(Hai
đoạn đầu ĐTC ngỏ lời chào các vị thẩm quyền về dân sự và tôn giáo; đoạn
áp cuối với riêng linh mục và đoạn cuối kết thúc)
Nhiều
người
hành tŕnh
đă
lên bờ
ở
nơi
đây
trong gịng lịch
sử
của
anh chị
em. Sự
phong phú và tính chất
đa
dạng
của
nền
văn
hóa Malta là một
dấu
hiệu
cho thấy
nhân dân của
anh chị
em
đă
gắt
hái
được
nhiều
lợi
ích từ
việc
trao
đổi
giũa
các tặng
ân và ḷng hiếu
khách với
thành phần
viếng
thăm
hải
hồ.
Và nó là một
dấu
hiệu
anh chị
em biết
phải
làm sao
để
nhận
thức
được
để
rút ra những
ǵ là tốt
đẹp
nhất
từ
những
ǵ họ
cống
hiến.
Tôi tha
thiết
xin anh chị
em hăy tiếp
tục
làm như
thế.
Không phải
hết
mọi
sự
được
thế
giới
ngày nay
đề
ra
đều
đáng
nhân dân Malta chấp
nhận.
Nhiều
tiếng
nói cố
gắng
thuyết
phục
chúng ta loại
trừ
niềm
tin tưởng
của
chúng ta vào Thiên Chúa cũng
như
vào Giáo Hội
của
Ngài, và chọn
lấy
cho ḿnh các thứ
giá trị
và niềm
tin
để
theo
đó
mà sống.
Chúng nói với
chúng ta rằng
chúng ta không cần
đến
Thiên Chúa hay Giáo Hội.
Nếu
chúng ta bị
cám dỗ
tin vào những
tiếng
nói này th́ chúng ta cần
phải
nhớ
lại
biến
cố
trong Phúc Âm của
ngày hôm nay, khi các môn
đệ,
tất
ccả
họ
đều
là những
tay
đánh
cá chuyên nghiệp,
đă
thâu
đêm
vất
vả
những
chẳng
bắt
được
con cá nào. Thế
rồi,
khi Chúa Giêsu hiện
ra trên bờ
hồ,
Người
hướng
dẫn
các vị
thực
hiện
một
mẻ
cá lớn
đến
độ
họ
vất
vả
lắm
mới
kéo
được
vào bờ.
Tự
ḿnh, nỗ
lực
của
các vị
chẳng
đi
đến
đâu;
khi Chúa Giêsu
đứng
bên họ
th́ họ
đă
đánh
được
một
mẻ
đầy
ắp
cá. Anh chị
em thân mến,
nếu
chúng ta
đặt
niềm
tin tưởng
của
chúng ta vào Chúa và tuân theo các giáo huấn
của
Người,
bao giờ
chúng ta cũng
gắt
hái
được
những
thành quả
lớn
lao.
Bài
đọc
thứ
nhất
của
chúng ta trong Thánh Lễ
hôm nay tôi biết
rằng
anh chị
em thích nghe,
đó
là tŕnh thuật
về
vụ
đắm
tầu
của
Thánh Phaolô
ở
vịnh
Malta, và việc
ngài
được
dân cúng của
các hải
đảo
này ân cần
tiếp
đón.
Hăy lưu
ư là nhóm phục
vụ
con tầu,
để
có thể
sống
c̣n,
đă
bắt
buộc
phải
quẳng
xuống
biển
hàng hóa, dụng
cụ
của
con tầu,
thậm
chí cả
lúa thóc là những
ǵ nuôi dưỡng
họ.
Thánh Phaolô
đă
tha thiết
xin họ
hhăy
đặt
niềm
tin tưởng
của
họ
vào một
ḿnh Thiên Chúa, trong khi con tầu
nhấp
nhô nghiêng ngă trên sóng nước.
Cả
chúng ta nữa
cũng
cần
phải
đặt
niềm
tin tưởng
của
chúng ta vào duy một
ḿnh Thiên Chúa. Hiện
đang
có khuynh hướng
nghĩ
rằng
kỹ
thuật
tân tiến
ngày nay có thể
đáp
ứng
tất
cả
mọi
nhu cầu
của
chúng ta và cứu
chúng ta khỏi
tất
cả
mọi
chết
chóc và hiểm
nguy
đang
vây bọc
cúng ta. Thế
nhưng,
không phải
là thế.
