Con Người: Trái Cấm Thời Đại
Khi
choáng váng rất dễ bị mất thăng bằng và gục ngã. Bị choáng váng, con
người không còn biết mình và làm chủ được mình.
Cũng
thế, ngày nay cơ cấu nồng cốt của xã hội loài người là gia đình đang
băng hoại. Bởi vì, thành phần căn bản làm nên gia đình là người nam
và người nữ, trong vai trò làm vợ, làm chồng, đang choáng váng với
đà tiến triển của xã hội mỗi ngày một tăng gia tốc độ theo chiều
hướng vô thần và duy vật, qua chủ nghĩa cá nhân và trào lưu hưởng
thụ.
Hiện
tượng ly dị và phá thai, (mà các nước càng văn minh tân tiến càng
thịnh hành khi họ bắt đầu hợp pháp hóa chúng), không phải là những
trái cấm thời đại, thử thách các phần tử chủ chốt trong gia đình, cơ
cấu căn bản làm nên xã hội, và một số, bị choáng váng quay cuồng với
chủ nghĩa cá nhân và trào lưu hưởng thụ ngày nay, đã giơ tay hái, ăn
và nuốt đi một cách ngon lành.
Hiện
tượng ly dị và phá thai không phải là thực tại của và biểu hiệu cho
chủ nghĩa cá nhân và trào lưu hưởng thụ ngày nay hay sao?
Phải
nói rằng cá nhân chủ nghĩa và trào lưu hưởng thụ ngày nay chính là
một cơn bão lốc (tornado), một cơn bão lốc yêu thương, làm khủng
hoảng cả xã hội loài người, tàn phá bao nhiêu sinh mạng con người vô
tội, và làm rung động đến tận nền móng lâu đài văn hóa nhân loại,
một công trình đã được cả loài người dầy công xây dựng qua biết bao
ngàn năm mới được.
Bản
chất của yêu thương là sự sống, khuynh hướng của yêu thương là hiệp
nhất, và tác dụng của yêu thương là sáng tạo, chứ không có tính cách
hung tàn đầy chết chóc và toàn hủy diệt như bây giờ.
Cũng
bởi yêu thương có tính cách hung tàn đầy chết chóc và toàn hủy diệt
mà hiện tượng yêu thương ngày nay mới là một cuộc khủng hoảng, mới
trở nên một cơn bão lốc, mới mất đi bản chất và khuynh hướng chân
thật và trọn lành của mình.
Thật
ra, yêu thương có tính cách hung tàn đầy chết chóc và toàn hủy diệt
như vậy, trái ngược lại với bản chất và khuynh hướng chân thật và
trọn lành của nó, thì không phải là yêu thương và không đáng gọi là
yêu thương.
Thánh
Kinh Kitô giáo định tín: Thiên Chúa là Tình Yêu (1Gioan 4:8,16), tức
là một Thực Tại Tuyệt Đối Vô
Cùng
Toàn Chân-Thiện-Mỹ.
Do đó,
yêu thương có tính cách Thần Linh (và phát xuất từ Thiên Chúa), và
thánh hảo (và phản ảnh Thiên Chúa), mới chân thực và trọn lành.
Con Người: Hiện Thân Sống Động
Vì con
người không phải là tình yêu như Thiên Chúa, muốn yêu thương chân
thực và trọn lành như Thiên Chúa là Tình Yêu, cần phải do Ngài linh
ứng và tác động cho mới được.
Lá cây
không thể nào tự mình rung động nếu không có gió thế nào, con người
cũng thể nào yêu thương nếu không được Thiên Chúa là Tình Yêu linh
động như vậy.
Hiện
tượng rung động của lá cây chứng tỏ sự hiện diện vô hình song thực
sự của gió thế nào, tác động yêu thương chân thực và trọn lành của
con người cũng chứng tỏ sự hiện diện Thần Linh thực sự của Thiên
Chúa là
Tình
Yêu trên thế gian này như vậy.
Tuy
nhiên, để làm một việc gì, theo định luật tự nhiên, tạo vật phải có
bản tính và khả năng xứng hợp.
