|
|

Đức
Giáo Hoàng Biển
Đức
XVI – Huấn
Từ
cho Tuần
Lễ
Cầu
Cho Hiệp
Nhất
Kitô Giáo 18-25/1/2010 về
Chủ
Đề:
“Các Con là nhân chứng
về
những
điều
ấy”
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đang ở vào giữa Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô
Giáo, một sáng kiến đại kết, từng là những gì đang diễn tiến cho
tới nay đã hơn một thế kỷ, và là những gì hằng năm thu hút chú ý về
một đề tài, đó là đề tài về mối hiệp nhất hữu hình giữa thành phần
Kitô hữu, một mối hiệp nhất kêu gọi lương tâm và phấn khích việc
quyết tâm đối với tất cả những ai tin vào Chúa Kitô. Và sáng kiến
này làm như thế trước hết bằng lời mời gọi nguyện cầu, theo gương
của chính Chúa Giêsu, Đấng cầu cùng Cha cho các môn dệ của Người:
“Xin cho họ tất cả được hiệp nhất nên một… để nhờ đó thế gian tin”
(Jn 17:21).
Tiếng gọi liên lỉ cầu nguyện này cho mối hiệp thông trọn vẹn giữa
thành phần môn đệ của Chúa bày tỏ chiều hướng chân thực nhất và sâu
xa nhất của tất cả việc tìm cầu đại kết, vì mối hiệp nhất, trước tất
cả mọi sự, là tặng ân của Thiên Chúa. Thật vậy, Công Đồng Chung
Vaticanô II đã khẳng định: “Quyền lực và các khả năng của con người
không thể nào chiếm được mục tiêu thành hảo này – việc hòa giải của
tất cả mọi Kitô hữu trong mối hiệp nhất của một Giáo Hội duy nhất
của Chúa Kitô”
(Unitatis Redintegratio, 24). Bởi thế, cái cần thiết ngoài nỗ lực
của chúng ta trong việc thực thi các mối liên hệ huynh đệ và cổ võ
việc đối thoại để làm sáng tỏ và giải quyết những khác biệt gây phân
ly các Giáo Hội và các cộng đồng giáo hội, đó là việc tin tưởng và
hợp nhau kêu cầu cùng Chúa.
Đề tài của năm nay được lấy từ Phúc Âm Thánh Luca, từ những lời nói
cuối cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ của Người: “Các con là
chứng nhân về những điều ấy” (24:48). Dự thảo về đề tài này là những
gì được yêu cầu bởi Hội Đồng Giáo Hoàng về Việc Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô
Giáo, hợp với Ủy Ban Đức Tin và Cấp Trật của Hội Đồng Chư Giáo Hội
Thế Giới, từ một nhóm đại kết ở Tô Cách Lan. Một thế kỷ trước đây,
Hội Nghị Sứ Vụ Thế Giới về mối quan tâm đến những vấn đề liên quan
tới thế giới ngoài Kitô giáo đã diễn ra thực sự ở Edinburgh, Tô Cách
Lan, vào thời đoạn 13-24/6/1910.
Trong số những vấn đề được bàn luận vào lúc bấy giờ đó là vấn đề về
tình trạng khó khăn khách quan của các Kitô hữu chia rẽ trong nội bộ
khi loan truyền phúc âm một cách uy tín cho thế giới ngoài Kitô
giáo. Nếu Kitô hữu cho thấy mình không đoàn kết, hơn thế nữa, thường
còn chống đối nhau, sẽ làm thế nào loan truyền Chúa Kitô như Đấng
Cứu Thế duy nhất và là bình an của chúng ta như những gì khả tín cho
một thế giới chưa biết Chúa Kitô hay cho một thế giới đã tách lìa
khỏi Người, hoặc cho một thế giới tỏ ra dửng dưng đối với Phúc Âm
chứ?
