Tông Hun

 

LI CHÚA

 

ca

Đức Thánh Cha Bin Đức XVI

gi

Các V Giám Mc, Giáo Sĩ, Tu Sĩ và Giáo Dân

về

Li ca Thiên Chúa trong Đời Sng và S V ca Giáo Hi

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

chuyển dịch trực tiếp từ

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20100930_verbum-domini_en.pdf

  

Phần Một

 Lời Thiên Chúa – Verbum Dei

 

“Từ ban đầu đă có Lời, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa…

và Lời đă hóa thành nhục thể” (Jn 1:1,14)

 

 

Vị Thiên Chúa phát ngôn

 

Thiên Chúa lên tiếng đối thoại

 

6.     Cái mới mẻ của mạc khải thánh kinh ở sự kiện là Thiên Chúa được nhận biết qua việc đối thoại Ngài muốn thực hiện với chúng ta (14). Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum đă diễn tả điều này khi nh́n nhận rằng Vị Thiên Chúa vô h́nh này “v́ t́nh yêu thương trọn vẹn của ḿnh, ngỏ lời cùng con người nam nữ như là thành phần bạn hữu của ḿnh, và sống giữa họ, để mời gọi họ và tiếp nhận họ vào t́nh bằng hữu của Ngài” (15). Tuy nhiên, chúng ta sẽ chưa nắm bắt được đầy đủ ư nghĩa của Lời Mở Đầu của Thánh Gioan nếu chúng ta dừng lại ở sự kiện là Thiên Chúa muốn hiệp thông yêu thương với chúng ta. Thật vậy, Lời Chúa, Đấng nhờ Người mà “mọi sự được tạo thành” (Jn 1:3) và là Đấng “đă hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), cũng là Lời hiện hữu “từ ban đầu” (Jn 1:1). Nếu chúng ta nhận thức rằng đây là những ǵ bóng gió về cái ban đầu của Sách Khởi Nguyên (cf. Gen 1:1), chúng ta thấy được một thứ ban đầu tuyệt đối và nói với chúng ta về sự sống nội tại của Thiên Chúa. Lời Mở Đầu của Thánh Gioan làm cho chúng ta nhận thức được rằng Logos – Lời thực sự là hằng hữu và chính Người là Thiên Chúa từ đời đời. Thiên Chúa không bao giờ thiếu Logos – Lời của Ngài. Lời hiện diện trước việc tạo thành. Bởi thế, ở tâm điểm của sự sống thần linh là mối hiệp thông, là một tặng ân thuần túy. “Thiên Chúa là t́nh yêu” (1Jn 4:16), như được cùng vị Tông Đồ nói với chúng ta ở chỗ khác, như thế hướng tới “h́nh ảnh Thiên Chúa của Kitô hữu và theo đó là h́nh ảnh về con người cùng với định mệnh của họ” (16). Thiên Chúa tỏ ḿnh ra cho chúng ta như là một mầu nhiệm về mối t́nh yêu thương vô cùng đă khiến Cha đời đời nói Lời của Ngài trong Thánh Linh. Do đó, Lời, Đấng từ ban đầu ở với Thiên Chúa và là Thiên Chúa, tỏ chính Thiên Chúa ra trong cuộc đối thoại yêu thương giữa các ngôi vị thần linh, và mời gọi chúng ta tham dự vào t́nh yêu này. Được dựng nên theo h́nh ảnh và tương tự Thiên Chúa Đấng là t́nh yêu, như thế chúng ta có thể hiểu được bản thân ḿnh chỉ ở chỗ chấp nhận Lời này và dễ dạy với tác động của Thánh Linh. Trong ánh sáng mạc khải bởi Lời Chúa th́ những ǵ bí ẩn nơi thân phận của con người hoàn toàn được sáng tỏ.

 

Việc loại suy về Lời Chúa

 

7.     Căn cứ vào ư nghĩa của những cứu xét này, những cứu xét được xuất phát từ việc suy niệm về mầu nhiệm Kitô giáo được diễn tả trong Lời Mở Đầu của Thánh Gioan, giờ đây chúng ta cần lưu ư tới những ǵ được các Vị Nghị Phụ của Thượng Nghị khẳng định về những đường lối khác nhau để nói về “Lời Chúa”. Các vị có lư để nói đến một thứ giao hưởng của ngôn từ, đến một lời duy nhất được bày tỏ bằng nhiều cách thức: “một bản thánh ca đa âm” (17). Các Nghị Phụ vạch ra rằng ngôn ngữ loài người diễn tả một cách suy loại khi nói về Lời Chúa. Thật vậy, việc diễn tả này, trong khi nói đến việc Thiên Chúa truyền đạt bản thân ḿnh, cũng có một số ư nghĩa khác nhau cần được cẩn thận cứu xét và liên kết chúng với nhau, theo quan điểm vừa suy tư thần học lẫn thực hành mục vụ. Như Lời Mở Đầu của Thánh Gioan rơ ràng cho chúng ta thấy rằng Logos trước hết ám chỉ Lời hằng hữu, Ngôi Con duy nhất, được Cha nhiệm sinh trước thời gian và đồng bản thể với Cha: Lời ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa. Thế nhưng, Thaáh Gioan nói với chúng ta rằng cũng Lời này “đă hóa thành nhục thể” (Jn 1:14); bởi thế, Chúa Giêsu Kitô, được hạ sinh bởi Trinh Nữ Maria, thực sự là Lời Chúa, Đấng trở thành đồng bản thể với chúng ta. Vậy lời diễn tả “Lời Chúa” ở đây liên quan tới bản thân của Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Con hằng hữu của Cha, Đấng đă hóa thân làm người. Cho dù biến cố Chúa Kitô là cốt lơi của mạc khải thần linh, chúng ta cũng cần phải nhận thức rằng chính việc tạo dựng, the liber naturae, là một yếu tố thiết yếu nơi cuộc giao hưởng của nhiều tiếng nói vang lên Lời duy nhất này. Chúng ta cũng tuyên xưng đức tin của chúng ta là Thiên Chúa đă nói Lời của Ngài trong lịch sử cứu độ; Ngài đă làm cho tiếng của Ngài vang lên; bằng quyền năng của Thần Linh của ḿnh “Ngài đă dùng các tiên tri mà phán dạy” (18). Bởi thế Lời Chúa được vang lên suốt gịng lịch sử cứu độ, và trọn vẹn nhất nơi mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa. Thế rồi, Lời Chúa cũng là lời được các Tông Đồ giảng dạy theo lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục Sinh: “Các con hăy đi khắp thêágian mà rao giảng Phúc Âm cho tất cả mọi thụ tạo” (Mk 16:15). Lời Chúa như thế được truyền đạt theo Truyền Thống sinh động của Giáo Hội. Sau hết, Lời Chúa, được chứng thực và được linh ứng, là Thánh Kinh, Cựu Ước và Tân Ước. Tất cả những điều ấy giúp chúng ta thấy rằng, khi chúng ta rất tôn kính Thánh Kinh trong Giáo Hội, đức tin Kitô giáo không phải là một thứ “tôn giáo của sách vở”: Kitô giáo là “tôn giáo của Lời Chúa”, không phải là “một thứ lời thành văn và câm lặng, mà là Lời hằng sống nhập thể” (19). Thế nên Thánh Kinh được công bố, lắng nghe, đọc lên, lănh nhận và cảm nghiệm như Lời Chúa, theo gịng Truyền Thống tông đồ là những ǵ Thánh Kinh bất khả phân ly (20).