Hết
mọi
giây phút trong cuộc
đời
của
chúng ta, chúng ta
đều
hoàn toàn lệ
thuộc
vào Thiên Chúa, là
Đấng
trong Ngài chúng ta sống
động
và hiện
hữu.
Chỉ
một
ḿnh Ngài mới
có thể
bảo
vệ
chúng ta khỏi
bị
hại,
chỉ
có ḿnh Ngài mớio
có thể
hướng
dẫn
chúng ta vượt
qua băo tố
cuộc
đời,
chỉ
có ḿnh Ngài mới
có thể
mang chúng ta về
tới
bến
b́nh an, như
Ngài
đă
làm cho Thánh Phaolô và
đồng
bạn
của
vị
thánh nàyđang
lênh
đênh
trôi dạt
ngài khơi
của
vịnh
Malta. Họ
đă
làm theo lời
kêu xin của
Thánh Phaolô nhờ
đó
“tất
cả
họ
đă
an toàn thoát vào
đất
liền”
(Acts 27:44).
Hơn
bất
cứ
một
thứ
hàng hóa nào chúng ta có thể
mang theo với
chúng ta – liên quan tới
những
thành
đạt
của
chúng ta, những
sở
hữu
của
chúng ta, kỹ
thuật
của
chúng ta – th́ mối
liên hệ
của
chúng ta với
Chúa là những
ǵ cống
hiến
cho chúng ta cái then chốt
cho niềm
hạnh
phúc của
chúng ta cũng
như
cho tầm
vóc viên trọn
của
chúng ta. Và Người
đă
kêu gọi
chúng ta sống
mối
liên hệ
yêu thương.
Hăy lưu
ư tới
câu hỏi
Người
đặt
ra 3 lần
với
Thánh Phêrô
ở
bờ
hồ
này: “Simon, con của
Gioan, con có yêu mến
Thày hay chăng?”
Căn
cứ
vào
đáp
ứng
mạnh
mẽ
của
Thánh Phêrô, Chúa Giêsu
ủy
thác cho thánh nhân một
sứ
vụ
– sứ
vụ
chăm
nuôi
đàn
chiên của
Người.
Ở
đây
chúng ta thấy
được
nền
tảng
của
tất
cả
mọi
thừa
tác mục
vụ
trong Giáo Hội.
Chính t́nh yêu của
chúng ta
đối
với
Chúa là những
ǵ cần
phải
trở
thành hồn
sống
cho hết
mọi
chiều
kích của
việc
chúng ta rao truyền
và giảng
dạy,
của
việc
chúng ta cử
hành các phép bí tích, và của
việc
chúng ta chăm
sóc cho dân Chúa. Chính t́nh yêu của
chúng ta
đối
với
Chúa là những
ǵ tác
động
chúng ta yêu thương
những
ai
được
Người
thương
yêu, và hân hoan chấp
nhận
sứ
vụ
truyền
đạt
t́nh yêu của
Người
cho những
ai chúng ta phục
vụ.
Trong cuộc
Khổ
Nạn
của
Chúa, Thánh Phêrô
đă
chối
Chúa ba lần.
Giờ
đây,
sau Phục
Sinh, Chúa Giêsu kêu gọi
ngài ba lần
thề
hứa
mến
yêu Người,
nhờ
đó
chữa
lành ngài và thứ
tha cho ngài,
đồng
thời
ủy
thác cho ngài sứ
vụ
của
Người.
Mẻ
cá lạ
đă
là những
ǵ
đề
cao việc
các tông
đồ
lệ
thuộc
vào Thiên Chúa
để
có thể
thành công nơi
các dự
án trần
thế
của
các vị.
Cuộc
đối
thoại
giữa
Thánh Phêrô và Chúa Giêsu nhấn
mạnh
tới
nhu cầu
cần
tới
ḷng thương
xót Chúa
để
chữa
lành các thương
tích thiêng liêng của
các vị,
những
thương
tích tội
lỗi.
Trong hết
mọi
lănh vực
của
đời
sống
chúng ta, chúng ta
đều
cần
đến
ân sủng
của
Thiên Chúa. Với
Người,
chúng ta có thể
làm
được
tất
cả
mọi
sự:
không có Người
chúng ta chẳng
làm ǵ
được
hết.