Mối liên hệ giữa hiệp nhất và sứ vụ từ lúc ấy đã là một chiều kích
thiết yếu của tất cả nỗ lực đại kết và là khởi điểm của nó. Và chính
vì đóng góp đặc biệt ấy mà Hội Nghị Edinburgh vẫn còn là một trong
những điểm mạnh của phong trào đại kết tân thời. Trong Công Đồng
Chung Vaticanô II, Giáo Hội Công Giáo đã tiếp tục và mạnh mẽ tái
khẳng định quan điểm này, xác nhận rằng tình trạng chia rẽ giữa
thành phần môn đệ của Chúa Giêsu là những gì “công khai phản lại ý
muốn của Chúa Kitô, làm gương mù cho thế giới, và tác hại tới nguyên
do thánh hảo của việc rao giảng Phúc Âm cho tất cả mọi tạo vật”
(Unitatis Redintegratio, 1).
Trong bối cảnh thần học và tu đức này mà đề tài ấy đã được đề ra cho
tuần lễ đây để suy niệm và nguyện cầu, đó là đề tài về nhu cầu của
một chứng từ chung cho Chúa Kitô. Câu văn ngắn ngủi được đề ra làm
đề tài “các con là những chứng nhân về những điều ấy” cần phải được
đọc trong bố cục của toàn đoạn 24 theo Phúc Âm Thánh Luca.
Chúng ta hãy vắn tắt ôn lại nội dung của đoạn này. Trước hết là việc
các phụ nữ đến thăm mộ, thấy đưoơc những dấu hiệu phục sinh của Chúa
Giêsu và loan báo những gì họ đã thấy cho các vị tông đồ cũng như
cho các môn đệ khác (câu 8); sau đó chính Đấng Phục Sinh đã hiện ra
đồng hành với các môn đệ đi về làng Emmaus, Người hiện ra với tông
đồ Simon Phêrô, và sau đó với “Mười Một Vị cùng những ai ở với các
vị” (câu 23). Người đã mở trí cho họ hiểu lời Thánh Kinh về cái chết
cứu chuộc của Người và về việc phục sinh của Người, khẳng định rằng
“việc ăn năn thống hối cho được thứ tha tội lỗi sẽ được rao giảng
cho tất cả mọi quốc gia nhân danh Người” (câu 47). Cùng các môn đệ
“qui tụ” lại với nhau và là thành phần chứng nhân cho sứ vụ của
mình, Đấng Phục Sinh đã hứa ban tặng ân Thánh Linh (cf. câu 49), nhờ
đó, cùng nhau họ sẽ làm chứng cho Người trước mọi dân tộc. Theo lệnh
truyền này – “về những điều ấy” các con làm chứng nhân (cf. Lk
24:48) là đề tài cho Tuần Lễ cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo này - có
hai vấn đề được đặt ra cho chúng ta: Thứ nhất: “những điều ấy” là
gì? Thứ hai: làm sao chúng ta có thể làm chứng cho “những điều ấy”?
Nếu chúng ta nhìn vào bối cảnh của đoạn này thì “những điều ấy”
trước hết nghĩa là thập giá và phục sinh: các môn đệ đã thấy thập
giá của Chúa, họ đã thấy Đấng Phục Sinh và vì thế bắt đầu hiểu được
tất cả Thánh Kinh là những gì nói về mầu nhiệm khổ nạn và tặng ân
phục sinh. “Những điều ấy”, bởi thế, là mầu nhiệm của Chúa Kitô, của
Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết cho chúng ta và đã phục sinh,
đang sống muôn đời và vì thế là bảo đảm cho sự sống đời đời của
chúng ta.
Tuy nhiên, nhờ nhận biết Chúa Kitô – đây là điểm thiết yếu – chúng
ta biết được dung nhan của Thiên Chúa. Trong tất cả mọi thời đại,
con người đã nhận thấy được sự hiện diện của Thiên Chúa, một Thiên
Chúa duy nhất, thế nhưng Ngài lại cách xa và không tỏ mình ra. Vị
Thiên Chúa này tỏ mình ra nơi Chúa Kitô; vị Thiên Chúa xa cách này
trở nên gần gũi. Bởi thế, “những điều ấy” trước hết, qua mầu nhiệm
của Chúa Kitô, đó là Thiên Chúa đã trở thành gần gũi với chúng ta.