Chẳng
hạn, loài thực vật không thể làm những việc đòi hỏi theo bản năng
như loài động vật. Hay, loài động vật không thể làm những việc đòi
hỏi theo lương tri như loài người.
Cũng
thế, loài người không thể làm những việc yêu thương chân thật và
trọn lành như Thiên Chúa.
Thế mà,
trên thực tế, quả thực con người trần gian có những hành động làm
nên nhân đức yêu thương chân thật và trọn lành, vượt trên bản tính
tự nhiên vị kỷ và bản năng sống còn của mình, thì phải quả quyết là
họ chắc chắn có khả năng đón nhận Tình Yêu Thiên Chúa và khả năng
đáp ứng Tình Yêu của Ngài, như lá trên cây vừa có khả năng đón nhận
gió vừa có khả năng lay động theo gió.
Sở dĩ
con người có khả năng đón nhận và đáp ứng Tình Yêu Thiên Chúa này là
vì thân phận có tính cách thần linh của họ, thân phận là hình ảnh
yêu thương, tức là hình ảnh Thiên Chúa. Và cũng chỉ khi nào thực sự
ý
thức
được thân phận cao trọng và linh thiêng này của mình, con người mới
có thể hoàn toàn sống một cách xứng đáng mà thôi.
Thế
nhưng, con người khám phá được mình là hình ảnh Thiên Chúa không
phải từ kinh nghiệm bản thân cho bằng tư chính mạc khải của Thiên
Chúa.
Trong
các cuốn Sách Thánh của các Đạo giáo chính yếu trên thế giới, người
ta đã tìm thấy nguồn gốc, thân phận và sứ mệnh cao cả hoàn toàn linh
thiêng của mình nơi cuốn Khởi Nguyên của Do Thái giáo cũng là của
Kitô giáo.
Trước
hết, cuốn Thánh Kinh đầu tiên của Do Thái giáo cũng như Kitô giáo
mang tên Khởi Nguyên đã ghi
chép
lại ý định rõ ràng của Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu, Nguyên
Lý Đệ Nhất, sau khi đã dựng nên mọi sự rồi, cuối cùng, trước khi
dựng nên loài người, Ngài phán:
Chúng
ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh của chúng ta, tương tự như
chúng ta. (Khởi Nguyên 1:26).
Con Người: Hình Ảnh Thần Linh
Không
cần phải có tín ngưỡng người ta mới tin Thiên Chúa là Đấng vô hình.
Các đạo, dù chủ trương độc thần hay đa thần, cũng đều tin có thần
linh cao cả, vô hình, linh thiêng, toàn năng, toàn hảo v.v. Thánh
Kinh Tân Ước của Kitô giáo đã ghi rõ lời minh định của Đức Kitô:
Thiên Chúa là Thần Linh (Gioan 4:24).
Nếu
Thiên Chúa là thần linh và vô hình như vậy thì làm sao có hình ảnh
hay chụp được hình ảnh của Ngài một cách cụ thể như người ta chụp
hình của một vật hữu hình nào đó. Bởi vậy, hình ảnh Thiên Chúa, nếu
thực sự có, phải là một mạc khải thần linh về Thiên Chúa, do chính
Thiên Chúa tỏ mình ra, bằng một cách thế nào đó, xứng hợp với ưu
phẩm toàn tri và toàn năng của Ngài.
Thánh
Kinh Tân Ước của Kitô giáo đã xác nhận và minh chứng mạc khải thần
linh này như sau:
Chúng
tôi loan truyền cho anh em sự sống đời đời, đã có nơi Chúa Cha và đã
trở nên hữu hình cho chúng ta. (1Gioan 1:2).
Sự
sống đời đời đã có nơi Chúa Cha và đã trở nên hữu hình cho chúng ta
đây là gì?
Cũng
trong cùng một bản văn trên, vấn đề được xác định như sau:
Thiên
Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống này ở nơi Con
của Ngài. Ai có Con là có sự sống đời đời, ai không có Con Thiên
Chúa thì không có sự sống đời đời. (1Gioan 5:11-12).
