Giáo Hội Tại Gia - Dẫn Nhập

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 513 Thứ Sáu 9/7/2010

 

 

Gia đ́nh: Dự án Thần Linh - Ư nghĩa đích thực

 

Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, chưa bao giờ cơ cấu gia đ́nh được cấu tạo bởi hôn nhân lại trở thành vừa là một nạn nhân vừa là một tai họa cho xă hội như vậy. Gia đ́nh là nạn nhân của xă hội v́ gia đ́nh trở thành mục tiêu tấn công của nền văn hóa sự chết. Gia đ́nh là tai họa cho xă hội v́ cá nhân chủ nghĩa đă càng ngày càng tạo nên những đứa con mồ côi bất đắc dĩ từ các cuộc ly dị, thậm chí đă pro choice đến độ muốn tự hủy diệt ḿnh đi bằng những cuộc phá thai, có nơi số sinh c̣n thấp hơn số tử. 

 

Nguyên nhân sâu xa gây ra t́nh trạng khủng hoảng gia đ́nh hầu như bất khả cứu văn theo tự nhiên như thế là v́ gia đ́nh đă bị mất đi ư nghĩa và giá trị đích thực của nó theo dự án thần linh về nó. Thậm chí gia đ́nh trong thế giới văn minh hầu như tuyệt đỉnh ngày nay về vật chất, nhất là về nhân bản, c̣n trở thành méo mó dị dạng với những cuộc hôn nhân đồng tính. Để phần nào có thể cứu văn t́nh thế, ít là từng gia đ́nh hay một nhóm gia đ́nh, chúng ta cần phải cùng nhau tái nhận thức ư nghĩa và giá trị đích thực của gia đ́nh theo dự án thần linh của Thiên Chúa về nó.

 

Vậy, đâu là ư nghĩa và giá trị đích thực của gia đ́nh theo dự án thần linh, nếu không phải “gia đ́nh – giáo hội tại gia”? Nếu thực sự “gia đ́nh – giáo hội tại gia” th́ gia đ́nh vĩnh viễn sẽ không c̣n là nạn nhân và là tai họa cho xă hội nữa, trái lại, gia đ́nh sẽ trở thành muối đất men bột, giữ cho thế gian khỏi bị hư hoại mà c̣n làm cho xă hội được trở thành một đại gia đ́nh đúng như Thiên Chúa Hóa Công mong muốn khi dựng nên con người.

 

Gia đ́nh – giáo hội tại gia”, một câu nói nghe quen, dường như đă trở nên một thành ngữ. Thế nhưng, nó lại là một câu định nghĩa về gia đ́nh rất chính xác và sâu xa, v́ nó liên quan đến mạc khải thần linh về gia đ́nh và dự án thần linh về gia đ́nh, cần phải được t́m hiểu cho tường tận, để có thể sống trọn bản chất mầu nhiệm của gia đ́nh và ơn gọi cao cả của gia đ́nh. Trong cuốn Toát Lược Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo ở số 350, Giáo Hội đă định nghĩa về thành ngữ và ư nghĩa “Giáo Hội Tại Gia”  nguyên văn như thế này:

 

Gia đ́nh Kitô hữu được gọi là giáo hội tại gia v́ gia đ́nh biểu lộ và sống bản chất cộng đồng và gia đ́nh của một Giáo Hội là gia đ́nh của Chúa. Tùy theo vai tṛ của ḿnh, mỗi một phần tử trong gia đ́nh thực thi vai tṛ linh mục phổ quát và góp phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân sủng và nguyện cầu, một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo, và là một nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái”.

 

Câu định nghĩa chính thức của Giáo Hội về Gia Đ́nh là Giáo Hội Tại Gia hay được gọi là Giáo Hội Tại Gia hoặc Giáo Hội thu nhỏ này cần được cùng nhau t́m hiểu để nhờ đó gia đ́nh Kitô hữu chúng ta có thể sống đúng ư nghĩa của gia đ́nh theo giáo huấn của Giáo Hội và dự án thần linh của Thiên Chúa trong thế giới càng văn minh càng bạo loạn ngày nay.

