Tông Hun

 

LI CHÚA

 

ca

Đức Thánh Cha Bin Đức XVI

gi

Các V Giám Mc, Giáo Sĩ, Tu Sĩ và Giáo Dân

về

Li ca Thiên Chúa trong Đời Sng và S V ca Giáo Hi

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

chuyển dịch trực tiếp từ

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20100930_verbum-domini_en.pdf

  

Phần Một

 Lời Thiên Chúa – Verbum Dei

 

“Từ ban đầu đă có Lời, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa…

và Lời đă hóa thành nhục thể” (Jn 1:1,14)

 

 

Vị Thiên Chúa phát ngôn

 

Kitô học về Lời Chúa

 

11.     Từ cái thoáng nh́n vào tất cả thực tại như công tŕnh của Chúa Ba Ngôi qua Lời thần linh, chúng ta có thể hiểu được câu nói của tác giả Thư Do Thái: “bằng nhiều cách thức khác nhau, trong quá khứ Thiên Chúa đă nói với cha ông chúng ta qua các vị tiên tri: thế nhưng, vào những ngày sau hết này, Ngài đă nói với chúng ta qua một Người Con, Đấng Ngài đă chỉ định thừa kế hết mọi sự, nhờ Người mà Ngài đă tạo dựng nên thế giới” (1:1-2). Thật là tuyệt vời khi thấy toàn thể Cựu Ước đă hiện như cho chúng ta như là một lịch sử được Thiên Chúa sử dụng để thông đạt Lời của Ngài ra sao: thật vậy, “v́ giao ước của ḿnh với Abraham (cf Gen 15:18), và qua Moisen, với gịng tộc Yến Duyên – Israel (cf. Ex 24:8), Ngài đă lập cho ḿnh một dân tộc, và Ngài đă tỏ ḿnh ra cho họ bằng các lời nói và việc làm như Vị Thiên Chúa chân thực hằng sống duy nhất. Dự án của Ngài đó là Yến Duyên có thể nhờ kinh nghiệm khiêm tốn biết được các đường lối của Thiên Chúa, và bằng việc lắng nghe tiếng của Thiên Chúa nói với họ qua các vị tiên tri, họ dần dần hiểu được những đường lối của Ngài trọn vẹn hơn và rơ ràng hơn, và làm cho họ trở thành nổi nang giữa các dân nước (cf. Ps 21:28-29; 95:1-3; Is 2:1-4; Jer 3:17) ” (32).

 

“Việc hạ cố” này của Thiên Chúa được hoàn thành một cách phi thường nơi việc nhập thể của Lời. Lời hằng hữu, Lời được tỏ hiện nơi việc tạo dựng cũng như được truyền đạt trong lịch sử cứu độ, đă hóa thân làm người nơi Đức Kitô, “được hạ sinh bởi một ngưoơi nữ” Gal 4:4). Ở đây Lời không phải chỉ tỏ hiện nơi bài thuyết tŕnh, nơi các quan niệm hay những qui tắc. Ở đây chúng ta được ở trước chính con người của Đức Giêsu. Lịch sử đặc thù và chuyên biệt của Người là lời tối hậu Thiên Chúa nói với loài người. Bởi thế chúng ta có thể thấy được lư do tại sao “là Kitô hữu không phải là thành quả của một thứ chọn lựa về đạo lư hay là một ư nghĩ sao quí mà là cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người mang lại hồn sống cho một chân trời mới và một hướng đi tối hậu” (33). Việc liên lỉ canh tân cuộc gặp gỡ này cũng như tầm nhận thức này làm cho tâm can của các tín hữu tràn đầy ngỡ ngàng trước sáng kiến khởi động của Thiên Chúa, những ǵ loài người, theo lư lẽ và óc tưởng tượng của ḿnh, chưa bao giờ mơ ước tới. Chúng ta đang nói về một cái mới mẻ chưa từng có và không thể nào thấu hiểu về phía loài người: “lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14a). Những lời này không phải là lời nói bóng gió; chúng cho thấy một cảm nghiệm được trải qua! Thánh Gioan, một chứng nhân mắt thấy tai nghe đă nói với chúng ta như thế: “Chúng ta đă được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất từ Cha, đầy ân sủng và chân lư” (Jn 1:14b). Đức tin của vị tông đồ này chứng thực rằng Lời hằng hữu đă trở thành một người trong chúng ta. Lời thần linh thực sự được bày tỏ nơi những ngôn từ của con người.