Điều này bao hàm một chiều kích khác, đó là Chúa Kitô không bao giờ
cô độc một mình; Người đã đến giữa chúng ta, đã chết lẻ loi nhưng đã
phục sinh để thu hút hết mọi người đến cùng Người. Như Thánh Kinh
nói, Chúa Kitô đã tạo nên một thân thể cho mình, qui tụ tất cả nhân
loại vào thực tại sự sống bất tử của Người. Nhờ đó, nơi Chúa Kitô,
Đấng qui tụ nhân loại, chúng ta biết tương lai của nhân loại đó là
sự sống đời đời. Thế nên, tất cả điều này cuối cùng là những gì rất
giản dị, ở chỗ, chúng ta biết Thiên Chúa nhờ nhận biết Chúa Kitô,
nhận biết thân mình của Người, mầu nhiệm của Giáo Hội và lời hứa sự
sống đời đời.
(tiếp)
Giờ đây chúng ta tiến tới vấn đề thứ hai, đó là làm sao chúng ta trở
nên chứng nhân “cho những điều ấy”? Chúng ta có thể là chứng nhân
chỉ nhờ nhận biết Chúa Kitô, và biết Chúa Kitô cũng nhận biết Thiên
Chúa. Thế nhưng, để biết Chúa Kitô chắc chắn bao hàm một chiều kích
về tri thức: Nó là một tiến trình hiện hữu, nó là một tiến trình của
việc cởi mở “cái tôi” của mình, của việc tôi được biến đổi nhờ sự
hiện diện và sức mạnh của Chúa Kitô, như thế nó cũng là một tiến
trình hướng về tất cả những người khác, thành phần phải là thân mình
của Chúa Kitô. Như thế, rõ ràng là việc nhận biết Chúa Kitô, như là
một tiến trình về tri thức nhưng trước hết là một tiến trình về hiện
hữu, là một tiến trình làm cho chúng ta trở thành những nhân chứng.
Nói cách khác, chúng ta có thể là thành phần chứng nhân chỉ khi nào
chúng ta trực tiếp biết Chúa Kitô, chứ không chỉ qua người khác – từ
cuộc sống của mình, từ việc riêng tư gặp gỡ Chúa Kitô. Gặp được
Người thực sự trong đời sống đức tin của chúng ta, chúng ta mới trở
thành những chứng nhân và mới có thể góp phần vào việc làm mới mẻ
thế giới, vào sự sống đời đời.
Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo cùng cống hiến cho chúng ta một
chỉ hiệu về nội dung của “những điều ấy”. Giáo Hội đã thu góp và tóm
lại những gì là thiết yếu nơi những gì Chúa đã ban cho chúng ta nơi
Mạc Khải, nơi “kinh Tin Kính Niceno-Constantinoplitan”, một kinh tin
kính có được thẩm quyền lớn lao từ sự kiện là nó xuất phát từ hai
Công Đồng Chung tiên khởi (năm 325 và 381)” (CCC, khoản 195). Sách
Giáo Lý nói rõ ràng là Biểu Hiệu Đức Tin này “vẫn là những gì chung
cho tất cả mọi Giáo Hội lơn ở cả Đông lẫn Tây cho ngày nay” (ibid).
Bởi vậy, nơi Biểu Hiệu Đức Tin này thấy được những sự thật về đức
tin mà các Kitô hữu có thể cùng nhau tuyên xưng và làm chứng, nhờ đó
thế giới sẽ tin tưởng, bày tỏ theo ước muốn và quyết tâm thắng vượt
những khác biệt hiện hữu, ý muốn tiến bước tới mối hiệp thông hoàn
toàn, mối hiệp nhất của Thân Mình Chúa Kitô.
