Tông Huấn
LỜI
CHÚA
của
Đức
Thánh Cha Biển
Đức
XVI
gửi
Các Vị
Giám Mục,
Giáo Sĩ,
Tu Sĩ
và Giáo Dân
về
Lời
của
Thiên Chúa trong
Đời
Sống
và Sứ
Vụ
của
Giáo Hội
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
chuyển dịch trực tiếp từ
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20100930_verbum-domini_en.pdf
Phần Một
Lời
Thiên Chúa – Verbum Dei
“Từ
ban đầu đă có Lời, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa…
và Lời đă hóa
thành nhục thể” (Jn 1:1,14)
Vị Thiên Chúa phát
ngôn
Chiều kích cánh
chung của Lời Chúa
14. Trong tất cả
những điều ấy, Giáo Hội lên tiếng cho biết là Giáo Hội nhận thức
rằng cùng với Chúa Giêsu Kitô Giáo Hội ở trước Lời Thiên Chúa tối
hậu: Người là “nguyên khởi và là cùng tận” (Rev 1:17). Người đă cống
hiến cho tạo vật và lịch sử ư nghĩa tối hậu của chúng; bởi vậy chúng
ta được kêu gọi để sống trong thời gian cũng như trong việc tạo
thành của Thiên Chúa theo nhịp điệu cánh chung của Lời này; “thế nên
nhiệm cuộc Kitô giáo sẽ không bao giờ qua đi v́ nó là giao ước mới
và vĩnh viễn; và không cần phải trông đợi một thứ mạc khải công khai
mới nào nữa trước cuộc tỏ ḿnh hiển vinh của Chúa Giêsu Kitô” (cf. 1
Tim 6:14 and Tit 2:13) ” (41). Thật vậy, như các Nghị Phụ nhận định
trong Thượng Nghị, “cái tính chất đặc thù chuyên nhất của Kitô giáo
được bộc lộ nơi biến cố là Chúa Giêsu Kitô, tột đỉnh của mạc khải,
tầm vóc trọn vẹn của những lời Thiên Chúa hứa và là Đấng Môi Giới
cho cuộc gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. “Người, Đấng ‘đă tỏ
Thiên Chúa ra’ (Jn 1:18), là Lời duy nhất tối hậu được ban cho loài
người” (42) Thánh Gioan Thánh Giá đă diễn tả sự thật này một cách uy
nghi như sau: “V́ Ngài đă ban cho chúng ta Con của ḿnh, Lời duy
nhất của ḿnh (v́ Ngài không có một lời nào khác), Ngài đă nói hết
mọi sự nơi Lời duy nhất này chỉ duy một lần – và Ngài đă không nói
thêm ǵ nữa… v́ những ǵ Ngài nói trước đó cho các vị tiên tri một
phần nào, th́ Ngài đă nói tất cả mọi sự một lần bằng việc ban cho
chúng ta Tất Cả là Con của Ngài ấy. Bất cứ ai yêu cầu Thiên Chúa hay
mong muốn một thị kiến hay mạc khải nào đó sẽ vấp phạm lỗi lầm,
chẳng những v́ hành vi ngu muội mà c̣n v́ xúc phạm đến Ngài nữa, bởi
không gắn bó ánh mắt của ḿnh hoàn toàn vào Chúa Kitô mà sống theo
ước ao muốn có những ǵ mới mẻ khác nào đó” (43).
Bởi vậy, Thượng Nghị đă
hướng tới nhu cầu cần “giúp cho tín hữu biết phân biệt Lời Chúa với
các thứ mạc khải tư” (44) là những mạc khải đóng vai tṛ “không phải
để ‘hoàn tất’ mạc khải tối hậu của Chúa Kitô mà là để nhớ chúng sống
một cách trọn vẹn hơn ở một giai đoạn lịch sử nào đó” (45). Giá trị
của các mạc khải tư theo yếu tính khác với các mạc khải của mạc khải
công khai duy nhất: mạc khải công khai duy nhất đ̣i phải tin tưởng;
nơi mạc khải này chính Thiên Chúa nói với chúng ta bằng các lời nói
của loài người và qua trung gian của cộng đồng sống động Giáo Hội.
Tiêu chuẩn để phán đoán sự thật của một mạc khải tư đó là hướng
chiều của nó về chính Chúa Kitô. Nếu nó dẫn chúng tax a khỏi Người
th́ nó chắc chắn không xuất phát từ Thánh Linh, Đấng dẫn chúng ta
càng sâu xa tiến vào Phúc Âm hơn chứ không xa ĺa Phúc Âm. Mạc khải
tư là một thứ trợ giúp cho đức tin này, và nó chứng tỏ tính chất khả
tín của nó chính là ở chỗ nó qui về mạc khải công khai duy nhất.
Việc chấp thuận của Giáo Hội đối với một mạc khải tư chính yếu có
nghĩa là sứ điệp của nó không có ǵ phản lại với đức tin và luân lư;
việc công khai phổ biến nó là những ǵ hợp lệ và tín hữu được cho
phép gắn bó với nó một cách khôn ngoan. Một mạc khải tư có thể đề ra
những ǵ cần phải nhấn mạnh mới mẻ, phát động những h́nh thức đạo
đức mới, hay đi sâu hơn vào những h́nh thức đạo đức cũ. Nó có thể
chất chứa một tính chất tiên tri nào đó (cf. 1 Th 5:19-21) và có thể
trở thành một trợ giúp quí báu cho việc hiểu biết hơn và sống tốt
hơn Phúc Âm ở một thời điểm nào đó; cho nên không được coi nhẹ nó.
Nó là một trợ giúp được cống hiến nhưng không bắt buộc sử dụng nó.
Dù sao nó cần phải là vấn đề nuôi dưỡng đức tin, đức cậy và đức mến,
những ǵ là đường lối vĩnh viễn cho phần rỗi đối với hết mọi người
(46).
(c̣n tiếp)