Vậy,
Con Thiên Chúa đây chính là hình ảnh Thiên Chúa, đúng như một số bản
văn khác trong bộ Thánh Kinh Tân Ước của Kitô giáo đã xác quyết:
Người
là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Côlôsê 1:15).
Người
Con này là phản ảnh vinh hiển Cha, là hiện thân đích thực của hữu
thể Cha (Do Thái 1:3).
Lời
đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, chúng ta đã được thấy vinh
hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân
sủng và chân lý (Gioan 1:14).
Thế
nhưng, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể là hình ảnh Thiên
Chúa vô hình ở chỗ nào?
Nếu
Thiên Chúa là Tình Yêu thì Đức Giêsu Kitô, hình ảnh của Thiên Chúa
vô hình, phải là hiện thân đích thực của Tình Yêu.
Thật
vậy, nếu Thiên Chúa là Tình Yêu, như Thánh Kinh Tân Ước của Kitô
giáo nhắc lại lời của chính Đức Giêsu Kitô, yêu thế gian đến ban Con
Một Mình để ai tin Con sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời
(Gioan 3:16), thì Đức Giêsu Kitô, hiện thân đích thực của Tình Yêu,
như Người minh xác:
Đến
không phải để được hầu hạ, song là để hầu hạ, để hiến mạng sống mình
làm giá chuộc cho nhiều người (Mathêu 20:28).
Thiên
Chúa là Tình Yêu và Đức Giêsu Kitô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
hiện thân đích thực của Tình Yêu, theo các đoạn Thánh Kinh Tân Ước
của Kitô giáo khác, có thể được tóm lại như sau:
Tình
yêu của Thiên Chúa đã tỏ ra giữa chúng ta ở chỗ, Ngài đã sai Con Một
Ngài đến thế gian để chúng ta được sống nhờ Người... Cách chúng ta
nhận ra tình yêu là Người đã hiến mạng sống mình cho chúng ta.
(1Gioan 4:9;3:16).
Thiên
Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta ở chỗ, trong khi
chúng ta còn là những tội nhân thì Đức Kitô đã chết cho chúng ta. (Rôma
5:8).Như thế, Đức Giêsu Kitô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình. Con
người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa tức là con người được
dựng nên giống như Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể.
Bởi đó,
Đức Giêsu Kitô sẽ là mô phạm tối cao duy nhất của con người và cho
con người sống trên thế gian này. Nếu con người không sống mô phỏng
đúng theo gương mẫu đã được Đấng Tạo Hóa phác họa ra cho mình này,
họ sẽ không bao giờ sống thực với bản thân họ, sống bình an ở đời
này và vĩnh phúc đời sau, đúng như lời Người phán:
Ta là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không
qua Ta. (Gioan 14:6).
Tiếp
đến, Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa ban cho thế
gian, tức là Ân Sủng, là Hồng
Ân mà
Thiên Chúa là Tình Yêu đã ban cho thế gian.
Con
người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa tức là con người được
dựng nên bởi Tình Yêu Thiên Chúa, nói cách khác, con người được dựng
nên bởi Thiên Chúa yêu con người trong chính mình Ngài là Đức Giêsu
Kitô, Con Một của Ngài.
Bởi
đó, trong Đức Giêsu Kitô, con người không được dựng nên như là một
tạo vật thuần túy mà là được dựng nên như một người con Thiên Chúa
và để làm con Thiên Chúa.
Chính
vì đặc ân được làm con Thiên Chúa, tức được thông phần bản tính của
Thiên Chúa, được tham dự vào sự sống Thần Linh của Thiên Chúa mà con
người, như sách Khởi Nguyên trong bộ Thánh Kinh của Do Thái Giáo
diễn thuật, được Thiên Chúa thở hơi, biểu hiệu sự sống của Ngài, vào
hình tượng làm người được dựng nên bởi bùn đất của họ (xem Khởi
Nguyên 2:7).
Người
Công Giáo đã có lý khi long trọng phát biểu đức tin của mình:
Tôi
tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.
