Giáo Hội Tại Gia
“Gia đ́nh
trở thành một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 515 Thứ Sáu
23/7/2010
Để tiếp theo loạt bài chủ đề Gia Đ́nh - Giáo Hội Tại Gia hai tuần trước,
một Giáo Hội Tại Gia ở chỗ “Gia
đ́nh – hiện thực bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”,
và
ở chỗ “Gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân sủng và nguyện cầu”,
chúng ta tiến
sang chiều kích thứ hai của chủ đề Gia Đ́nh -
Giáo Hội Tại Gia này, đó là chiều kích “Gia đ́nh trở thành một trường
dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”.
Chiều
kích chính yếu thứ hai để tỏ ra “Gia Đ́nh được gọi là Giáo Hội Tại Gia”
đó là “gia đ́nh trở thành một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”.
Nếu chiều kích thứ nhất, chiều kích “gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân
sủng và cầu nguyện”, liên quan tới đời sống phụng vụ và nội tâm, th́
chiều kích thứ hai, chiều kích “gia đ́nh trở thành một trường dạy nhân
đức nhân bản và Kitô giáo”, liên quan tới luân lư và tu đức.
Tuy
nhiên, theo thứ tự th́ không thể nào có chiều kích thứ hai về luân lư và
tu đức nếu không có chiều kích thứ nhất về phụng vụ và nội tâm. Bởi v́,
chiều kích luân lư và tu đức lệ thuộc vào chiều kích phụng vụ và nội tâm.
Ở chỗ, nếu thiếu “ân sủng” và “cầu nguyện” là hai khía cạnh thuộc chiều
kích thứ nhất, th́ những con người được kêu gọi làm nên một gia đ́nh
trong vai tṛ làm vợ chồng, cha mẹ và con cái không thể nào sống xứng
đáng và trọn vẹn ơn gọi làm người và làm Kitô hữu của ḿnh, được thể
hiện qua những nhân đức làm người và làm Kitô hữu. Và nếu vợ chồng, cha
mẹ và con cái không có những nhân đức làm người và làm Kitô hữu như thế,
họ sẽ không thể hay khó có thể sống với nhau, và cuộc sống hôn nhân gia
đ́nh của họ sẽ không thể nào có được một hạnh phúc chân thật và bền lâu,
chứ chưa nói đến trở thành “một cộng đồng yêu thương và sự sống”.
Đó là lư
do, nếu công nhận Thánh Gia là gia đ́nh lư tưởng nhất và là gia đ́nh
hạnh phúc nhất th́ chỉ có gia đ́nh nào “thánh” với những con người
“thánh” mới hạnh phúc và lư tưởng thôi. Nếu “cầu nguyện” là tác động đáp
ứng “ân sủng” th́ những nhân đức làm người và làm Kitô hữu chính là
những tác động cụ thể nhất cho thấy tác động đáp ứng “ân sủng” này của
những con người làm nên một “gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân sủng và
cầu nguyện”, một “Giáo Hội Tại Gia”.
Có ba
vấn đề được đặt ra ở đây, thứ nhất: “gia đ́nh trở thành một trường dạy
nhân đức làm người và Kitô giáo” nghĩa là ǵ; thứ hai: đâu là các nhân
đức làm người và Kitô giáo; và thứ ba: làm thế nào để gia đ́nh trở thành
một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo?
1.
“Gia đ́nh trở thành một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”: ư
nghĩa
Nói đến
“trường”, trước hết, là nói tới một nơi để “học” và thành phần tới để
“học” mới được gọi là “học” sinh. B́nh thường người ta hiểu “trường”
theo ư nghĩa căn bản và phổ thông này. Bởi thế, trong ngôn ngữ Việt Nam
mới có danh từ kép là “trường học” hay “học đường”, luôn đi đôi với nhau.
Tuy nhiên, nếu “trường học” hay “học đường” chỉ có học sinh mà không có
“thày dạy” cũng không được. Thế nên, người ta cũng có thể nói “trường
dạy”. Đúng vậy, thực tế cho thấy không thiếu những loại “trường” đặc
biệt đáng được gọi là “trường dạy” này, thường liên quan trực tiếp tới
những ǵ có tính cách chuyên môn nào đó. Chẳng hạn như các loại “trường
dạy” nghề, như “trường dạy” chuyên về kỹ thuật hay mỹ thuật, “trường
quốc gia âm nhạc” chẳng hạn v.v.
Ở đây,
căn cứ vào ư nghĩa “trở thành” của gia đ́nh: “gia đ́nh trở thành
một trường… nhân đức làm người và Kitô giáo” th́ phải hiểu “gia đ́nh trở
thành một trường dạy (hơn là) một trường học…”. Đúng thế,
theo ư nghĩa thứ hai về “trường”, liên quan đến môn “học” đặc biệt, đó
là môn hạnh kiểm hay “nhân đức”, cả về phương diện tự nhiên là “nhân bản”
(làm người) lẫn siêu nhiên là “Kitô giáo” (làm thánh). V́ trong khi chữ
“học” ở một vị thế thấp kém th́ chữ “dạy” làm cho “gia đ́nh” có một giá
trị cao cấp và vị thế truyền thụ cân xứng với vai tṛ của ḿnh hơn đối
với các phần tử làm nên “gia đ́nh” và trong “gia đ́nh”. Như thế, nếu các
phần tử làm nên “gia đ́nh” và trong “gia đ́nh” là thành phần “học” sinh
trong việc “học” “nhân đức làm người và Kitô giáo”, th́ “gia đ́nh” tự
ḿnh là thày “dạy”, chất chứa những ǵ cần truyền thụ cho thành phần
“học” sinh của ḿnh. Phải chăng chính “nhân đức làm người và Kitô giáo”
của các phần tử làm nên “gia đ́nh” và nơi các phần tử trong “gia đ́nh”,
nhờ “học” hỏi được trong cuộc sống chung “gia đ́nh” của họ, đă làm cho
“gia đ́nh trở thành trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”?