 

Như các vị Nghị Phụ Thượng Nghị đă nói, lời phát biểu “Lời Chúa” được sử dụng một cách loại suy, và chúng ta cần phải ư thức về điều ấy. Tín hữu cần phải được giúp hơn nữa trong việc chẳng những nắm bắt các ư nghĩa khác nhau của lời phát biểu này, mà c̣n hiểu được ư nghĩa hiệp nhất của nó. Từ cả quan điểm thần học nữa, cũng cần phải học hỏi hơn nữa về cách thức tương liên giữa các ư nghĩa khác nhau của lời phát biểu này, để mối duy nhất của dự án Thiên Chúa, và vai tṛ chính yếu của bản thân Chúa Kitô trong dự án này, được sáng tỏ hơn nữa (21).

 

Chiều kích vũ trụ của Lời Chúa

 

8.      Khi chúng ta lưu ư tới ư nghĩa căn bản của Lời Chúa như là những ǵ liên hệ tới Lời Chúa hằng hữu hóa thành nhục thể, Đấng Cứu Thế duy nhất và là vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (22), và chúng ta lắng nghe lời này, chúng ta được mạc khải thần linh dẫn đến chỗ thấy được rằng lời này là nền tảng của tất cả mọi thực tại. Lời Mở Đầu của Thánh Gioan nói về Logos thần linh, rằng “nhờ Người mà tất cả mọi sự được thành nên, và không Người chẳng có ǵ được tạo dựng” (Jn 1:3); và trong Thư gửi Giáo Đoàn Côlôsê Chúa Kitô được nói là “trưởng tử của tất cả mọi tạo vật” (1:15), rằng “tất cả mọi sự được tạo thành nhờ Người và cho Người” (1:16). Tác giả của bức Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái cũng nói rằng “nhờ đức tin chúng ta hiểu rằng thế giới này được tạo dựng nên bởi Lời Chúa, nhờ đó những ǵ thấy được đều làm nên từ những ǵ không hiện h́nh” (11:3).

 

Đối với chúng ta, việc loan báo này là một lời của sự tự do. Thánh Kinh nói với chúng ta rằng hết mọi sự hiện hữu không hiện hữu một cách t́nh cờ mà là do ư muốn của Thiên Chúa và thuộc về dự án của Ngài, một dự án có ư mời gọi tham dự vào sự sống thần linh trong Chúa Kitô. Tạo vật được xuất phát từ Logos và mang các dấu tích bất khả xóa bỏ của một Lư Trí sáng tạo truyền khiến nó và hướng dẫn nó; các bài thánh vịnh đă xướng lên niềm xác tín tràn đầy niềm vui rằng: “Nhờ Lời Chúa mà các tầng trời đă được tạo thành và nhờ hơi tở của miệng Ngài mà tất cả mọi cơ cấu của chúng được thành nên” (33:6); chưa hết, “Ngài phán th́ nó được hiện hữu; Ngài truyền khiến th́ nó xuất hiện” (33:9). Tất cả mọi thực tại đều diễn đạt mầu nhiệm ấy: “Các tầng trời nói lên vinh hiển Chúa; và bầu trời loan truyền kỳ công của Ngài” (19:1). Bởi thế, chính Thánh Kinh mời gọi chúng ta hăy nhận biết Đấng Hóa Công bằng việc chiêm ngắm tạo vật của Ngài (cf. Wis 13:5; Rom 1:19-20). Truyền thống tư tưởng của Kitô giáo đă khai triển yếu tố chủ yếu về cuộc giao hưởng lời ấy, chẳng hạn như Thánh Bonaventura, vị theo truyền thống cả thể của các vị Giáo Phụ Hy Lạp thấy tất cả mọi năng thể của việc tạo dựng đều hiện diện nơi Logos (23), đă nói rằng “hết mọi tạo vật đều là một lời Chúa, v́ nó loan truyền Thiên Chúa” (24). Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum đă tổng hợp hóa luận cứ này khi nói rằng “Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tŕ tất cả mọi sự bằng Lời của ḿnh (cf Jn 1:3), cống hiến chứng cớ liên lỉ về bản thân ḿnh nơi các thực tại được tạo thành” (25).

 

Việc tạo dựng con người

 

9.      Như thế, thực tại được xuất phát từ Lời, như creatura Verbi, và hết mọi sự được kêu gọi để phục vụ Lời này. Tạo vật là khung cảnh cho thấy việc triển khai toàn thể lịch sử của t́nh yêu giữa Thiên Chúa và tạo vật của Ngài; bởi thế, ơn cứu độ của con người là lư do nền tảng của hết mọi sự. Chiêm ngắm vũ trụ theo quan điểm của lịch sử cứu độ, chúng ta nhận ra vị thế đặc thù và chuyên biệt của con người trong tạo vật: “Thiên Chúa đă dựng nên con người theo h́nh ảnh của ḿnh, theo h́nh ảnh của Thiên Chúa Ngài đă dựng nên họ: Ngài đă dựng nên họ có nam có nữ” (Gen 1:27). Điều này giúp chúng ta có thể hoàn toàn nhận thấy được các tặng ân quí báu được Đấng Hóa Công ban cho: giá trị của thân xác chúng ta, tặng ân có trí khôn, tự do và lương tâm. Cả ở đây nữa, chúng ta khám phá thấy những ǵ được truyền thống triết lư gọi là “luật tự nhiên” (26). Thật vậy, “hết mọi người biết ư thức và trách nhiệm đều cảm nghiệm thấy một ơn gọi nội tại trong việc làm lành” (27) và do đó tránh dữ. Như Thánh Thomas Aquinas nói, nguyên tắc này là căn bản của tất cả những qui tắc khác của luật tự nhiên (28). Việc lắng nghe Lời Chúa dẫn chúng ta trước hết và trên hết đến chỗ trân quí nhu cầu sống theo thứ luật “được viết trong tâm can của con người” (cf Rm 2:15;7:23) này (29). Thế rồi Chúa Giêsu Kitô ban cho loài người một luật mới, luật Phúc Âm, luật thăng hóa và làm trọn luâả tự nhiên một cách tuyệt vời, giải phóng chúng ta khỏi luật tội lỗi là những ǵ v́ nó, như Thánh Phaolô nói: “Tôi muốn điều đúng nhưng lại không làm nó” (Rm 7:18). Nó cũng giúp cho con người nam nữ có thể, nhờ ân sủng, thông phần vào sự sống thần linh và thắng vượt cái vị kỷ của họ (30).