 

Đúng thế, theo dự án thần linh, ngay từ ban đầu, Thiên Chúa Hóa Công muốn tạo dựng nên con người theo h́nh ảnh Ngài và tương tự như Ngài là một Cộng Đồng Thần Linh “chúng ta” (Gen 1:21). Thế rồi, theo mạc khải thần linh của Ngài qua gịng lịch sử, từ Cựu Ước đến Tân Ước, Ngài đă từ từ cho thấy rơ ư định của Ngài muốn qui tụ tất cả loài người lại nơi Chúa Kitô là trưởng tử của một đàn em đông đúc, “là đầu của thân thể Người là Giáo Hội” (Col 1:18).

 

Giáo Hội Chúa Kitô, tuy nhiên, không phải chỉ là một cộng đồng thuần túy về h́nh thức, giống như một tổ chức xă hội trần thế, mà là một gia đ́nh thiêng liêng, tức một “Cộng Đồng Yêu Thương và Sự Sống” (Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, 1669), trung thực và sống động phản ảnh Cộng Đồng Thần Linh “chúng ta” nơi Thiên Chúa. Đó là lư do, ngay từ ban đầu, con người đă được dựng nên “có nam có nữ” (Gen 1:27), để có thể yêu thương và nên một với nhau (x. Gen 1:24), trở thành một Cộng Đồng Yêu Thương và Sự Sống. 

 

Thế nhưng, nói đến gia đ́nh là nói đến một liên hệ ruột thịt. Vậy đâu là mối liên hệ “ruột thịt” trong “Giáo Hội là Gia đ́nh của Chúa”? Trong câu giáo lư 350 của cuốn Toát Yếu Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, sau khi cho biết lư do tại sao “gia đ́nh được gọi là giáo hội tại gia”, Giáo Hội đă cho biết mối liên hệ “ruột thịt” nơi “gia đ́nh được gọi là giáo hội tại gia” này, đó là mối liên hệ hoàn toàn thiêng liêng, liên quan tới phép rửa và chức linh mục phổ quát bởi phép rửa mà có: “Tùy theo vai tṛ của ḿnh, mỗi một phần tử trong gia đ́nh thực thi vai tṛ linh mục phổ quát…”.

 

Và chính nhờ sống với nhau bằng mối liên hệ “ruột thịt” thiêng liêng theo vai tṛ linh mục phổ quát bởi phép rửa này mà các phần tử trong “gia đ́nh được gọi là giáo hội tại gia” mới có thể, như Giáo Hội dạy ngay sau đó rằng: “góp phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân sủng và nguyện cầu, một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo, và là một nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái”.

 

Như thế, nếu không sống theo t́nh nghĩa thiêng liêng này, t́nh nghĩa của những con người đă được phép rửa thánh hiến để trở thành những vị thánh, với vai tṛ tư tế phổ quát, không một gia đ́nh nào có thể trở thành “một cộng đồng ân sủng và nguyện cầu, một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo, và là một nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái”.

 

Đó là lư do, ngay trong câu giải thích “tại sao gia đ́nh được gọi là giáo hội tại gia”, Giáo Hội đă nhấn mạnh về hai khía cạnh nhờ đó “gia đ́nh” mới có thể thực sự “được gọi là giáo hội tại gia”, đó là khía cạnh chẳng những “biểu lộ” mà c̣n “sống – live out” (hay “hiện thực”) nữa… Nhưng, “biểu lộ” những ǵ và “sống” những ǵ để “gia đ́nh được gọi là giáo hội tại gia”? Giáo Hội cho biết đó là “biểu lộ và hiện thực” “bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”.

 

Thật vậy, nhờ bí tích hôn phối, tức nhờ được thánh hiến trong “mầu nhiệm cao cả … liên quan tới Chúa Kitô và Giáo Hội” (Eph 5:32), mà gia đ́nh Kitô giáo, theo nguyên tắc và về lư thuyết, đă thực sự “biểu lộ” những ǵ được gọi là “bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”. Thế nhưng, thực tế cho thấy, ít gia đ́nh nào, sau khi đă được h́nh thành bởi bí tích hôn phối, đă “sống” trọn hay “hiện thực” được “bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”, nhờ đó xứng đáng “được gọi là giáo hội tại gia”.

 

Bởi thế, vấn đề thực tế hết sức cụ thể và quan trọng được đặt ra ở đây là làm thế nào để gia đ́nh Kitô hữu có thể: 1)hiện thực bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”, nhờ đó gia đ́nh của họ trung thực và sống động trở thành: 2) một cộng đồng ân sủng và nguyện cầu - liên quan tới đời sống phụng vụ và nội tâm, 3) “một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo - liên quan tới đời sống luân lư và tu đức, 4) một nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái - liên quan tới việc tông đồ và truyền giáo.

