THÔNG ĐIỆP SPE SALVI
của
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
gửi
Chư Vị Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ cùng Toàn Thể Tín
Hữu Giáo Dân
về
Niềm Hy Vọng Kitô Giáo
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/encyclicals/documents/hf_ben-xvi_enc_20071130_spe-salvi_en.html
(những chỗ được in đậm lên
là do tự ư của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính
yếu quan trọng)
“Những
Khung Cảnh” để học và thực hành hy vọng
I- Cầu
nguyện như là một học đường của niềm hy vọng
32-
Khung cản h thiết yếu đầu tiên để học hy vọng đó là cầu nguyện. Khi
không có ai lắng nghe tôi nữa th́ Thiên Chúa vẫn lắng nghe tôi. Khi
tôi không c̣n nói với bất cứ một ai hay không thể kêu gọi bất cứ
người nào, tôi vẫn có thể nói với Thiên Chúa. Khi không càn một
người nào giúp tôi giải quyết nhu cầu hay niềm mong đợi vượt khả
năng trần gian đối với niềm hy vọng th́ Ngài là Đấng có thể trợ giúp
tôi (25). Khi tôi ch́m ngập trong t́nh trạng hoàn toàn cô quạnh…;
nếu tôi biết cầu nguyện tôi sẽ không hoàn toàn lẻ loi. Cố Hồng Y
Nguyễn Văn Thuận, một tù nhân 13 năm, 9 năm sống trong nơi biệt giam,
đă để lại cho chúng ta một cuốn sách nhỏ quí giá: Những Lời Cầu
Nguyện của Niềm Hy Vọng. Trong 13 năm trong tù, ở một t́nh trạng
dường như hoàn toàn vô vọng, sự kiện mà ngài có thể nghe và nói cùng
Thiên Chúa đối với ngài đă trở thành một quyền lực hy vọng gia tăng,
một quyền lực giúp ngài, sau khi được thả ra, có thể trở thành một
chứng nhân của niềm hy vọng cho dân chúng khắp nơi trên thế giới –
niềm hy vọng cao cả không tàn phai ngay cả trong những đêm tăm tối
cô quạnh.
33-
Thánh Âu Quốc Tinh, trong bài giảng về Bức Thư Thứ Nhất của Thánh
Gioan, đă diễn tả một cách tuyệt vời mối liên hệ thân mật giữa
việc cầu nguyện và niềm hy vọng. Con người được dựng nên cho sự cao
cả - cho chính Thiên Chúa; họ được dựng nên để được tràn đầy Thiên
Chúa. Thế nhưng trái tim của họ lại quá nhỏ bé cho sự cao cả họ được
dựng nên để chiếm đạt. Nó cần phải được nở rộng. “Bằng việc tŕ hoăn
(tặng ân của ḿnh), Thiên Chúa làm cho ước muốn của chúng ta nên
mănh liệt; nhờ ước muốn Ngài nới rộng linh hồn của chúng ta và bằng
việc nới rộng nó, Ngài gia tăng khả năng của nó (cho việc lănh nhận
Ngài)”. Thánh Âu Quốc Tinh đă đề cập tới Thánh Phaolô, vị nói về bản
thân ḿnh như vươn tới những ǵ sẽ tới (x Phil 3:13). Đoạn ngài sử
dụng một h́nh ảnh rất đẹp để diễn tả tiến tŕnh nới rộng và sửa soạn
cho cơi ḷng của con người ấy. “Chẳng hạn Thiên Chúa muốn làm cho
anh chị em đầy những mật ong (một biểu hiệu cho sự dịu dàng và ḷng
thiện hảo của Thiên Chúa); nhưng anh chị em lại đầy những dấm chua
th́ anh chị em đựng mật ong ở chỗ nào chứ?” B́nh đựng này, tức là
cơi ḷng của anh chị em, trước hết cần phải được mở rộng và sau đó
được nên sạch, khỏi thứ dấm chua cùng với mùi vị của nó. Điều này
đ̣i phải vất vả và đớn đau, thế nhưng chỉ nhờ có thế chúng ta mới
trở nên xứng hợp với những ǵ chúng ta được dựng nên để chiếm đạt
(26). Cho dù Thánh Âu Quốc Tinh trực tiếp nói đến khả năng của chúng
ta đối với Thiên Chúa thôi, vấn đề vẫn hiển nhiên là nhờ nỗ lực này
mà chúng ta được thoát khỏi dấm chua cùng với vị dấm, chúng ta chẳng
những được trở nên tự do cho Thiên Chúa mà chúng ta c̣n hướng cả về
người khác nữa. Chỉ khi nào trở thành con cái của Thiên Chúa cúng
ta mới có thể ở với Vị Cha chung của chúng ta. Cầu nguyện không phải
là việc bước ra ngoài lịch sử và thu ḿnh vào một xó hạnh phúc riêng
tư nào. Nếu chúng ta cầu nguyện một cách thích hợp th́ chúng ta trải
qua một tiến tŕnh của việc thanh tẩy nội tâm hướng chúng ta về
Thiên Chúa và nhờ đó về anh chị em đồng loại của chúng ta nữa. Trong
nguyện cầu chúng ta cần phải biết những ǵ chúng ta thực sự có thể
xin với Thiên Chúa – những ǵ xứng đáng với Thiên Chúa. Chúng ta cần
phải biết rằng chúng ta không thể nào cầu nguyện phạm đến người khác.