 

Việc hiện thực Lời Chúa

 

10.      Những ai biết Lời Chúa cũng hoàn toàn biết được tầm quan trọng của mỗi một tạo vật. V́ nếu tất cả mọi sự “cùng liên kết” trong Đấng có “trước mọi sự” (cf. Col 1:17), th́ những ai xây dựng đời sống của ḿnh trên lời của Người th́ xây dựng nó một cách thực sự lành mạnh và bền vững. Lời Chúa làm cho chúng ta thay đổi quan niệm của chúng ta về những ǵ hiện thực: người hiện thực là người nhận thấy nơi Lời Chúa cái nền tảng của tất cả mọi sự (31). Chủ nghĩa hiện thực này là những ǵ đặc biệt cần cho thời đại của chúng ta, khi mà nhiều điều chúng ta tin tưởng để xây dựng đời sống của ḿnh, những thứ chúng ta có khuynh hưoơng đặt niềm hy vọng của ḿnh vào đó, đều cho thấy là phù du. Những ǵ là chiếm hữu, khoái lạc và quyền lực không sớm th́ muộn đều cho thấy là không thể nào măn nguyện được những khát vọng sâu xa nhất của cơi ḷng con người. Trong việc xây dựng đời ḿnh, chúng ta cần đến những nền tảng vững chắc bền bỉ khi những ǵ con người tin tưởng bị lung lay đổ vỡ. Thật thế, v́ “Ôi Chúa, muôn đời Lời Chúa bền vững trên các tầng trời” và ḷng trung thành của Chúa “kéo dài qua mọi thế heê” (Ps 119:89-90), bất cứ ai xây dựng trên Lời này là dựng xây ngôi nhà đời sống của ḿnh trên đá (cf. Mt 7:24). Chớ ǵ hằng ngày tâm can chúng ta có thể thưa lên cùng Chúa rằng: “Chúa là nơi con nương náu và là khiên thuẫn của con; con hy vọng vào Lời Chúa” (Ps 119:114), và như Thánh Phêrô, chớ ǵ chúng ta kư thác ḿnh cho Chúa Giêsu nơi những hành động hằng ngày của ḿnh: “V́ lời Thày con sẽ thả lưới” (Lk 5:5).  

 

Kitô học về Lời Chúa

 

11.     Từ cái thoáng nh́n vào tất cả thực tại như công tŕnh của Chúa Ba Ngôi qua Lời thần linh, chúng ta có thể hiểu được câu nói của tác giả Thư Do Thái: “bằng nhiều cách thức khác nhau, trong quá khứ Thiên Chúa đă nói với cha ông chúng ta qua các vị tiên tri: thế nhưng, vào những ngày sau hết này, Ngài đă nói với chúng ta qua một Người Con, Đấng Ngài đă chỉ định thừa kế hết mọi sự, nhờ Người mà Ngài đă tạo dựng nên thế giới” (1:1-2). Thật là tuyệt vời khi thấy toàn thể Cựu Ước đă hiện như cho chúng ta như là một lịch sử được Thiên Chúa sử dụng để thông đạt Lời của Ngài ra sao: thật vậy, “v́ giao ước của ḿnh với Abraham (cf Gen 15:18), và qua Moisen, với gịng tộc Yến Duyên – Israel (cf. Ex 24:8), Ngài đă lập cho ḿnh một dân tộc, và Ngài đă tỏ ḿnh ra cho họ bằng các lời nói và việc làm như Vị Thiên Chúa chân thực hằng sống duy nhất. Dự án của Ngài đó là Yến Duyên có thể nhờ kinh nghiệm khiêm tốn biết được các đường lối của Thiên Chúa, và bằng việc lắng nghe tiếng của Thiên Chúa nói với họ qua các vị tiên tri, họ dần dần hiểu được những đường lối của Ngài trọn vẹn hơn và rơ ràng hơn, và làm cho họ trở thành nổi nang giữa các dân nước (cf. Ps 21:28-29; 95:1-3; Is 2:1-4; Jer 3:17) ” (32). “Việc hạ cố” này của Thiên Chúa được hoàn thành một cách phi thường nơi việc nhập thể của Lời. Lời hằng hữu, Lời được tỏ hiện nơi việc tạo dựng cũng như được truyền đạt trong lịch sử cứu độ, đă hóa thân làm người nơi Đức Kitô, “được hạ sinh bởi một ngưoơi nữ” Gal 4:4). Ở đây Lời không phải chỉ tỏ hiện nơi bài thuyết tŕnh, nơi các quan niệm hay những qui tắc. Ở đây chúng ta được ở trước chính con người của Đức Giêsu. Lịch sử đặc thù và chuyên biệt của Người là lời tối hậu Thiên Chúa nói với loài người. Bởi thế chúng ta có thể thấy được lư do tại sao “là Kitô hữu không phải là thành quả của một thứ chọn lựa về đạo lư hay là một ư nghĩ sao quí mà là cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người mang lại hồn sống cho một chân trời mới và một hướng đi tối hậu” (33). Việc liên lỉ canh tân cuộc gặp gỡ này cũng như tầm nhận thức này làm cho tâm can của các tín hữu tràn đầy ngỡ ngàng trước sáng kiến khởi động của Thiên Chúa, những ǵ loài người, theo lư lẽ và óc tưởng tượng của ḿnh, chưa bao giờ mơ ước tới. Chúng ta đang nói về một cái mới mẻ chưa từng có và không thể nào thấu hiểu về phía loài người: “lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14a). Những lời này không phải là lời nói bóng gió; chúng cho thấy một cảm nghiệm được trải qua! Thánh Gioan, một chứng nhân mắt thấy tai nghe đă nói với chúng ta như thế: “Chúng ta đă được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất từ Cha, đầy ân sủng và chân lư” (Jn 1:14b). Đức tin của vị tông đồ này chứng thực rằng Lời hằng hữu đă trở thành một người trong chúng ta. Lời thần linh thực sự được bày tỏ nơi những ngôn từ của con người.

 

12.     Truyền thống giáo phụ và thời trung cổ, khi chiêm ngưỡng “khoa Kitô học của Lời” này, đă sử dụng một diễn tả gợi tính: lời được viết “tắt” (34). “Các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội đă thấy nơi bản dịch Hy Lạp của ḿnh về Cựu Ước một đoạn được lấy từ Tiên Tri Isaia mà Thánh Phaolô cũng trích dẫn để cho thấy những đường lối mới mẻ của Thiên Chúa đă được báo trước trong Cựu Ước. Chúng ta đọc thấy ở đó như thế này: ‘Chúa làm cho lời của Ngài ngắn gọn, Ngài viết tắt lời của ḿnh’ (Is 10:23; Rm 9:28)… Chính Người Con là Lời, là Logos: Lời hằng hữu trở thành nhỏ bé – nhỏ bé đủ để vừa vặn với một cáci máng cỏ. Người đă trở thành một con trẻ, nhờ đó Lời này có thể được chúng ta cầm nắm” (35). Vậy th́ Lời này không phải chỉ là những ǵ có thể nghe thấy; Lời ấy không phải chỉ là một tiếng nói, lời này có một dung nhan, một dung nhan chúng ta có thể thấy được, dung nhan của Đức Giêsu Nazarét (36).