 

“Gia đ́nh – hiện thực bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”

 

Trước hết, vấn đề đầu tiên hết sức quan trọng cần phải lưu ư và được đặt ra ở đây là tại sao Sách Toát Yếu Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo khoản 350 về lư do “tại sao gia đ́nh được gọi là giáo hội tại gia” không chỉ nói đến “bản chất cộng đồng của Giáo Hội” hay “bản chất gia đ́nh của Giáo Hội” mà lại nói “bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”. “Gia đ́nh” chẳng phải là một “cộng đồng” hay sao? Phải, chính ở chỗ này chúng ta mới thấy được cái then chốt của vấn đề được đặt ra. Đó là lư do, ngay sau câu “gia đ́nh là biểu lộ và hiện thực bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”, Sách Toát Yếu Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo liền thêm, “là gia đ́nh của Chúa”.

 

Đúng thế, “Giáo Hội là gia đ́nh của Chúa”, chứ không phải chỉ là một “cộng đồng”, một tổ chức có tính cách thuần túy xă hội. Giáo Hội, về h́nh thức, quả thực là một “cộng đồng”, là một tổ chức bao gồm nhiều phần tử khác nhau, thuộc mọi ngôn ngữ, văn hóa và dân tộc trên thế giới, có cơ cấu quản trị và quyền bính, có luật lệ và điều kiện gia nhập.  Tuy nhiên, chính điều kiện gia nhập của Giáo Hội là một “cộng đồng” này đă làm cho Giáo Hội trở thành một “gia đ́nh”, “gia đ́nh Chúa”, “gia đ́nh” của một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Cha trên trời, Đấng “đă yêu thương thế gian đến ban Con Một Ḿnh cho thế gian, để ai tin vào Người sẽ không phải chết nhưng được sự sống đời đời” (Jn 3:16).

 

Nếu yếu tố chính yếu bất khả thiếu làm nên gia đ́nh trần gian đó là yếu tố máu mủ ruột thịt th́ yếu tố làm nên “gia đ́nh Chúa”, một “gia đ́nh” thiêng liêng tức Giáo Hội, đó là đức tin, một đức tin được thể hiện qua việc con người chấp nhận Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là tột đỉnh và là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, Đấng được hạ sinh từ một người mẹ “bởi quyền phép Đấng Tối Cao” (Lk 1:35) và “tự hiến” (Jn 17:19) để thánh hóa những ai được Cha trao cho Người trên trần gian (xem Jn 17:19,6), nhờ đó họ được trở nên những đứa con thừa nhận của Ngài, thành Giáo Hội của Người, một Giáo Hội được Thánh Phaolô ở đoạn 5 câu 25 so sánh như một người vợ được chồng ḿnh là “Chúa Kitô đă yêu thương Giáo Hội và đă hiến ḿnh v́ Giáo Hội…”.

 

Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đă cảm nhận và xác tín trong Thư Galata đoạn 4 câu 4 và 5 về những ǵ được Chúa Kitô khẳng định với nghị viên Nicôđêmô về vấn đề “sinh bởi trên cao” (Jn 3:3) như sau: “Đến thời gian ấn định, Thiên Chúa đă sai Con Ḿnh sinh ra bởi một người nữ, để giải cứu khỏi lề luật những ai lụy thuộc lề luật, hầu chúng ta được trở nên những đứa con thừa nhận”. Và điều kiện về phía nhân loại để được trở nên những đứa con thừa nhận của Thiên Chúa, theo Thánh Kư Gioan trong lời mở đầu cuốn Phúc Âm của ngài ở đoạn 1 câu 12 đó là: “Ai chấp nhận Người th́ Người ban cho quyền làm con Thiên Chúa” (Jn 1:12). Việc “chấp nhận” này, về h́nh thức, được thể hiện qua một bí tích gia nhập Giáo Hội là phép rửa, như Chúa Kitô Phục Sinh đă nói tới, được Phúc Âm Thánh Marcô ghi lại ở đoạn 16 câu 15 và 16, khi sai các môn đệ là “các con hăy đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin vào tin mừng này mà chịu phép rửa th́ được cứu độ, bằng ai không chịu tin vào tin mừng ấy th́ bị luận phạt”.