Chúng ta cần phải biết rằng chúng ta không thể xin cho được những
điều nông cạn và dễ chịu cúng ta ước muốn vào lúc này – một thứ hy
vọng hao gầy lệch lạc đẩy chúng ta xa khỏi Thiên Chúa. Chúng ta cần
phải thanh tẩy những ước muốn của chúng ta và các niềm hy vọng của
chúng ta. Chúng ta cần phải giải thoát chúng ta khỏi những thứ giả
dối do chính chúng ta tự lừa đảo ḿnh. Thiên Chúa thấy rơ chúng và
khi chúng tar a trước nhan Chúa cả chúng ta nữa cũng buộc phải nh́n
nhận chúng. Thánh Vịnh gia nguyện cầu rằng “thế nhưng ai có thể nhận
ra được các lỗi lầm của ḿnh đây? Xin hăy làm cho con thấy rơ những
lỗi lầm thầm kín” (19:12 [18:13]). Việc tôi không nh́n nhận lỗi lầm
của ḿnh, cái ảo tưởng về t́nh trạng vô tội của tôi, không biện minh
cho tôi và không cứu được tôi, v́ tôi là kẻ đáng khiển trách về t́nh
trạng tê liệt lương tâm của tôi và về việc bất lực không thể nhận
thấy sự dữ như thế nào trong tôi. Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, có
lẽ tôi cần phải t́m kiếm nương thân nơi những thứ gian dối ấy, v́
không ai có thể tha thứ cho tôi; không ai là qui chuẩn đích thực cả.
Tuy nhiên, việc tôi gặp gỡ Thiên Chúa làm bừng tỉnh lương tâm của
tôi ở chỗ nó không c̣n nhắm đến việc tự bào chữa biện ḿnh nữa, và
nó cũng không c̣n là một phản ảnh thuần túy về tôi và về thành phần
đương thời đang ảnh hưởng đến tư tưởng ư nghĩ của tôi, nhưng nó trở
thành một khả năng lắng nghe chính Sự Thiện.
34. Để phát triển khả năng thanh tẩy này cho việc cầu nguyện,
một đàng cần phải có một cái ǵ đó rất riêng tư, một cuộc gặp gỡ
giữa bản thân sâu xa của tôi với Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa hằng sống.
Đàng khác, cần phải được liên lỉ hướng dẫn và soi dẫn bởi các kinh
nguyện cao cả của Giáo Hội cũng như của các vị thánh, bởi kinh phụng
vụ, những kinh nguyện Chúa luôn dạy chúng ta làm sao để cầu nguyện
một cách xứng hợp. Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, trong cuốn sách về
linh thao của ḿnh, đă nói với chúng ta rằng trong đời sống của ngài,
có những giai đoạn dài ngài không thể cầu nguyện và ngài cứ theo các
bản kinh nguyện của Giáo Hội như Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng và các
kinh phụng vụ (27). Việc cầu nguyện bao giờ cũng cần phải bao gồm
việc ḥa trộn kinh nguyện chung và riêng này. Đó là cách thức chúng
ta có thể nói với Thiên Chúa và cách Thiên Chúa nói với chúng ta.
Nhờ đó chúng ta trải qua những thứ thanh tẩy để chúng ta trở nên cởi
mở với Thiên Chúa và chúng ta trở thành các thừa tác viên của niềm
hy vọng cho người khác. Niềm hy vọng theo cảm quan Kitô giáo bao giờ
cũng là niềm hy vọng cho cả kẻ khác nữa. Nó là một niềm hy vọng chủ
động, niềm hy vọng chúng ta cố gắng để ngăn cản những ǵ tiến đến
“cùng đích sai lạc”. Niềm hy vọng chủ động này c̣n có nghĩa là chúng
ta giữ cho thế giới hướng về Thiên Chúa. Chỉ có thế nó mới tiếp tục
là một niềm hy vọng thực sự của nhân loại.