 

Đọc các tŕnh thuật Phúc Âm, chúng ta thấy nhân tính của Chúa Giêsu đă hiện lên ra sao nơi tất ccả những ǵ là đặc thù của ḿnh thực sự liên quan tới Lời Chúa. Nơi nhân tính trọn hảo của ḿnh, Người thực hiện ư muốn của Chúa Cha mọi lúc; Chúa Giêsu đă nghe lời Ngài và vâng giữ lời Ngài với tất cả con người của ḿnh; Người biết Cha và tuân giữ lời Cha (cf. Jn 8:55); Người nói với chúng ta về những ǵ Cha đă nói với Người (cf. Jn 12:50); “Con đă truyền cho họ những lời Cha đă truyền cho Con” (Jn 17:8). Như thế Chúa Giêsu cho thấy rằng Người là Logos thần linh được ban cho chúng ta, thế nhưng đồng thời cũng là tân Adong, là người thật, một con người không ngừng làm theo ư Cha chứ không phải ư của ḿnh. Người “đă gia tăng khôn ngoan và phát triển tầm vóc cùng được ơn nghĩa với Thiên Chúa và loài người” (Lk 2:52). Một cách trọn hảo, Người lắng nghe, hiện thực và truyền đạt cho chúng ta lời Chúa (cf. Lk 5:1).

 

Sứ vụ của Chúa Giêsu cuối cùng được hoàn trọn nơi mầu nhiệm vượt qua: ở đay, chúng ta thấy ḿnh ở trước “lời thập giá” (1Cor 1:18). Lời thập giá này là lời câm nín; nó trở thành một thứ câm lặng chết chóc, v́ nó đă “nói” đến tận cùng, không c̣n ǵ không nói với chúng ta. Các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội, khi suy gẫm về mầu nhiệm này, đă ghép cho Người Mẹ của Thiên Chúa câu nói cảm kích này: “Lời của Cha là những ǵ vô ngôn từ, Đấng làm cho hết mọi tạo vật phát ngôn, đôi mắt của Cha là những ǵ không có sự sống, Đấng nhờ lời Người và sự ưng thuận của Người mà tất cả mọi sự chuyển động” (37). Ở đây, t́nh yêu “cao cả hơn” thực sự được chia sẻ với chúng ta, t́nh yêu hiến mạng sống ḿnh cho bạn hữu của ḿnh (cf. Jn 15:13).  

 

Nơi mầu nhiệm cao cả này, Chúa Giêsu được mạc khải như là lời của giao ước mới và vĩnh cửu: tự do thần linh và tự do loài người cuối cùng gặp nhau nơi xác thịt tử giá của Người, trong một giao ước bất khả phan lư và muôn đời hiệu lực. Chính Chúa Giêsu, trong Bữa Tiệc Ly, khi thiết lập Thánh Thể, đă nói về một “giao ước mới và vĩnh cửu” khi tuôn đổ máu của Người (cf. Mt 26:28; Mk 14:24; Lk 22:20), và cho thấy Người là Chiên hiến tế thực sự mang lại cuộc giải phóng tối hậu cho chúng ta khỏi t́nh trạng nô lệ (38).

 

Nơi mầu nhiệm phục sinh rạng ngời nhất, cái câm nín này của lời đă sáng tỏ ư nghĩa chân thực và tối hậu của ḿnh. Chúa Kitô, Lời Chúa nhập thể, tử giá và phục sinh, là Chúa của tất cả mọi sự; Người là vị chiến thắng, the Pantocrator, và v́ thế tất cả mọi sự được muôn đời qui tụ lại nơi Người (cf. Eph 1:10). Bởi thế Chúa Kitô là “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12), thứ ánh sáng “chiếu trong tăm tối” (Jn 1:5) và là thứ ánh sáng tối tăm không lấn át được (cf Jn 1:5). Ở đây chúng ta hiểu được hoàn toàn ư nghĩa của những l72i Thánh Vịnh 119: “Lời Chúa là đèn soi bước con đi và là ánh sáng soi đường con bước” (câu 105); Lời phục sinh là ánh sáng tối hậu này cho đường đi nước bước của chúng ta. Từ ban đầu, các Kitô hữu đă nhận thức rằng trong Chúa Kitô Lời Chúa hiện diện như là một con người. Lời Chúa là ánh sáng thực sự cần cho con người nam nữ. Nơi cuộc phục sinh của ḿnh, Con Thiên Chúa thực sự hiện lên như ánh sáng thế gian. Vậy, nhờ sống với Người và trong Người, chúng ta có thể sống trong ánh sáng ấy.

 

13.     Ở đây, có thể nói ở tâm điểm của “khoa Kitô học Lời Chúa”, cần phải nhấn mạnh đến mối hiệp nhất của dự án thần linh nơi Lời nhập thể: bởi vậy Tân Ước tŕnh bày mầu nhiệm vượt qua như là những ǵ hợp với Thánh Kinh và như là những ǵ sâu xa nên trọn nhất của các Sách Thánh. Thánh Phaolô, trong Thư Nhất cho Giáo Đoàn Côrintô, đă nói rằng Chúa Giêsu Kitô đă chết v́ tội lỗi của chúng ta “hợp với Thánh Kinh” (15:3) và Người đă sống lại vào ngày thứ ba “theo lời Thánh Kinh” (15:4). Vị Tông Đồ này như thế đă liên kết biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô với lịch sử Cựu Ước của Thiên Chúa với dân Ngài. Thật vậy, vị tông đồ này cho chúng ta thấy rằng từ biến cố ấy lịch sử đă có được cái lư lẽ nội tại của ḿnh và ư nghĩa đích thực của ḿnh. Nơi mầu nhiệm vượt qua, “các lời Thánh Kinh” được nên trọn; nói cách khác, cái chết này đă xẩy ra “theo Thánh Kinh” là một biến cố chất chứa một logos, một lư lẽ nội tại: Cái chết của Chúa Kitô chứng thực rằng Lời Chúa đă trở thành hoàn toàn là “xác thịt” loài người, “lịch sử” loài người (39). Cũng thế, cuộc phục sinh của Chúa Giêsu xẩy ra “vào ngày thứ ba hợp với Thánh Kinh”: v́ niềm tin của người Do Thái cho rằng t́nh trạng hư rữa xẩy ra sau ngày thứ ba, lời Thánh Kinh được nên trọn nơi Chúa Giêsu là Đấng đă sống lại bất hoại. Bởi vậy, Thánh Phaolô, trung thành truyền đạt giáo huấn của các Tông Đồ (cf. 1 Cor 15:3), đă nhấn mạnh rằng cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên tử thần đă xẩy ra nhờ quyền năng sáng tạo của Lời Chúa. Quyền năng thần linh này là những ǵ mang lại hy vọng và niềm vui: tóm lại, đó là nội dung giải phóng của mạc khải vượt qua. Nơi Cuộc Phục Sinh, Thiên Chúa tỏ ḿnh ra và quyền năng của t́nh yêu Ba Ngôi là những ǵ làm tan biến các quyền lực quái gở của sự dữ và sự chết.