 

Chính v́ đức tin là máu mủ ruột thịt của “gia đ́nh Chúa” và là yếu tố then chốt bất khả thiếu làm nên “gia đ́nh Chúa” mà Chúa Giêsu, dù là người con trần gian thực sự của Mẹ Maria, được Mẹ thụ thai trong ngày Truyền Tin và hạ sinh ở Bêlem, được Mẹ ẵm bế và cho bú mớm như một đứa con cưng của Mẹ, Người cũng đă đối xử với Mẹ theo t́nh nghĩa thiêng liêng, khiến có những lúc Mẹ phải sống bằng đức tin, hơn là bằng t́nh mẫu tử tự nhiên. Chẳng hạn như khi Người cố ư ở lại đền thờ Giêrusalem năm lên 12 tuổi để lo việc cho Cha trên trời của Người (x Lk 2:49). Về phần ḿnh, Mẹ Maria đă sống t́nh nghĩa thiêng liêng này hết sức trọn hảo “v́ đă tin” (Lk 1:45), đến nỗi Mẹ đă được chính Người khen rằng Mẹ có phúc v́ đă “nghe lời Chúa và tuân giữ”, hơn là đă được diễm phúc cưu mang Người và cho Người bú (xem Lk 11:27-28). T́nh nghĩa thiêng liêng của “gia đ́nh Chúa” liên quan tới đức tin đây c̣n được Chúa Kitô, khi Người được một kẻ báo là Mẹ và anh em Người đang ở ngoài chờ gặp Người, đă khẳng định về t́nh nghĩa thiêng liêng khi đặt vấn đề và khẳng định với người ấy rằng: “’Ai là mẹ của Tôi? Ai là anh em của Tôi?’ Đoạn Người giơ tay chỉ vào các môn đệ của ḿnh mà nói: ‘Những người này là mẹ của Tôi và là anh em của Tôi. Bất cứ ai làm theo ư muốn của Cha Tôi đều là anh em của Tôi và là mẹ của Tôi’” (Mt 12:48-50).

 

Cho dù yếu tố chính yếu tự nhiên làm nên gia đ́nh là máu mủ ruột thịt, thế nhưng, thực tế phũ phàng cho thấy, chính các phần tử trong cùng một gia đ́nh lại trở thành thù địch của nhau, đến nỗi đă sát hại lẫn nhau. Điển h́nh là trường hợp Cain sát hại Abel em ḿnh (x Gen 4:8); hay trường hợp 10 người con lớn của Giacóp đă âm mưu sát hại Giuse em ḿnh (x Gen 37:12-36); hoặc trường hợp con là Absalon muốn phản loạn và sát hại vua cha của ḿnh là Đavít (2Sam 15:1-18) v.v. Hiện tượng ly dị và phá thai từ hậu bán thập niên 1960 tới nay càng cho thấy yếu tố máu mủ ruột thịt, cho dù bất khả thiếu để làm nên gia đ́nh, vẫn không phải là yếu tố chính yếu và thiết yếu trong việc xây dựng và bảo tŕ hạnh phúc gia đ́nh. Cũng thế nơi “gia đ́nh Chúa”. Cho dù là một “cộng đồng đức tin”, nhưng lịch sử cho thấy “cộng đồng đức tin” là “gia đ́nh Chúa” này đă từ từ chia rẽ nhau, qua những phân ly chính yếu theo thứ tự, trước tiên giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương từ năm 1054, sau đó giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma với Phong Trào Cải Cách Thệ Phản từ năm 1519, và sau hết giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma với Giáo Hội Hiệp Thông Anh Giáo từ năm 1535.

 

Tuy nhiên, t́nh trạng sát hại lẫn nhau nơi gia đ́nh trần thế và chia rẽ nhau nơi “gia đ́nh Chúa” vẫn không làm mất đi những ǵ căn bản làm nên gia đ́nh tự nhiên là t́nh nghĩa ruột thịt hay làm nên gia đ́nh siêu nhiên là đức tin. Dù sao cũng không thể phủ nhận được rằng v́ t́nh trạng chia rẽ nhau, nơi cả cơ cấu gia đ́nh tự nhiên lẫn siêu nhiên ấy, cũng đă làm mất đi ít nhiều ư nghĩa đích thực của gia đ́nh và giá trị cao quí của gia đ́nh, biến gia đ́nh trở thành một “cộng đồng” thuần túy xă hội, một cơ cấu thường được làm nên bởi yếu tố lợi lộc, thích th́ gia nhập - không thích th́ rút lui, lợi th́ nhào vô - bất lợi th́ nhào ra.