Theo
Phúc Âm Thánh Marcô, chúng ta biết
những
dấu
hiệu
đi
kèm theo với
những
ai tin tưởng
vào Chúa Giêsu: họ
sẽ
bắt
rắn
trong tay một
cách vô hại,
họ
sẽ
đặt
tay trên bệnh
nhân và bệnh
nhân
được
lành mạnh
(cf. 16:18). Những
dấu
hiệu
này
được
cha ông của
anh chị
em tận
mắt
chứng
kiến
thấy
khi Thánh Phaolô
ở
giữa
họ.
Một
con rắn
cuốn
vào tay của
ngài, nhưng
ngài chỉ
vẩy
tay tung nó vào lửa
mà chẳng
bị
hại
ǵ cả.
Ngài
đă
được
đưa
đến
thăm
thân phụ
của
Publius, vị
thủ
lănh của
hải
đảo
này, và sau khi cầu
nguyện
cùng
đặt
tay lên ông, Thánh Phaolô
đă
chữa
ông khỏi
cơn
sốt.
Trong tất
cả
các tặng
ân
được
mang tới
cho bến
bờ
này dọc
suốt
gịng lịch
sử
của
nhân dân anh chị
em, th́ tặng
ân
được
Thánh Phaolô mang tới
là những
ǵ cao cả
nhất,
và anh chị
em có công rất
nhiều
trong việc
đón
nhận
ngay lấy
tặng
ân
ấy
và trân quí tặng
ân
ấy.
Hăy bảo
tŕ
đức
tin và các thứ
giá trị
được
tổ
phụ
của
anh chị
em là Tông
Đồ
Phaolô truyền
đạt
cho anh chị
em. Hăy tiếp
tục
thám sát tính chất
phong phú và sâu xa nơi
tặng
ân
được
Thánh Phaolô cống
hiến
cho anh chị
em và chắc
chắn
truyền
đạt
nó chẳng
những
cho con cái của
anh chị
em mà c̣n cho tất
cả
những
ai anh chị
em gặp
gỡ
hôm nay
đây.
Không người
du khách nào
đến
Malta lại
không cảm
thấy
xúc
động
trước
ḷng sùng mộ
đạo
của
nhân dân anh chị
em,
đức
tin sống
động
được
tỏ
ra nơi
các cuộc
cử
hành lễ
của
anh chị
em, vẻ
đẹp
của
các nhà thờ
và
đền
thờ
của
anh chị
em. Thế
nhưng
tặng
ân
ấy
cần
phải
được
chia sẻ
với
người
khác, nó cần
phải
được
nói lên. Như
Moisen
đă
dạy
dân Do Thái những
lời
của
Chúa “sẽ
ở
trên trái tim của
các người
và các người
cần
phải
chuyên cần
dạy
những
lời
ấy
cho con cái của
các người,
và phải
nói với
chúng khi các người
ngồi
trong nhà, và khi các người
đi
ngoài
đường,
khi các người
nằm
xuống
hay lúc các người
chỗi
dậy”
(Deut 6:6-7).
Điều
này
đă
được
hiểu
rất
rơ bởi
Vị
Thánh
đầu
tiên của
Malta là Dun Gorg Preca. Hoạt
động
hăng
say dạy
giáo lư của
ngài, khi tác
động
cả
trẻ
lẫn
già yêu chuộng
giáo huấn
Kitô giáo và sâu xa tôn sùng Lời
Nhập
Thể
của
Thiên Chúa, trở
thành một
mẫu
gương
tôi xin anh chị
em hăy bảo
tồn.
Hăy nhớ
rằng
việc
ttrao
đổi
những
sản
vật
giữa
những
hải
đảo
này với
thế
giới
bên ngoài là một
tiến
tŕnh hai chiều.
Những
ǵ anh chị
em lănh nhận,
hăy cẩn
thận
thẩm
định
chúng, và những
ǵ cao quí của
anh chị
em, anh chị
em cần
phải
chia sẻ
cho người
khác.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán
toàn cầu của Ṭa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2010/documents/hf_ben-xvi_hom_20100418_floriana_en.html