 

Lưu ư tới những yếu tố thiết yếu này của đức tin ḿnh, chúng ta có thể chiêm ngưỡng một hiệp nhất sâu xa trong Chúa Kitô giữa việc tạo dựng, việc tân tạo và tất cả lịch sử cứu độ. Lấy thí dụ, chúng ta có thể so sánh vũ trụ với một “cuốn sách” – chính Galileo đă sử dụng thí dụ này – và coi nó như “congôcuộc của một tác giả muốn bày tỏ ḿnh qua ‘cái giao hưởng’ của tạo dựng. Nơi cái giao hưởng này, người ta thấy, ở một điểm nào đó, cái được gọi theo từ ngữ của âm nhạc là một thứ ‘solo - đơn độc’, một đề tài được kư thác cho một nhạc cụ hay một tiếng hát giữ một tầm vóc quan trọng tới độ ư nghĩa của toàn thể công việc lệ thuộc vào nó. Cái ‘solo’ này là Chúa Giêsu… Con Thiên Chúa gồm tóm lại nơi bản thân ḿnh trời đất, thụ tạo và Tạo Hóa, xác thịt và Thần Linh. Người là tâm điểm của vũ trụ và của lịch sử, v́ trong Người qui tụ một cách rơ ràng tác giả và tác phẩm của ông” (40).

 

Chiều kích cánh chung của Lời Chúa

 

14.     Trong tất cả những điều ấy, Giáo Hội lên tiếng cho biết là Giáo Hội nhận thức rằng cùng với Chúa Giêsu Kitô Giáo Hội ở trước Lời Thiên Chúa tối hậu: Người là “nguyên khởi và là cùng tận” (Rev 1:17). Người đă cống hiến cho tạo vật và lịch sử ư nghĩa tối hậu của chúng; bởi vậy chúng ta được kêu gọi để sống trong thời gian cũng như trong việc tạo thành của Thiên Chúa theo nhịp điệu cánh chung của Lời này; “thế nên nhiệm cuộc Kitô giáo sẽ không bao giờ qua đi v́ nó là giao ước mới và vĩnh viễn; và không cần phải trông đợi một thứ mạc khải công khai mới nào nữa trước cuộc tỏ ḿnh hiển vinh của Chúa Giêsu Kitô” (cf. 1 Tim 6:14 and Tit 2:13) ” (41). Thật vậy, như các Nghị Phụ nhận định trong Thượng Nghị, “cái tính chất đặc thù chuyên nhất của Kitô giáo được bộc lộ nơi biến cố là Chúa Giêsu Kitô, tột đỉnh của mạc khải, tầm vóc trọn vẹn của những lời Thiên Chúa hứa và là Đấng Môi Giới cho cuộc gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. “Người, Đấng ‘đă tỏ Thiên Chúa ra’ (Jn 1:18), là Lời duy nhất tối hậu được ban cho loài người” (42) Thánh Gioan Thánh Giá đă diễn tả sự thật này một cách uy nghi như sau: “V́ Ngài đă ban cho chúng ta Con của ḿnh, Lời duy nhất của ḿnh (v́ Ngài không có một lời nào khác), Ngài đă nói hết mọi sự nơi Lời duy nhất này chỉ duy một lần – và Ngài đă không nói thêm ǵ nữa… v́ những ǵ Ngài nói trước đó cho các vị tiên tri một phần nào, th́ Ngài đă nói tất cả mọi sự một lần bằng việc ban cho chúng ta Tất Cả là Con của Ngài ấy. Bất cứ ai yêu cầu Thiên Chúa hay mong muốn một thị kiến hay mạc khải nào đó sẽ vấp phạm lỗi lầm, chẳng những v́ hành vi ngu muội mà c̣n v́ xúc phạm đến Ngài nữa, bởi không gắn bó ánh mắt của ḿnh hoàn toàn vào Chúa Kitô mà sống theo ước ao muốn có những ǵ mới mẻ khác nào đó” (43).

 

Bởi vậy, Thượng Nghị đă hướng tới nhu cầu cần “giúp cho tín hữu biết phân biệt Lời Chúa với các thứ mạc khải tư” (44) là những mạc khải đóng vai tṛ “không phải để ‘hoàn tất’ mạc khải tối hậu của Chúa Kitô mà là để nhớ chúng sống một cách trọn vẹn hơn ở một giai đoạn lịch sử nào đó” (45). Giá trị của các mạc khải tư theo yếu tính khác với các mạc khải của mạc khải công khai duy nhất: mạc khải công khai duy nhất đ̣i phải tin tưởng; nơi mạc khải này chính Thiên Chúa nói với chúng ta bằng các lời nói của loài người và qua trung gian của cộng đồng sống động Giáo Hội. Tiêu chuẩn để phán đoán sự thật của một mạc khải tư đó là hướng chiều của nó về chính Chúa Kitô. Nếu nó dẫn chúng tax a khỏi Người th́ nó chắc chắn không xuất phát từ Thánh Linh, Đấng dẫn chúng ta càng sâu xa tiến vào Phúc Âm hơn chứ không xa ĺa Phúc Âm. Mạc khải tư là một thứ trợ giúp cho đức tin này, và nó chứng tỏ tính chất khả tín của nó chính là ở chỗ nó qui về mạc khải công khai duy nhất. Việc chấp thuận của Giáo Hội đối với một mạc khải tư chính yếu có nghĩa là sứ điệp của nó không có ǵ phản lại với đức tin và luân lư; việc công khai phổ biến nó là những ǵ hợp lệ và tín hữu được cho phép gắn bó với nó một cách khôn ngoan. Một mạc khải tư có thể đề ra những ǵ cần phải nhấn mạnh mới mẻ, phát động những h́nh thức đạo đức mới, hay đi sâu hơn vào những h́nh thức đạo đức cũ. Nó có thể chất chứa một tính chất tiên tri nào đó (cf. 1 Th 5:19-21) và có thể trở thành một trợ giúp quí báu cho việc hiểu biết hơn và sống tốt hơn Phúc Âm ở một thời điểm nào đó; cho nên không được coi nhẹ nó. Nó là một trợ giúp được cống hiến nhưng không bắt buộc sử dụng nó. Dù sao nó cần phải là vấn đề nuôi dưỡng đức tin, đức cậy và đức mến, những ǵ là đường lối vĩnh viễn cho phần rỗi đối với hết mọi người (46).