 

Theo đúng ư nghĩa và ơn gọi của ḿnh th́, như Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo số 1669 định nghĩa, “gia đ́nh là một cộng đồng yêu thương và sự sống”, hay nói ngược lại, bất cứ một “cộng đồng” nào hội đủ hai yếu tố yêu thương và sự sống mới đích danh và trọn vẹn là “gia đ́nh”. Yếu tố “yêu thương” ở đây trước hết được căn cứ vào t́nh yêu phu thê giữa hai vợ chồng, nhất là trong trường hợp hai vợ chồng son sẻ không có con cái. “Sự sống” ở đây thường làm cho con người liên tưởng ngay đến vấn đề sinh sản con cái nói chung và con cái nói riêng, vậy th́ trường hợp của những đôi phối ngẫu không có con cái và không sinh nở được th́ chẳng lẽ họ không phải là một gia đ́nh hay sao?

 

Đó là lư do “yêu thương và sự sống” ở đây c̣n có một ư nghĩa sâu xa hơn nữa, liên quan tới mối hiệp nhất. Ở đâu không có hiệp nhất th́ không thể nào có “yêu thương và sự sống”. Nếu hiệp nhất là mục tiêu cho “yêu thương”, th́ hiệp nhất là chính thực tại của “sự sống”.  “Đoàn kết th́ sống chia rẽ th́ chết” là một nhận định rất đúng, đặc biệt nơi trường hợp hồn ĺa khỏi xác, tức trường hợp cái chết xẩy đến cho con người. Nếu hiệp nhất là chính thực tại của sự sống th́ yêu thương là con tim của sự sống. Nếu xác chết là một tử thi vĩnh viễn bất động không c̣n biết ǵ nữa v́ thiếu hồn sống là ư thức của nó thế nào, th́ không thể nào sống mà lại không có ư thức là tác động được thể hiện nơi yêu thương.

 

Nếu “gia đ́nh là một cộng đồng yêu thương và sự sống”, và “yêu thương và sự sống” được thể hiện nơi mối hiệp nhất nên một, th́ quả thực đă xẩy ra nơi Giáo Hội là “gia đ́nh Chúa” ngay từ ban đầu. Ở chỗ, như Sách Tông Vụ cho biết ở đoạn 4 câu 32-35 là “(32) Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một ḷng một ư. Không một ai coi bất cứ cái ǵ ḿnh có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. (33) Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đă sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng. (34) Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, v́ tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, (35) đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu”.

 

Bởi vậy, “gia đ́nh hiện thực bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội là gia đ́nh của Chúa” đây nghĩa là làm sao cho gia đ́nh ḿnh trở thành một “cộng đồng yêu thương và sự sống”, như Giáo Hội sơ khai, luôn hiệp nhất nên một, giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ với con cái, và giữa con cái với nhau. Vấn đề then chốt được đặt ra ở đây là làm thế nào để gia đ́nh có thể hiệp nhất nên một? V́, như thực tế cho thấy, dù là ruột thịt với nhau, các phần tử gia đ́nh tự nhiên vẫn không thương yêu nhau, trái lại, vẫn ghen ghét nhau, hận thù nhau, thậm chí sát hại nhau. Và thực tế cũng cho thấy, nếu không thực sự yêu thương nhau, các phần tử trong cả gia đ́nh tự nhiên lẫn thiêng liêng sẽ không thể nào sống với nhau, chưa nói chi đến vấn đề hiệp nhất nên một là chính sự sống đích thực của gia đ́nh và cho gia đ́nh.

 

Để giải quyết vấn đề then chốt này, trước hết, chúng ta cần phải ư thức rằng, theo ơn gọi của ḿnh th́ “gia đ́nh được gọi là giáo hội tại gia”, mà Giáo Hội là “gia đ́nh Chúa”, “một cộng đồng yêu thương và sự sống”, như Giáo Hội thời sơ khai, nên gia đ́nh Kitô hữu chúng ta cũng phải làm sao để “hiện thực bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”, ở chỗ hiệp nhất nên một với nhau trong t́nh nghĩa thiêng liêng của đức tin, chứ không phải theo bản tính tự nhiên. Đúng thế, nếu các phần tử trong gia đ́nh Kitô hữu biết sống với nhau bằng t́nh nghĩa thiêng liêng, bằng đức tin chân thực, sâu xa và mạnh mẽ, một đức tin được thể hiện qua đức ái (xem Gal 5:6), th́ gia đ́nh họ chắc chắn càng ngày càng trở thành một “giáo hội tại gia”, một “cộng đồng yêu thương và sự sống”, một “cộng đồng”, như Giáo Hội sơ khai qua việc tín hữu chung sống hiệp nhất như 1 gia đ́nh, vợ chồng cũng “nên 1 thân thể” ở chỗ sống cho nhau như 1/1=1 để nhờ đó có thể sống trong nhau như 1x1=1, chứ không phải chỉ sống với nhau hay sống bên nhau như 1+1=2 để từ đó dễ tiến tới chỗ sống ngoài nhau hay sống xa nhau như 1-1=0.