 

12.     Truyền thống giáo phụ và thời trung cổ, khi chiêm ngưỡng “khoa Kitô học của Lời” này, đă sử dụng một diễn tả gợi tính: lời được viết “tắt” (34). “Các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội đă thấy nơi bản dịch Hy Lạp của ḿnh về Cựu Ước một đoạn được lấy từ Tiên Tri Isaia mà Thánh Phaolô cũng trích dẫn để cho thấy những đường lối mới mẻ của Thiên Chúa đă được báo trước trong Cựu Ước. Chúng ta đọc thấy ở đó như thế này: ‘Chúa làm cho lời của Ngài ngắn gọn, Ngài viết tắt lời của ḿnh’ (Is 10:23; Rm 9:28)… Chính Người Con là Lời, là Logos: Lời hằng hữu trở thành nhỏ bé – nhỏ bé đủ để vừa vặn với một cái máng cỏ. Người đă trở thành một con trẻ, nhờ đó Lời này có thể được chúng ta cầm nắm” (35). Vậy th́ Lời này không phải chỉ là những ǵ có thể nghe thấy; Lời ấy không phải chỉ là một tiếng nói, lời này có một dung nhan, một dung nhan chúng ta có thể thấy được, dung nhan của Đức Giêsu Nazarét (36).

 

Đọc các tŕnh thuật Phúc Âm, chúng ta thấy nhân tính của Chúa Giêsu đă hiện lên ra sao nơi tất ccả những ǵ là đặc thù của ḿnh thực sự liên quan tới Lời Chúa. Nơi nhân tính trọn hảo của ḿnh, Người thực hiện ư muốn của Chúa Cha mọi lúc; Chúa Giêsu đă nghe lời Ngài và vâng giữ lời Ngài với tất cả con người của ḿnh; Người biết Cha và tuân giữ lời Cha (cf. Jn 8:55); Người nói với chúng ta về những ǵ Cha đă nói với Người (cf. Jn 12:50); “Con đă truyền cho họ những lời Cha đă truyền cho Con” (Jn 17:8). Như thế Chúa Giêsu cho thấy rằng Người là Logos thần linh được ban cho chúng ta, thế nhưng đồng thời cũng là tân Adong, là người thật, một con người không ngừng làm theo ư Cha chứ không phải ư của ḿnh. Người “đă gia tăng khôn ngoan và phát triển tầm vóc cùng được ơn nghĩa với Thiên Chúa và loài người” (Lk 2:52). Một cách trọn hảo, Người lắng nghe, hiện thực và truyền đạt cho chúng ta lời Chúa (cf. Lk 5:1).

 

Sứ vụ của Chúa Giêsu cuối cùng được hoàn trọn nơi mầu nhiệm vượt qua: ở đây, chúng ta thấy ḿnh ở trước “lời thập giá” (1Cor 1:18). Lời thập giá này là lời câm nín; nó trở thành một thứ câm lặng chết chóc, v́ nó đă “nói” đến tận cùng, không c̣n ǵ không nói với chúng ta. Các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội, khi suy gẫm về mầu nhiệm này, đă ghép cho Người Mẹ của Thiên Chúa câu nói cảm kích này: “Lời của Cha là những ǵ vô ngôn từ, Đấng làm cho hết mọi tạo vật phát ngôn, đôi mắt của Cha là những ǵ không có sự sống, Đấng nhờ lời Người và sự ưng thuận của Người mà tất cả mọi sự chuyển động” (37). Ở đây, t́nh yêu “cao cả hơn” thực sự được chia sẻ với chúng ta, t́nh yêu hiến mạng sống ḿnh cho bạn hữu của ḿnh (cf. Jn 15:13).  

 

Nơi mầu nhiệm cao cả này, Chúa Giêsu được mạc khải như là lời của giao ước mới và vĩnh cửu: tự do thần linh và tự do loài người cuối cùng gặp nhau nơi xác thịt tử giá của Người, trong một giao ước bất khả phan lư và muôn đời hiệu lực. Chính Chúa Giêsu, trong Bữa Tiệc Ly, khi thiết lập Thánh Thể, đă nói về một “giao ước mới và vĩnh cửu” khi tuôn đổ máu của Người (cf. Mt 26:28; Mk 14:24; Lk 22:20), và cho thấy Người là Chiên hiến tế thực sự mang lại cuộc giải phóng tối hậu cho chúng ta khỏi t́nh trạng nô lệ (38).