 

Lời Chúa và Thánh Linh

 

15.     Sau khi suy tư về Lời Chúa sau cùng và vĩnh viễn đối với thế giới, giờ đây chúng ta cần phải đề cập đến sứ vụ của Thánh Linh đối với Lời thần linh. Thật vậy, không thể nào thấu hiểi thực sự mạc khải Kitô giáo nếu không có hoạt động của Vị Cố Vấn này. Điều này thích đáng ở chỗ việc thông đạt ḿnh của Thiên Chúa bao giờ cũng bao gồm mối liên hệ của Ngôi Con và Thánh Linh, những Đấng được Thánh Irenaues thành Lyon ám chỉ như là “hai bàn tay của Ngôi Cha” (47). Chính Thánh Kinh đă nói về sự hiện diện của Thánh Linh trong lịch sử cứu độ và đặc biệt là trong đời sống của Chúa Giêsu: Người đă được thụ thai bởi Trinh Nữ Maria bởi quyền phép Thánh Linh (cf. Mt 1:18; Lk 1:35); mở đầu cho sứ vụ công khai của ḿnh, trên bờ sống Dược Đăng (Jordan), Người thấy Thánh Thần xuống trên Người với h́nh con chim bồ câu (cf. Mt 3:16); với cùng vị Thần Linh này, Chúa Giêsu đă tác hành, nói năng và hoan hỉ (cf. Lk 10:21); và Người đă hy hiến bản thân ḿnh trong Vị Thần Linh này (cf. Heb 9:14). Khi sứ vụ của ḿnh đi đến hồi kết thúc, theo tŕnh thuật của Thánh Gioan, chính Chúa Giêsu hiển nhiên liên kết việc hiến mạng sống ḿnh với việc sai Thần Linh xuoông trên những ai thuộc về Người (cf. Jn 16:7). Chúa Giêsu Phục Sinh, mang trên thân xác của ḿnh những dấu hiệu của cuộc khổ nạn, bấy giờ tuôn ban Thần Linh của ḿnh (cf. Jn 20:22), làm cho các môn đệ của Người trở thành nhưữg người thông phần vào sứ vụ của Người (cf. Jn 20:21).  Thánh Thần cần phải dạy cho các môn đệ tất cả mọi sự và giúp cho các vị nhớ lại tất cả những ǵ Chúa Kitô đă nói (cf. Jn 14:26), v́ Ngài, là Thần Chân Lư (cf. Jn 15:26), sẽ dẫn các môn đệ vào tất cảsự thật (cf. Jn 16:13). Sau hết, trong cuốn Tông Vụ, chúng ta đọc thấy rằng Vị Thần Linh này đă ngự xuống trên Nhóm 12 đang hợp nhau nguyện cầu cùng Mẹ Maria trong ngày Lễ Ngũ Tuần  (cf. 2:1-4), và thúc bách họ đảm nhận sứ vụ loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi dân tộc (48). Bởi vậy, Lời Chúa được diễn đạt bằng ngôn từ loài người nhờ công việc của Thánh Linh. Những sứ vụ của Ngôi Con và Thánh Linh là những ǵ bất khả phân ly và tạo nên một công cuộc cứu độ duy nhất. Cũng Vị Thần Linh đă tác động nơi việc nhập thể của Lời ở cung ḷng của Trinh Nữ Maria là Vị Thần Linh hướng dẫn Chúa Giêsu suốt cả sứ vụ của Người và được hứa ban cho các môn đệ. Vị Thần Linh nói qua các tiên tri này nâng đỡ và tác động Giáo Hội trong công việc loan báo Lời Chúa của Giáo Hội cungũnhư trong việc rao giảng của các Tông Đồ; sau hết, chính vị Thần Linh này linh ứng cho các tác giả viết Sách Thánh.

 

16.     Nhận thức được chân trời về Thánh Linh này, các Nghị Phụ của Thượng Nghị đă nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hoạt động Thánh Linh trong đời sống của Giáo Hội cũng như trong cơi ḷng của thành phần tín hữu liên quan tới Thánh Kinh (49): không có công việc hieêu năng của “Thần Chân Lư” ( Jn 14:16), không thể nào hiểu được những lời của Chúa. Như Thánh Irenaeus nói: “Những ai không tham phần vào Thần Linh th́ không nhận được từ ḷng của mẹ ḿnh (Giáo Hội) lương thực sự sống; họ không lănh nhận được ǵ từ suối nguồn tinh tuyền nhất tuôn ra từ thân ḿnh của Chúa Kitô” (50). Như Lời Chúa đến với chúng ta nơi thân ḿnh của Chúa Kitô thế nào, nơi thân xác Thánh Thể của Người cũng như nơi thân ḿnh của Thánh Kinh, th́ nhờ hoạt động của Thánh Linh, Lời Chúa cũng chỉ có thể được lănh nhận và hiểu biết nhờ cùng Vị Thần Linh này mà thôi. Các vị đại trước tác của truyền thống Kitô giáo đă đồng nhất nói về vị thế của Thánh Linh trong mối liên hệ tín hữu cần phải có đối với Thánh Kinh. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng Thánh Kinh “cần mạc khải của Thần Linh, nhờ đó, bằng việc khám phá ra ư nghĩa thực sự của những ǵ được chất chứa trong đó, chúng ta mới có thể gặt hái được dồi dào ích lợi” (51). Thánh Giêrônimô cũng mạnh mẽ xác tín rằng “chúng ta không thể nào hiểu được Thánh Kinh nếu thiếu sự trợ giúp của Thánh Linh là Đấng đă linh ứng viết Thánh Kinh” (52). Thánh Grêgôriô Cả nhấn mạnh một cách đẹp đẽ rằng hoạt động của Vị Thần  Linh này trong việc h́nh thành và dẫn giải Thánh Kinh: “Chính Ngài đă tạo nên những lời của các Tân Ước thánh, th́ chính Ngài cũng tỏ ra cho biết ư nghĩa của chúng” (53). Richard of Saint Victor vạch ra rằng chúng ta cần “đôi mắt bồ câu”, được Thần Linh soi sáng và dạy dỗ, để hiểu sách thánh (54). Cả ở đây nữa, tôi muốn nhấn mạnh đến chứng từ rất quan trọng về mối liên hệ giữa Thánh Linh và Thánh Kinh, một mối liên hệ chúng ta thấy trong các bản văn phụng vụ, nơi Lời Chúa được công bố, lắng nghe và dẫn giải cho tín hữu. Chúng ta thấy được một chứng từ cho điều này nơi những kinh nguyện cổ xưa, những kinh nguyện theo h́nh thức của một lời kêu cầu Thần Linh trước khi công bố các bài đọc: “Xin hăy sai Thần Linh Cố Vấn vào ḷng của chúng con và làm cho chúng con hiểu được Thánh Kinh được Ngài linh ứng; và giúp con giải thích Thánh Kinh một cách xứng đáng, nhờ đó tín hữu qui tụ lại nơi đây được lợi ích bởi đó mà ra”. Chúng ta cũng thấy những lời cầu nguyện, ở cuối bài giảng, một lần nữa xin Thiên Chúa sai tặng ân Thần Linh xuống trên thành phần tín hữu: “Lạy Thiên Chuú là Đấng Cứu Độ của chúng con… cúng con van nài Chúa cho dan chúng đây: xin Chúa hăy sai Thánh Linh xuống trên họ; xin Chúa Giêsu hăy đến viếng thăm họ, nói với tâm trí của tất cả mọi người, dọn ḷng họ tin tưởng và dẫn linh hồn chúng con tới Chúa, Thiên Chúa của t́nh thương” (55). Điều này làm sáng tỏ vấn đề là chúng ta không thể hiểu được ư nghĩa của Lời Chúa trừ khi chúng ta cởi mở cho hoạt động của Đấng Cố Vấn trong Giáo Hội cũng như trong ḷng của các tín hữu.