Việc cử hành Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo dẫn chúng ta
đến chỗ quan tâm tới những khía cạnh quan trọng khác của vấn đề đại
kết – trước hết là việc tiến bộ lớn lao đã đạt được nơi các mối liên
hệ giữa các Giáo Hội và các cộng đồng giáo hội sau Hội Nghị
Edinburgh một thế kỷ trước đây. Phong trào đại kết tân tiến đã phát
triển rất đáng kể đến nỗi, qua thế kỷ vừa rồi, nó đã trở thành một
yếu tố quan trọng trong đời sống của Giáo Hội, khi gợi lại vấn đề về
hiệp nhất giữa tất cả mọi Kitô hữu và cũng hỗ trợ cho việc phát
triển mối hiệp thông giữa họ. Đây không phải chỉ là những gì thuận
lợi cho những liên hệ về tình huynh đệ giữa các Giáo Hội và các cộng
đồng giáo hội để đáp ứng giới răn yêu thương, mà còn kích thích việc
nghiên cứu về thần học nữa. Ngoài ra, nó bao gồm đời sống cụ thể của
các Giáo Hội cũng như của các cộng đồng giáo hội với những đề tài
liên quan tới việc chăm sóc mục vụ và đời sống bí tích,c như chẳng
hạn việc nhìn nhận hỗ tương bí tích Rửa Tội, những vấn đề liên quan
tới việc hôn nhân hỗn hợp, những trường hợp từng phần về comunicatio
in sacri trong những tình trạng được đặc biệt ấn định rõ ràng. Theo
sau tinh thần đại kết này, những giao tiếp đã được lan tới cả những
phong trào Pentecostal, evangelical và charismatic, để hiểu biết
nhau hơn, mặc dù những vấn đề trầm trọng vẫn không thiếu nơi lãnh
vực của các phong trào này.
Từ Công Đồng Chung Vaticanô II và sau đó, Giáo Hội Công Giáo đã tiến
vào những mối liên hệ huynh đệ với tất cả mọi Giáo Hội Đông phương
và các cộng đồng giáo hội Tây phương, đặc biệt là tổ chức với đa số
họ, những cuộc đối thoại song phương, những cuộc đối thoại đã dẫn
tới chỗ tìm kiếm những tụ điểm và thậm chí việc đồng thuận về một số
điểm, nhờ đó kiên vững những mối giây hiệp thông.
Trong năm vừa chấm dứt đây, những cuộc đối thoại này đã đạt được
những bước tích cực. Với các Giáo Hội Chính Thống, Ủy Ban Quốc Tế
Hỗn Hợp về Việc Đối Thoại Thần Học đã được bắt đầu, ở Khóa Họp
thương Niên lần 11 ở Paphos (Cyprus) vào Tháng 10/2009, học hỏi về
một đề tài quan trọng trong việc đối thoại giữa người Công Giáo và
Chính Thống Giáo, đó là vai trò của vị Giám Mục Rôma trong mối hiệp
thông của Giáo Hội trong thiên kỷ thứ nhất, tức là vào thời điểm
trong đó Kitô hữu Đông Tây còn sống trong mối hiệp thông trọn vẹn.
Việc nghiên cứu này sẽ được nới rộng sau đó tới thiên kỷ thứ hai.
Tôi đã xin người Công giáo nhiều lần cầu nguyện cho cuộc đối thoạic
tế nhị và thiết yếu này đối với toàn thể phong trào đại kết. Cũng
với các Giáo Hội Chính Thống Cổ Đông phương (Coptic, Ethiopian,
Syrian, Armenian), Ủy Ban Hỗn Hợp tương tự đã gặp nhau từ ngày 26
đến 30 tháng Giêng năm ngoái. Những khởi động quan trọng này chứng
thực vào lúc này đây là đang có một cuộc đối thoại sâu xa phong phú
niềm hy vọng với tất cả mọi Giáo Hội Đông phương chưa hoàn toàn hiệp
thông với Rôma, theo tính chất chuyên biệt của họ.
