài đă trở thành một người trong chúng ta, để kéo tất cả chúng ta lại với Ngài. Con trẻ ấy thật sự là Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vương quốc của Người thực sự vươn dài nở rộng đến tận cùng trái đất. Người thực sự thiết dựng các hải đảo an b́nh theo chiều rộng của Thánh Thể bao quát thế giới. Bất cử Thánh Thể được cử hành ở đâu th́ ở đấy xuất hiện một hải đảo của sự an b́nh, sự b́nh an của Thiên Chúa. Con trẻ này đă thắp sáng sự thiện hảo nơi con người và đă ban cho họ sức mạnh để thắng vượt tính chất chuyên chế bạo ngược của quyền hành mănh lực. Con trẻ này đang thiết lập vương quốc của Người nơi hết mọi thế hệ từ bên trong, từ cơi ḷng. Thế nhưng đồng thời vẫn c̣n nguyên “cây gậy của kẻ đàn áp Người”, cùng với những đôi giầy ống của thành phần háo chiến vẫn tiếp tục nện gót và “tấm áo vấy máu”. Bởi vậy, niềm vui chân thành được Thiên Chúa gần gũi là những ǵ thuộc về đêm nay. Chúng ta tri ân cảm tạ v́ Thiên Chúa đă phó ḿnh trong tay của chúng ta như là một em nhỏ, như thể van xin t́nh yêu của chúng ta, khi gieo an b́nh của Ngài vào cơi ḷng của chúng ta….

 

“Maria đă hạ sinh con trai đầu ḷng” (Lk 2:7). Nơi câu này, Thánh Luca thuật lại một cách hết sức minh tường một đại biến cố đă được các lời tiên tri của lịch sử dân Yến Duyên hướng về. Thánh Luca gọi con trẻ là “trưởng tử”. Theo ngôn từ được khai triển trong Thánh Kinh Cựu Ước th́ “trưởng tử” không có nghĩa là đứa con đầu tiên của một loạt con cái. Chữ “trưởng tử” là một tước iệu vinh dự, hoàn toàn không liên hệ ǵ tới thành phần anh chị em có sau đó hay chăng. Bởi thế mà, trong Sách Xuất Hành (4:22), Yến Duyên được Thiên Chúa gọi là “Người Con trưởng tử của Ta”, và lời này cho thấy việc Yến Duyên được tuyển chọn, phẩm vị đặc thù của họ, t́nh yêu đặc biệt của Thiên Chúa Cha. Giáo Hội sơ khai đă biết rằng nơi Chúa Giêsu lời này đă có được một chiều sâu mới, những lời hứa hẹn với Yến Duyên được gồm tóm nơi Người. Bởi vậy, Bức Thư gửi Do Thái gọi Chúa Giêsu là “trưởng tử”, hoàn toàn chỉ để ám chỉ rằng Người là Con được Thiên Chúa sai vào trần gian (cf 1:5-7) căn cứ vào những ǵ đă được lời tiên tri Cựu Uớc sửa soạn. Trưởng tử là người con đặc biệt thuộc về Thiên Chúa – và v́ thế trưởng tử ấy phải được đặc biệt trả về cho Thiên Chúa – như nơi nhiều tôn giáo – và trưởng tử này cần phải được chuộc lại bằng một hy sinh thay thế, như Thánh Luca thuật lại trong đoạn Dâng Chúa vào Đền Thờ. Trưởng tử đặc biệt thuộc về Thiên Chúa và nó thực sự được ấn định làm vật hy tế. Nơi hy tế trên Thập Giá của Chúa Giêsu, số phận hy tế này được nên trọn một cách đặc biệt. Nơi bản thân ḿnh, Người mang nhân tính đến trước nhan Thiên Chúa và kết hiệp con người với Thiên Chúa ở chỗ Thiên Chúa trở nên tất cả trong mọi sự. Thánh Phaolô đă nhấn mạnh và đào sâu ư niệm về Chúa Giêsu là trưởng tử  trong Thư gửi Calose và Thư gửi Epheso: Chúa Giêsu, như chúng ta đọc thấy trong hai bức thư này, là trưởng tử của mọi tạo vật – là nguyên mẫu đích thực của con người theo đó Thiên Chúa đă h́nh thành loài người tạo sinh. Con người có thể là h́nh ảnh của Thiên Chúa v́ Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người, là h́nh ảnh thực sự sủa Thiên Chúa và của con người. Hơn nữa, những bức thư này c̣n nói với chúng ta rằng Người là trưởng tử của kẻ chết. Bằng cuộc phục sinh, Người đă phá đổ bức tường chết chóc cho tất cả chúng ta. Người đă mở ra cho con người chiều kích của sự sống đời đời trong mối hiệp thông với Thiên Chúa. Sau hết, chúng ta được cho biết rằng Người là trưởng tử của một đàn em đông đúc. Phải, đúng thế, đến đây th́ Người thực sự là đầu của một loạt anh chị em: đầu tiên, tức là Đấng mở ra cho chúng ta khả thể giao tiếp với Thiên Chúa. Người tạo nên t́nh huynh đệ đích thực – không phải là thứ huynh đệ bị vẩn đuục bởi tội lỗi như trong trường hợp của Cain và Abel, hay của Romulus và Remus, nhưng là t́nh huynh đệ mới trong cùng một gia đ́nh của Thiên Chúa. Gia đ́nh mới này của Thiên Chúa bắt đầu vào lúc Mẹ Maria bọc người con đầu ḷng của ḿnh trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ….