 

Thánh Truyền và Thánh Kinh

 

17.      Trong việc tái khẳng định mối liên hệ sâu xa giữa Thánh Linh và Lời Chúa, chúng tôi cuũg đă đặt nền tảng cho việc hiểu biết về tầm quan trọng và giá trị quết liệt của Truyền Thống sống động và Thánh Kinh trong Giáo Hội. Thật vậy, v́ Thiên Chúa “quá yêu thương thế gian đến ban Con một của ḿnh” (Jn 3:16), mà Lời thần linh, được nói lên trong thời gian, được tuôn đổ xuống trên và “được trao phó” cho Giáo Hội một cách dứt khoát, nhờ đó việc loan báo ơn cứu độ có thể được truyền đạt một cách hiệu nghiệm ở mọi nơi và mọi lúc. Như Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum nhắc nhở chúng ta, cính Chúa Giêsu Kitô đă truyền cho các Tông Đồ rao giảng Phúc Âm – một phúc âm được hứa trước qua các vị tiên tri, được nên trọn nơi bản thân của Người và được khai mở bởi môi miệng của Người – cho tất cả mọi người như là nguồn mạch cho tất cả sự thật cứu độ và lề luật luân lư, thông đạt các tặng ân của Thiên Chúa cho họ. Điều này được trung thành tuân hành thực hiện; nó được thi hành bởi các vị Tông Đồ là thành phần truyền đạt, bằng việc rao giảng về ngôn từ, bằng gương lành của họ, bằng các chỉ thị của họ, những ǵ chính các vị được nhận lănh – hoặc từ môi miệng của Chúa Kitô, từ cách sống của Người cùng những việc làm của Người, hay bằng việc biết Phúc Âm nhờ Thánh Linh soi động; Phúc Âm được các Tông Đồ thi hành và các người liên hệ với các vị, thành phần, theo tác động của cùng Thánh Thần, đă đặt bút viết ra sứ điệp cứu độ “ (56).

 

Công Đồng Chung Vaticanô II cũnbg nói rằng Truyền Thống từ gốc gác tông đồ là một thực tại sống động và năng động: nó “phát triển trong Giáo Hội, nhờ ơn trợ giúp của Thánh Linh”; tuy nhiên không phải theo nghĩa là nó thay đổi ở sự thật của ḿnh, một sự thật vĩnh viễn. Trái lại, “đang phát triển về minh thức đối với những thực tại và những ngôn từ đang được truyền đạt”, nhờ việc chiêm ngắm và học hỏi, bằng thứ kiến thức có được bởi cảm nghiệm thiêng liêng sâu xa hơn cũng như bởi “việc rao giảng của những vị thừa kế vai tṛ giám mục đă nhận được đặc sủng vững chắc về sự thật” (57).

 

Truyền Thống sống động là những ǵ thiết yếu giúp Giáo Hội có thể phát triển qua gịng thời gian nơi việc hiểu biết chân lư được mạc khải trong Thánh Kinh; thật vậy, “nhờ cùng thánh truyền ấy mà Giáo Hội biết được toàn thể sổ bộ các sách thánh và chính các Sách Thánh được hiểu thấu đáo hơn và liên lỉ mang lại hiệu quả trong Giáo Hội” (58). Sau hết, chính Truyền Thống sống động của Giáo Hội là những ǵ làm cho chúng ta hiểu được một cách thỏa đáng Thánh Kinh như là Lời Chúa. Mặc dù Lời Chúa có trước và vượt hơn Thánh Kinh, tuy nhiên Thánh Kinh, được Thiên Chúa linh ứng, lăi chất chứa Lời thần linh (cf. 2 Tim 3:16) “một cac1h hoàn toàn chuyên biệt” (59).

 

18.      Bởi vậy, chúng ta rơ ràng thấy được đối với Dân Chúa cần phải được giảng dạy và huấn luyện thích đáng ra sao trong việc tiến tới với Thánh Kinh liên quan với Truyền Thống sống động của Giáo Hội, cũng như trong việc nhận thấy nơi Sách Thánh chính Lời Chúa. Vấn đề duy tŕ việc tiến tới ấy nơi tín hữu là những ǵ rất quan trọng theo quan điểm của đời sống thiêng liêng. Ở đây, cũng cần nhắc lại việc suy loại được các Giáo Phụ của Giáo Hội nêu lên giữa Lời Chúa đă hóa thành “nhục thể” và lời trở thành một “cuốn sách” (60) Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum tiếp tục truyền thống cổ này, một truyền thống chủ trương, như Thánh Ambrose nói (61) rằng “thân ḿnh của Con là Thánh Kinh chúng ta đă lănh nhận”, và tuyên bố rằng “những lời nói của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, rất giống như ngôn từ của loài người, như lời của Cha hằng hữu, khi Người mặc lấy xác thịt yếu hèn của con người đă trở nên như họ” (62). Khi hiểu như thế, Thánh Kinh hiện lên cho chúng ta như là một thực tại duy nhất qua nhiều h́nh thức và nội dung khác nhau của ḿnh” (64).

 

Tóm lại, nhờ hoạt động của Thánh Linh và theo hướng dẫn của huấn quyền, Giáo Hội truyền đạt cho mọi thế hệ tất cả những ǵ đă được mạc khải nơi Chúa Kitô. Giáo Hội sống với niềm tin tưởng rằng Chúa của ḿnh, Đấng đă nói trong quá khứ, ngày nay tiếp tục truyền đạt lời của ḿnh nơi Truyền Thống sống động cũng như nơi Thánh Kinh. Thật vậy, Lời Chúa được ban cho chúng ta trong Thánh Kinh như là một chứng từ linh ứng về mạc khải; cùng với Truyền Thống sống động của Giáo Hội, Lời Chúa tạo nên qui luật tối cao của đức tin (65).

 

Thánh Kinh, linh ứng và sự thật

 

19.      Ư niệm chính để hiểu bản văn thánh như là Lời Chúa theo ngôn từ loài người chắc chắn phải là ư niệm về việc linh ứng. Cả ở đây nữa chúng tôi đề nghị một thứ loại suy: như Lời Chúa hóa thành nhục thể bởi quyền phép Thánh Linh nơi cung ḷng Trinh Nữ Maria thế nào th́ Thánh Kinh cũng xuất phát từ ḷng Giáo Hội bởi quyền năng của cùng vị Thần Linh. Thánh Kinh là “Lời Chúa được viết xuống theo ơn linh ứng của Thánh Linh” (66). Như thế người ta thấy được tất cả tầm quan trọng của vị tác giả loài người, vị đă viết ra các bản văn linh thánh, và đồng thời, chính Thiên Chúa là vị tác giả đích thực.

