Tông Hun

 

LI CHÚA

 

ca

Đức Thánh Cha Bin Đức XVI

gi

Các V Giám Mc, Giáo Sĩ, Tu Sĩ và Giáo Dân

về

Li ca Thiên Chúa trong Đời Sng và S V ca Giáo Hi

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

chuyển dịch trực tiếp từ

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20100930_verbum-domini_en.pdf

  

Phần Một

 Lời Thiên Chúa – Verbum Dei

 

“Từ ban đầu đă có Lời, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa…

và Lời đă hóa thành nhục thể” (Jn 1:1,14)

 

 

Việc Dẫn Giải Thánh Kinh trong Giáo Hội

 

Việc phát triển các cuộc nghiên cứu Thánh Kinh và Huấn quyền của Giáo Hội 

32.      Trước hết mọi sự, chúng ta cần nh́n nhận các ích lợi được việc dẫn giải b́nh luận theo lịch sử và các phương pháp mới được khai triển về việc phân tích bản văn đă mang lại sinh động cho Giáo Hội (97). Đối với kiến thức của Công giáo về Thánh Kinh th́ việc chú ư tới các phương pháp như vậy là những ǵ bất khả châm chước, những phương pháp thực sự có liên hệ tới việc hiện thức của biến cố Nhập Thể: “Nhu cầu này là thành quả của nguyên tắc Kitô giáo được công thức hóa theo Phúc Âm Thánh Gioan 1:14: Verbum caro factum est - Lời đă hóa thành nhục thể. Sự kiện về lịch sử là một chiều kích cấu tạo nên đức tin Kitô giáo. Lịch sử cứu độ không phải là một khoa phương pháp học, mà là một lịch sử thực sự, và v́ thế nó cần phải được nghiên cứu học hỏi bằng những phương pháp nghiên cứu nghiêm chỉnh về lịch sử” (98). Việc nghiên cứu học hỏi Thánh Kinh đ̣i phải có một kiến thức về những phương pháp thẩm tra này cùng với việc áp dụng xứng hợp của chúng. Cho dù thật sự là thành phần học giả đă bày tỏ nhiều cảm nhận của họ về tầm quan trọng của những phương pháp này trong giai đoạn tân tiến, cho dù không phải ở cùng một tầm mức ở hết mọi nơi, tuy nhiên truyền thống lành mạnh của Giáo Hội bao giờ cũng chứng tỏ một tấm ḷng quí mến đối với việc nghiên cứu học hỏi về “chữ nghĩa”. Ở đây chúng ta chỉ cần nhắc lại nền văn hóa đan tu, một nền văn hóa là nền tảng tối hậu của văn hóa Âu Châu; ở tận căn gốc của nó là một mối quan tâm về Lời. Ḷng ước muốn Thiên Chúa bao gồm t́nh yêu đối với Lời ở tất cả mọi chiều kích của nó: “v́ nơi lời của Thánh Kinh, Thiên Chúa đến với chúng ta và chúng ta đến với Ngài, chúng ta cần phải biết thấm nhập cái bí mật của ngôn ngữ, để hiểu được ngôn ngữ ấy với cấu trúc của nó và thể thức diễn tả của nó. Bởi thế, v́ việc t́m kiếm Thiên Chúa mà các khoa học trần thế dẫn đến chỗ hiểu biết hơn ngôn ngữ đă trở thành những ǵ là quan trọng” (99). 

33.      Huấn quyền sống động của Giáo Hội, một huấn quyền có trách nhiệm “cống hiến một dẫn giải xác thực Lời Chúa, hoặc bằng h́nh thức thành văn hay bằng h́nh thức truyền thống” (100), đă can thiệp một cách khéo léo và quân b́nh liên quan tới việc xác đáng đáp ứng với vấn đề giới thiệu những phương pháp mới mẻ về sự phân  tích theo lịch sử. Tôi đặc biệt nghĩ đến các Thông Điệp Providentissimus Deus của Đức Giáo Hoàng Leo XIII và Divino Affl ante Spiritu của Đức Giáo Hoàng Pius XII. Vị tiền nhiệm khả kính của tôi Gioan Phaolô II đă nhắc lại tầm quan trọng của những văn kiện ấy nhân dịp mừng kỷ niệm 100 năm và 50 năm việc ban hành hai thông điệp này (101). Việc can thiệp của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đă có công bênh vực việc bảo vệ sự dẫn giải Thánh Kinh của Công giáo khỏi cuộc xâm nhập của chủ nghĩa duy lư, tuy nhiên vẫn không t́m cách ẩn náu vào một ư nghĩa thiêng liêng tách khỏi lịch sử. Chẳng những không xa tránh việc nhận định về khoa học, Giáo Hội chỉ tỏ ra thận trọng về “những ư nghĩ tiền thức chủ trương cần phải đặt trên khoa học, thế nhưng thực tế lại là những ư nghĩ lén lút làm cho khoa học tách ĺa khỏi lănh vực của nó” (102). Đức Giáo Hoàng Piô XII lại phải đương đầu với những cuộc tấn công về phần những ai đề ra một thứ dẫn giải được gọi là dẫn giải thần bí loại trừ đi bất cứ h́nh thức theo phương thức khoa học nào. Thông Điệp Divino Afflante Spiritu đă cẩn thận tránh đi bất cứ gợi ư nào về một thứ phân đôi giữa “viện dẫn giải thánh kinh theo khoa học” để sử dụng vào vấn đề hộ giáo với “việc giải thích thiêng liêng nhắm đến việc sử dụng nội bộ”; trái lại, Thông Điệp này đă khẳng định cả “ư nghĩa thần học của nghĩa đen được xác định theo phương pháp” và sự kiện là “việc quyết định ư nghĩa thiêng liêng… tự nó thuộc về lănh giới của khoa học dẫn giải thánh kinh” (103). Như thế, cả hai văn kiện đă loại trừ “một thứ phân rẽ giữa nhân loại và thần linh, giữa việc nghiên cứu theo khoa học và việc tôn trọng đức tin, giữa nghĩa đen và nghĩa thiêng liêng” (104). Việc cân bằng này sau đó được duy tŕ bởi văn kiện năm 1993 của Ủy Ban Thánh Kinh của Ṭa Thánh: “trong việc dẫn giải thánh kinh của ḿnh, các nhà dẫn giải Công giáo không bao giờ được quên rằng những ǵ họ đang dẫn giải là Lời Chúa. Công việc chung của họ không hoàn trọn khi họ chỉ khẳng định về các nguồn, xác định các h́nh thuưc hay giải thích những phương thức về văn tự. Họ đạt được đích điểm thực sự của công việc họ làm chỉ khi nào họ giaả thích ư nghĩa của bản văn thánh kinh như là Lời Chúa cho ngày hôm nay” (105).

(c̣n tiếp)