Đức
Giêsu Kitô, hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là hiện thân đích thực của
Tình Yêu Thiên Chúa tỏ ra cho thế gian. Con người được dựng nên theo
hình ảnh Thiên Chúa tức là con người được dựng nên để yêu thương
nhau như anh chị em cùng một Cha trên trời được Ngài yêu thương
trong Đức Giêsu Kitô, Đấng mà Thánh Kinh Tân Ước của Kitô giáo gọi
là:
Anh
Trưởng của một đàn em đông đúc (Rôma 8:29).
Bởi đó,
Đạo mà Đức Giêsu Kitô dạy con người là Đạo Yêu Thương. Theo đạo lý
yêu thương của Đấng Sáng Lập Kitô giáo, con người phải yêu thương
nhau vô giới hạn không trừ ai.
Đức
Giêsu Kitô đã dạy con người yêu thương nhau vô giới hạn:
Ai
tát các con má bên này, hãy chìa cả má bên kia cho họ. Ai đoạt áo
ngoài của các con, hãy lột cả áo trong cho họ. Ai xin các con, hãy
cho họ. Ai lấy gì của các con, đừng đòi lại. (Luca 6:29-30)
Người
dạy con người yêu thương nhau vô giới hạn không trừ ai:
Hãy
yêu thương kẻ thù mình, làm lành cho kẻ ghen ghét các con, chúc phúc
cho kẻ nguyền rủa các con và cầu nguyện cho kẻ bạc đãi các con.
(Luca 6:27-28).
Mục
đích yêu thương chính yếu Người đặt ra cho con người là:
Làm
như thế (yêu kẻ thù) là để chứng tỏ các con là con cái của Cha các
con ở trên trời, Đấng làm nắng lên cho cả kẻ dữ và người lành cũng
như làm mưa xuống cho cả người công chính lẫn kẻ bất chính. (Mathêu
5:45).
Tiêu
chuẩn yêu thương tối hậu Đức Giêsu Kitô dạy con người là:
Các
con phải nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành (Mathêu
5:48), tức là Hãy xót thương như Cha các con thương xót. (Luca
6:36).
Đường
lối yêu thương trọn hảo để đạt tới tiêu chuẩn yêu thương tối hậu này
là:
Thày
yêu các con thế nào, các con hãy yêu nhau như vậy. (Gioan 13:34),
Hãy
yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con (Gioan 15:12).
Thày
đã yêu thương các con như thế nào, Người đã tiếp ngay sau đó:
Không
có tình yêu nào vĩ đại hơn là hiến mạng sống mình và bạn hữu (Gioan
15:13), như chính Người đã nói và đã làm:
Ta là
mục tử tốt lành; mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì chiên. (Gioan
10:11).
Yêu
thương ở đời này sẽ trở nên vĩnh phúc cho đời sau:
Hãy
đến. Hỡi các kẻ được Cha Ta chúc phúc! Hãy thừa hưởng vương quốc đã
dọn sẵn cho các ngươi từ khi tạo thành thế gian. Vì Ta đói các ngươi
đã cho Ta ăn, Ta khát các ngươi đã cho Ta uống. Ta là lữ khách các
con đã tiếp đãi Ta. Ta ở trần các con đã cho Ta mặc. Ta bệnh tật các
con đã ủi an Ta, bị tù ngục, các con đã đến viếng thăm Ta... Bao lâu
các con làm như thế cho một trong những người anh em hèn mọn nhất
của Ta là các con làm cho chính Ta. (Mathêu 25:34-36,40).
Phải,
phẩm giá của con người không phải ở tại nguyên bản tính linh ư vạn
vật của mình, cho bằng ở tại họ được dựng nên theo hình ảnh Thiên
Chúa, tức được thông phần bản tính và sự sống thần linh của Thiên
Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô.
Trong
Đức Giêsu Kitô, con người được Thiên Chúa yêu thương, được thần linh
hóa, đến nỗi, con người làm ơn cho nhau là làm cho chính Đức Kitô,
hay ngược lại, con người xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến chính Đức
Kitô.