 

Chính Chúa đă dạy thành phần môn đệ của ḿnh sống cho nhau ở chỗ “bỏ ḿnh đi” và sống trong nhau ở chỗ “vác thập giá”, theo gương của Người là Đấng đă đến “không phải để được phục vụ” (sống cho nhau) mà là “phục vụ (sống trong nhau) và hiến mạng sống ḿnh cho nhiều người (hiệp nhất nên một)”.

 

Gia đ́nh và cha mẹ của Thánh Nữ Therèse Hài Đồng Giêsu

 

Một trong những mô phạm cho loại Gia Đ́nh là Giáo Hội tại gia đó là gia đ́nh của Thánh Nữ Therèse Hài Đồng Giêsu.

 

“Thiên Chúa nhân lành đă ban cho con một người cha và một người mẹ xứng với Thiên Đàng hơn là thế gian”. Đó là lời chị Thánh viết (trong Lá Thư 261) khi gần qua đời cho Cha Bellière tóm tắt về gia đ́nh của chị. Và đó cũng là lời được khắc trên mộ của cha mẹ chị, khi thi thể của hai vị được cải táng và chôn bên nhau ở gần hậu cung Đền Thờ Lisieux. Vào năm 1956, kỷ niệm 50 năm khấn trọn đời của Céline là một trong 4 chị em vào cùng một ḍng kín Carmêlô, nhưng sau 2 chị và cô em, vị giám mục bản quyền địa phương đă loan báo rằng: “Tôi có một tin vui cho Sơ. Tôi có thể loan báo là án phong chân phước cho cha mẹ của Sơ được bắt đầu”. Ngày 19/8/2008, ĐTC Biển Đức XVI đă phê chuẩn lễ nghi phong chân phước cho các vị. Và ngày ấn định tôn phong chân phước cho nhị vị là ngày Khánh Nhật Truyền Giáo 19/10/2008. Đây là cặp vợ chồng thứ hai được Giáo Hội phong chân phước. Cặp vợ chồng đầu tiên là cặp người Ư Luigi (chết vào năm 1951) và Maria Beltrame Quattrocchi (chết năm 1965), được ĐTC Gioan Phaolô II tuyên phong vào Ngày Truyền Giáo Thế Giới 21/10/2001, 7 năm trước.

 

Thật vậy, án phong thánh cho cha mẹ của chị được bắt đầu tiến hành từ đó, nhưng măi cho đến ngày 10/6/2003, tức gần một nửa thế kỷ mới xong, ngày ĐHY Tổng Giám Mục Milan là Dionigi Tettamanzi long trọng kết thúc án phong chân phước, khi công nhận một phép lạ chữa lành nhờ lời chuyển cầu của các vị. Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là đâu là đời sống hôn nhân gia đ́nh thánh thiện nơi nhị vị tân chân phước vợ chồng là cha mẹ của vị thánh nữ quan thày các nơi ruyền giáo Thiên-Sa Hài Đồng Giêsu?

 

Vào ngày 4/4/1957, Céline, bấy giờ đă là nữ tu Ḍng Kín Carmêlô với tên gọi là Géneviève Thánh Nhan, đă làm chứng trong tiến tŕnh phong chân phước cho cha mẹ ḿnh về một “vẻ đẹp của một đời sống phối ngẫu sống hoàn toàn cho một ḿnh Chúa nhân lành, không theo cái tôi hay vị kỷ. Nếu người tôi tớ Chúa muốn có nhiều con là để hoàn toàn hiến dâng chúng cho Thiên Chúa mà thôi. Tất cả những điều ấy đều xẩy ra một cách đơn thành của một cuộc sống b́nh thường, chịu khó làm việc và đầy những khốn khó được đón nhận bằng niềm phó thác và cậy trông nơi Ư Muốn Thần Linh”.