 

Nơi mầu nhiệm phục sinh rạng ngời nhất, cái câm nín này của lời đă sáng tỏ ư nghĩa chân thực và tối hậu của ḿnh. Chúa Kitô, Lời Chúa nhập thể, tử giá và phục sinh, là Chúa của tất cả mọi sự; Người là vị chiến thắng, the Pantocrator, và v́ thế tất cả mọi sự được muôn đời qui tụ lại nơi Người (cf. Eph 1:10). Bởi thế Chúa Kitô là “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12), thứ ánh sáng “chiếu trong tăm tối” (Jn 1:5) và là thứ ánh sáng tối tăm không lấn át được (cf Jn 1:5). Ở đây chúng ta hiểu được hoàn toàn ư nghĩa của những lời Thánh Vịnh 119: “Lời Chúa là đèn soi bước con đi và là ánh sáng soi đường con bước” (câu 105); Lời phục sinh là ánh sáng tối hậu này cho đường đi nước bước của chúng ta. Từ ban đầu, các Kitô hữu đă nhận thức rằng trong Chúa Kitô Lời Chúa hiện diện như là một con người. Lời Chúa là ánh sáng thực sự cần cho con người nam nữ. Nơi cuộc phục sinh của ḿnh, Con Thiên Chúa thực sự hiện lên như ánh sáng thế gian. Vậy, nhờ sống với Người và trong Người, chúng ta có thể sống trong ánh sáng ấy.

 

13.     Ở đây, có thể nói ở tâm điểm của “khoa Kitô học Lời Chúa”, cần phải nhấn mạnh đến mối hiệp nhất của dự án thần linh nơi Lời nhập thể: bởi vậy Tân Ước tŕnh bày mầu nhiệm vượt qua như là những ǵ hợp với Thánh Kinh và như là những ǵ sâu xa nên trọn nhất của các Sách Thánh. Thánh Phaolô, trong Thư Nhất cho Giáo Đoàn Côrintô, đă nói rằng Chúa Giêsu Kitô đă chết v́ tội lỗi của chúng ta “hợp với Thánh Kinh” (15:3) và Người đă sống lại vào ngày thứ ba “theo lời Thánh Kinh” (15:4). Vị Tông Đồ này như thế đă liên kết biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô với lịch sử Cựu Ước của Thiên Chúa với dân Ngài. Thật vậy, vị tông đồ này cho chúng ta thấy rằng từ biến cố ấy lịch sử đă có được cái lư lẽ nội tại của ḿnh và ư nghĩa đích thực của ḿnh. Nơi mầu nhiệm vượt qua, “các lời Thánh Kinh” được nên trọn; nói cách khác, cái chết này đă xẩy ra “theo Thánh Kinh” là một biến cố chất chứa một logos, một lư lẽ nội tại: Cái chết của Chúa Kitô chứng thực rằng Lời Chúa đă trở thành hoàn toàn là “xác thịt” loài người, “lịch sử” loài người (39). Cũng thế, cuộc phục sinh của Chúa Giêsu xẩy ra “vào ngày thứ ba hợp với Thánh Kinh”: v́ niềm tin của người Do Thái cho rằng t́nh trạng hư rữa xẩy ra sau ngày thứ ba, lời Thánh Kinh được nên trọn nơi Chúa Giêsu là Đấng đă sống lại bất hoại. Bởi vậy, Thánh Phaolô, trung thành truyền đạt giáo huấn của các Tông Đồ (cf. 1 Cor 15:3), đă nhấn mạnh rằng cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên tử thần đă xẩy ra nhờ quyền năng sáng tạo của Lời Chúa. Quyền năng thần linh này là những ǵ mang lại hy vọng và niềm vui: tóm lại, đó là nội dung giải phóng của mạc khải vượt qua. Nơi Cuộc Phục Sinh, Thiên Chúa tỏ ḿnh ra và quyền năng của t́nh yêu Ba Ngôi là những ǵ làm tan biến các quyền lực quái gở của sự dữ và sự chết.

 

Lưu ư tới những yếu tố thiết yếu này của đức tin ḿnh, chúng ta có thể chiêm ngưỡng một hiệp nhất sâu xa trong Chúa Kitô giữa việc tạo dựng, việc tân tạo và tất cả lịch sử cứu độ. Lấy thí dụ, chúng ta có thể so sánh vũ trụ với một “cuốn sách” – chính Galileo đă sử dụng thí dụ này – và coi nó như “công cuộc của một tác giả muốn bày tỏ ḿnh qua ‘cái giao hưởng’ của tạo dựng. Nơi cái giao hưởng này, người ta thấy, ở một điểm nào đó, cái được gọi theo từ ngữ của âm nhạc là một thứ ‘solo - đơn độc’, một đề tài được kư thác cho một nhạc cụ hay một tiếng hát giữ một tầm vóc quan trọng tới độ ư nghĩa của toàn thể công việc lệ thuộc vào nó. Cái ‘solo’ này là Chúa Giêsu… Con Thiên Chúa gồm tóm lại nơi bản thân ḿnh trời đất, thụ tạo và Tạo Hóa, xác thịt và Thần Linh. Người là tâm điểm của vũ trụ và của lịch sử, v́ trong Người qui tụ một cách rơ ràng tác giả và tác phẩm của ông” (40).

 

 

(c̣n tiếp)