Trong năm qua, với các cộng đồng giáo hội Tây phương, những thành
quả đã đạt được ở những cuộc đối thoại khác nhau trên 40 năm qua,
phản ảnh đặc biệt về những cuộc đối thoại với Cộng Đồng Hiệp Thônmg
Anh Giáo, với Liên Hiệp Lutherô Thế Giới, với Liên Minh Thế Giới Chư
Giáo Hội Cải Cách và với Hội Đồng Thế Giới Methodist. Về vấn đề này,
Hội Đồng Tòa Thánh về Việc Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo đã thực hiện
một cuộc nghiên cứu để thấy được những tụ điểm đã đạt tới trong các
cuộc đối thoại song phương thích ứng, và đồng thời cũng để vạch ra
những vấn đề còn tồn đọng là những gì cần phải bắt đầu bằng một giai
đoạn gặp gỡ mới.
Trong số các biến cố gần đây, tôi muốn đề cập tới việc tưởng niệm 10
năm Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa, được tín hữu Công
giáo và Lutherô cùng nhau mừng vào ngày 31/10/2009; để kích thích
việc tiếp tục đối thoại, cũng như cuộc viếng thăm Rôma của Đức Tổng
Giám Mục Canterbury là Tiến Sĩ Rowan Williams, vị cũng đã tổ chức
các cuộc đàm thoại về tình hình đặc biệt Cộng Đồng Hiệp Thông Anh
Giáo đang trải qua. Việc dấn thân chung để tiếp tục các mối liên hệ
và đối thoại là một dấu hiệu tích cực, cho thấy niềm tha thiết biết
bao đối với mối hiệp nhất, bất chấp tất cả mọi vấn đề chống lại nó.
Thế nên chúng ta thấy rằng có một chiều kích về trách nhiệm của
chúng ta trong việc làm hết sức có thể để thực sự đạt tới mối hiệp
nhất, thế nhưng cũng có một chiều kích khác, đó là chiều kích của
tác động thần linh, vì chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể ban sự
hiệp nhất cho Giáo Hội. Một mối hiệp nhất “tự tạo” là những gì nhân
bản, thế nhưng chúng ta muốn Giáo Hội của Chúa, một Giáo Hội được
tạo nên bởi Chúa là Đấng – khi nào Ngài muốn và khi nào chúng ta sẵn
sàng – sẽ tạo nên sự hiệp nhất.
Chúng ta cũng cần phải nhớ rằng tiến bộ thực sự được đạt tới nơi
việc hợp tác và tình huynh đệ trong tất cả những năm tháng này, và
trong 50 năm qua. Đồng thời chúng ta cũng biết rằng nỗ lực đại kết
không phải là một tiến trình trực hệ. Thật vậy, những vấn đề cũ,
xuất phát từ bối cảnh của một thời điểm khác, đã mất đi trọng lực
của mình, trong khi đó ở bối cảnh hiện nay, những vấn đề mới và
những khó khăn mới xuất hiện. Thế nên, chúng ta bao giờ cũng cần
phải sẵn sàng cho tiến trình thanh tẩy là tiến trình nhờ đó Chúa sẽ
làm cho chúng ta có khả năng được hiệp nhất nên một.
Anh chị em thân mến, vì thực tại đại kết phức tạp, vì việc phát động
đối thoại, và cũng để cho các Kitô hữu của thời đại chúng ta có thể
cống hiến một chứng từ chung mới mẻ về lòng trung thành với Chúa
Kitô trước thế giới của chúng ta đây, tôi xin hết mọi người hãy
nguyện cầu. Chớ gì Chúa nghe lời khẩn cầu của chúng ta và của tất cả
mọi Kitô hữu, lời nguyện cầu trong tuần lễ này được dâng lên cho
Ngài một cách đặc biệt thiết tha.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ
biến ngày 20/1/2010
|
|

|
|