 

Trong bản Tuyên Ngôn được công bố ngày 13/10/1957 về Các Nhân Đức của cặp vợ chồng thân phụ mẫu của Thánh Thiên-Sa Hài Đồng Giêsu này, người ta đọc thấy những lời được Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Án Phong Thánh hưu trí là Saraiva Martins lập lại để kết thúc bài nói của ngài trong Đại Hội mừng kỷ niệm 150 năm lập gia đ́nh của nhị vị vào ngày 12-13/7/2008 ở Alencon và Lisieux như sau:

 

Chúng ta đă thấy trước mắt chúng ta một cặp vợ chồng, và một gia đ́nh, những người đă sống và đă tác hành hoàn toàn tuân hợp với Phúc Âm, chỉ lo sống trọn mỗi phút giây trong ngày dự án mà Thiên Chúa giành cho họ. Họ chỉ đạt đến sự trọn lành bằng việc t́m kiếm và nghe tiếng của Ngài. Louis và Zélie không phải là những con người rao giảng tin mừng trong các phong trào nhiệt thành hay của một hội tông đồ đặc biệt nào đó, thế nhưng cả gia đ́nh của họ đă sống một cuộc sống b́nh thường được soi dẫn bởi thần linh và siêu nhiên. Đó là chiều kích chính yếu, thuận lợi cho bất cứ ai, được cống hiến cho các gia đ́nh ngày nay noi gương bắt chước. Trước gương của gia đ́nh Martin này, chúng ta có được dưỡng chất, sức mạnh và hướng đi hầu tránh được quyền lực tân tiến của chủ nghĩa tục hóa, nhờ đó vượt lên trên nhiều sầu thương và thấy được tặng ân yêu thương phối ngẫu, cũng như tặng ân làm cha làm mẹ trong ư nghĩa thích đáng của chúng như là Tặng Ân khôn lường của Thiên Chúa”.

 

Thánh Thiên-Sa Hài Đồng Giêsu quả thực đă cảm nhận rất chính xác về cha mẹ của chị:  “Thiên Chúa nhân lành đă ban cho con một người cha và một người mẹ xứng với Thiên Đàng hơn là thế gian”. Đúng thế, cặp vợ chồng chân phước là thân phụ mẫu của vị Thánh Nữ Tiến Sĩ 33 này nói riêng và chung gia đ́nh của hai vị nói chung, đă sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian (x Jn 17:11,14), ở chỗ: 1) "lấy nhau không phải v́ sắc dục" (Tôbia 8:7) mà hoàn toàn theo Thánh Ư Chúa; 2) muốn có con là để dưỡng dục chúng hoàn toàn hầu dâng lại cho Chúa; 3) đă làm ăn sinh sống một cách chân chính theo ḷng kính sợ Chúa, dù làm chủ và phát tài nhưng không quên Chúa, và không tỏ ra gian dối, hách dịch, trái lại đă biết sử dụng của cải theo Ư Chúa và cho tha nhân; 4) biết chấp nhận mọi sự theo Ư Chúa về tất cả những ǵ xẩy ra cho chung gia đ́nh cũng như cho từng người, nhất là  liên quan đến những cái chết của phần tử thân yêu trong nhà. Tóm lại, gia đ́nh Chị Thánh Thiên-Sa Hài Đồng Giêsu quả thực là mô phạm cho một "Cộng Đồng Yêu Thương và Sự Sống" (Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, 1660), cho một "Giáo Hội Tại Gia" (Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, 1666 và 2685) vậy . 

 

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống,

Chúa đă được sinh ra bởi một người nữ vào lúc thời gian viên trọn

để cho nhân loại chúng con được làm nghĩa tử của Cha trên trời.

V́ gia đ́nh là cửa vào trần gian của Chúa,

và v́ Chúa đă biến đổi t́nh yêu tự nhiên của thành phần làm nên gia đ́nh

là vợ chồng, cha mẹ và con cái trở thành một thứ rượu hảo hạng nơi Bí Tích Hôn Phối,

xin Chúa hăy tiếp tục tỏ vinh quang của Chúa ra như ở tiệc cưới Cana xưa,

để gia đ́nh nói chung được thực sự trở thành một cộng đồng yêu thương và sự sống,

và để gia đ́nh Kitô hữu nói riêng trở thành một Giáo Hội Tại Gia như Chúa muốn.

Amen.