 

Như các Nghị Phụ của Thượng Nghị đă khẳng định, đề tài linh ứng hiển nhiên là nhuưng ǵ quan trọng để thích đáng tiến đến với Thánh Kinh và việc đ1ng da918n dẫn giải Thánh Kinh (67), một việc dẫn giải, về phần ḿnh, được thực hiện trong cùng một Thần Linh là Đấng linh ứng viết ra các sách thánh (68). Bất cứ khi nào tầm nhận thức của chúng ta về việc linh ứng của Thánh Kinh trở nên yếu kém th́ cúng ta có nguy cơ đọc Thánh Kinh như là một đối tượng của vấn đề ṭ ṃ về lịch sử chứ không c̣n là công việc của Thánh Linh để chúng ta có thể nghe thấy chính Chúa nói và nhận thấy Ngài hiện diện trong lịch sử.

 

Các Nghị Phụ của Thượng Nghị cũng nhấn mạnh đến mối iên hệ giữa đề tài linh ứng và đề tài về sự thật của Thánh Kinh (69). Chắc chắn việc nghiên cứu sâu xa hơn về tiến tŕnh linh ứng sẽ giúp hiểu biết hơn về sự thật được chất chứa nơi các sách thánh. Như giáo huấn của Công Đồng nói về vấn đề này th́ các sách được linh ứng giảng dạy sự thật: “bởi thế, v́ tất cả được các vị tác giả thánh, hay các vị trước tác thánh, khẳng định đều cần phải được coi như Thánh Linh khẳng định, mà chúng ta cần phải công nhận rằng các cuốn sách Thánh Kinh mạnh mẽ, trung thành và vô ngộ dạy rằng sự thật mà, v́ phần rỗi của chúng ta, Thiên Chúa muốn thấy được kư thác cho Thánh Kinh. Bởi vậy, ‘tất cả thánh kinh được Thiên Chúa linh ứng và hữu ích để giảng dạy, để sửa bảo, để sửa chữa và để huấn luyện trong chính trực, nhờ đó con người của Thiên Chúa được thành thạo, trang bị để làm hết mọi việc lành’ (2 Tim 3:16-17, Greek)” (70). Thực sự th́ việc suy tư thần học bao giờ cũng coi vấn đề linh ứng và sự thật như hai quan niệm chính đói với một thứ giải thịch của Giáo Hội về Thánh Kinh. Tuy nhiên, người ta cần phải nhận thấy nhu cầu cần phải giải thích các sách thánh theo bản chất của các bản văn này. Ở đây tôi muốn bày tỏ niềm hy vọng thiết tha của tôi trong việc muốn thấy việc nghiên cứu về lănh vực này sẽ được phát triển và sinh hoa kết trái cho cả khoa thánh kinh lẫn cho đời sống thiêng liêng của tín hữu. 

 

Thiên Chúa Ngôi Cha là nguồn mạch và nguồn gốc của Lời

20.      Công cuộc mạc khải được bắt đầu và bắt nguồn nơi Thiên Chúa Ngôi Cha. Bởi lời của Ngài mà “các tầng trời đă được tạo thành và tất cả mọi cơ ngũ của chúng đều do hơi thở của miệng Ngài” (Ps 33:6). Chính Ngài đă Đấng đă ban cho chúng ta “ánh sáng hiểu biết về vinh quang của Thiên Chúa nơi dung nhan của Chúa Kitô” (2 Cor 4:6; cf. Mt 16:17; Lk 9:29). Nơi Ngôi Con, “Lời đă hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), Đấng đă đến để hoàn tất ư muốn của Đấng đă sai Người (cf Jn 4:34), Thiên Chúa, nguồn mạch mạc khải, đă tỏ ḿnh ra là Cha và hoàn thành việc sư phạm thần linh là những ǵ đă từng được thi hành qua lời của các vị tiên tri cùng với các việc kỳ diệu được thực hiện nơi việc tạo thành cũng như trong lịch sử của dân Ngài và toàn thể nhân loại. Mạc khải của Thiên Chúa Ngôi Cha lên đến tột đỉnh nơi tặng ân Đấng Cố Vấn của Ngôi Con (cf Jn 14:16) là Vị Thần Linh của Ngôi Cha và Ngôi Con, Đấng dẫn chúng ta “vào tất cả sự thật” (Jn 16:13). Tất cả mọi lời hứa của Thiên Chúa đều thấy “ứng nghiệm” nơi Chúa Giêsu Kitô  (cf. 2 Cor 1:20). Nhờ thế con người nam nữ có thể bắt đầu tiến bước đến cùng Cha (cf Jn 14:6), nhờ đó, cuối cùng “Thiên Chúa trở nên tất cả cho mọi người” (1Cor 15:28).  

21.     Như thập giá của Chúa Kitô cho thấy Tiên Chúa cũng nói bằng cả việc thinh lặng của Ngaà nữa. Việc thinh lặng của Thiên Chúa, cảm nghiệm xa cách Ngôi Cha toàn năng, là một giai đoạn quan troọg trong cuộc hành tŕnh trần thế của Thieê Chúa Ngôi Con, Loơi nhập thể. Bị teo trên cây thập tự giá, Người đă than van đau đớn gây ra bởi cái thinh lặng ấy: “Chúa Trời con ơi, Chúa Tro2iơcon ơi, nhân sao Chúa lại bỏ rơi con?” (Mk 15:34; Mt 27:46). Tiến bước trong đức tuân phục cho tới hơi thở cuối cùng của ḿnh, trong t́nh trạng tăm tối của chết chóc, Chúa Giêsu đă kêu lên cùng Cha. Người đă phó thác ḿnh cho Ngài ở giây phút vượt qua sự chết mà vào sự sống đời đời: “Lạy Cha, con xin phó thần trí Con trong tay Cha” (Lk 23:46). Cảm nghiệm này của Chúa Giêsu phản ảnh t́nh trạng của tất cả những ai, v́ nghe và nhận biết lời của Thiên Chúa, cũng phải đương đầu với việc thinh lặng của Ngài. Đó từng là cảm nghiệm của vô số các vị thánh và thần bí gia, và thậm chí cho đến ngày nay là một phần trong cuộc hành tŕnh của nhiều tín hữu. Việc thinh lặng của Thiên Chúa kéo dài những lời nói trước kia của Ngài. Trong những lúc tăm tối như vậy, Ngài nói băèg mầu nhiệm tinh lặng của Ngài. Bởi thế, theo đường lối của mạc khải Kitô giáo th́ thinh lặng là một thể hiện quan trọng của Lời Chúa.