 

Ở cuối bài Phúc Âm Giáng Sinh, chúng ta được cho biết rằng có đông đảo thiên thần trên trời chúc tụng Chúa mà rằng” Sáng danh Thiên Chúa trên trời, bằng an dưới thế cho người Chúa thương!” (Lk 2:14). Giáo Hội, trong Kinh Vinh Danh, đă biến bài ca chúc tụng này, một bài ca được thiên thần hát lên để đáp ứng biến cố của đêm thánh ấy, thành một bản thánh ca hân hoan trước vinh quang của Thiên Chúa – “chúng con cúc tụng Chúa v́ vinh quang Chúa”. Chúng con chúc tụng Chúa v́ vẻ đẹp, v́ sự cao cả, v́ sự thiện của Chúa, một sự thiện trở nên hữu h́nh cho chúng ta đêm nay. Sự xuất hiện của vẻ đẹp này, của mỹ miều ấy, làm cho chúng ta hạnh phúc mà không cần biết mục đích của nó. Vinh hiển của Thiên Chúa, nguồn mạch của tất cả mọi sự mỹ, khiến cho chúng ta bộc phát ra nỗi ngỡ ngàng và niềm hân hoan. Bất cứ ai thoáng thấy Thiên Chúa đều cảm nghiệm được niềm vui, và trong đêm nay, chúng ta thấy một điều ǵ đó từ ánh sáng của Ngài Thế nhưng, sứ điệp của các thiên thần trong đêm thánh này cũng nói với cả loài người nũa: “b́nh an dưới thế cho người Chúa thương”. Bản dịch Latinh về bài cả này của các thần trời chúng ta sử dụng trong phụng vụ, trích từ Thánh Giêrônimô, hơi khác một chút: “b́nh an dưới thế cho người thiện tâm”. Lời diễn ta “người thiện tâm” đă trở thành một phần quan trọng nơi ngữ vựng của Giáo Hội trong các thập niên gần đây. Thế nhưng, đâu là bản dịch đúng? Chúng ta cần phải  đọc cả hai bản dịch với nhau; chỉ có thế chúng ta mới thực sư hiểu được bài ca của các thần trời. Thật là một giải thích sai lầm khi chỉ nh́n thấy điều này hoàn toàn như tác động của Thiên Chúa, như thể Ngài đă không kêu gọi con người tỏ ra tự do yêu thương đáp ứng. Thế nhưng, cũng sai lầm như thế khi chấp nhận một thứ dẫn giải được luân lư hóa như thể con người nói được rằng có thể tự cứu được ḿnh bằng thiện chí của họ. Cả hai yếu tố thuộc về nhau: ân sủng và tự do, t́nh yêu mở lối của Thiên Chúa đối với chúng ta, mà nếu thiếu mất, chúng ta không thể nào kính mến Ngài, và đáp ứng những ǵ Ngài chờ đợi chúng ta, đáp ứng Ngài muốn quá rơ ràng nơi việc hạ sinh của Con Ngài. Cả hai quyện lấy nhau bất khả phân ly. Bởi vậy, phần này trong sứ điệp của các thần trời vừa là lời hứa hẹn đồng thời vừa là lời kêu gọi. Thiên Chúa đă ứng trước cho chúng ta tặng ân Con Ngài. Thiên Chúa tiếp tục ứng trước cho chúng ta bằng những cách thức không ngờ. Ngài không thôi t́m kiếm chúng ta, nâng chúng ta lên bao lâu chúng ta cần thiết. Ngài không bỏ rơi con chiên lạc trong hoang địa là nơi nó lạc đàn. Thiên Chúa không bị bối rối trước tội lỗi của chúng ta. Ngài cứ tiếp tục bắt đầu lại với chúng ta. Thế nhưng Ngài vẫn đợi chờ chúng ta liên kết với Ngài trong yêu thương. Ngài yêu thương chúng ta, nhờ đó cả chúng ta nữa trở nên thành phần yêu thương, để b́nh an được thể hiện trên trái đất này…..   

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh

(những chỗ được in đậm lên là do tự ư của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2010/documents/hf_ben-xvi_hom_20101224_christmas_en.html