Đây là những ǵ sẽ được bàn đến ở khía cạnh thứ hai, thuộc nội dung của
vấn đề “gia đ́nh trở thành một trường dạy nhân đức làm người và Kitô
giáo”.
2.
“Gia đ́nh trở thành một học đường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”:
nội dung
Thật vậy,
nếu “gia đ́nh được gọi là Giáo Hội Tại Gia”, mà “Giáo Hội” là “cộng đồng
yêu thương và sự sống” lư tưởng nhất, mô phạm cho tất cả mọi gia đ́nh và
mỗi gia đ́nh, hoàn toàn trung thực phản ảnh cộng đồng thần linh “chúng
ta” (Gen 1:26) của Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa, th́ “gia đ́nh” quả thực
là nơi chất chứa hai yếu tố thuộc về một bản chất bất khả thiếu làm nên
gia đ́nh là “yêu thương và sự sống”, những yếu tố cần phải được “gia
đ́nh trở thành một trường dạy” cho các phần tử của ḿnh, và đồng thời
cũng là những yếu tố cần phải được các phần tử làm nên “gia đ́nh” và
trong “gia đ́nh” cần phải nỗ lực “học” hỏi và “tự luyện” để nhờ đó gia
đ́nh của họ mới càng ngày càng thực sự “trở thành một cộng đồng ân sủng
và cầu nguyện”, một “cộng đồng yêu thương và sự sống”, theo đúng dự án
thần linh về “gia đ́nh”.
Trong
câu “để gia đ́nh trở thành một học đường dạy nhân đức làm người và Kitô
giáo”, sách Toát Yếu Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo không sử dụng số nhiều
là “các nhân đức” mà là số ít “nhân đức” hay một “nhân đức”, một
“nhân đức” lại có tính cách lưỡng diện, bao gồm cả phương diện nhân bản
tự nhiên là “làm người” lẫn phương diện “Kitô giáo” siêu nhiên là làm
thánh nữa. Vậy đâu là “nhân đức” duy nhất bao gồm cả hai phương diện tự
nhiên về nhân bản và siêu nhiên về Kitô giáo này nơi “gia đ́nh” và của
“gia đ́nh”, nhờ đó các phần tử có thể sống đúng và sống xứng với ơn gọi
hôn nhân gia đ́nh của ḿnh, nếu không phải là “yêu thương”.
Đúng thế,
“yêu thương” chẳng những là yếu tố chính yếu đầu tiên bất khả thiếu để
làm nên “gia đ́nh” hay để “thành lập gia đ́nh” mà c̣n là nhân đức duy
nhất cần phải có nơi mọi phần tử làm nên “gia đ́nh” và mỗi phần tử trong
“gia đ́nh”, nhờ đó các phần tử thuộc về cùng một “gia đ́nh” mới có thể
sống trọn và sống xứng với ơn gọi hôn nhân gia đ́nh của ḿnh, và cũng
nhờ đó họ mới cảm thấy hạnh phúc chân thực và bền vững của đời sống hôn
nhân gia đ́nh và từ đời sống hôn nhân gia đ́nh này.
“Yêu
thương” tự ḿnh vừa có tính chất nhân bản “làm người” tự nhiên, được thể
hiện qua khuynh hướng tâm lư t́m kiếm nhau và gắn bó với nhau, đến độ
“nên một thân thể” (Gen 2:24) với nhau về cả sinh lư nơi tác động vợ
chồng, vừa có tính chất “đức ái” siêu nhiên của “Kitô giáo”, một tôn
giáo đă cảm nhận và định nghĩa về Vị Thiên Chúa của ḿnh “là T́nh Yêu”
(1Jn 4:8,16), một Vị Thiên Chúa đă dựng nên con người “có nam có nữ”
(Gen 2:27) theo h́nh ảnh của Ngài và tương tự như Ngài là cộng đồng thần
linh “chúng ta”, một Vị Thiên Chúa “đă yêu thương đến cùng”, nơi Lời
Nhập Thể Vượt Qua là Chúa Giêsu Kitô, tất cả thành phần thuộc về Ngài là
Nhiệm Thể Giáo Hội Chúa Kitô, “một mầu nhiệm cao cả” (Eph 5:32) cho ơn
gọi của đời sống “yêu thương” hôn nhân gia đ́nh.
3.
“Gia đ́nh trở thành học đường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”: cách
thức
Chính v́
hôn nhân gia đ́nh Kitô giáo tự bản chất là phản ảnh và được tham dự vào
“mầu nhiệm cao cả” yêu thương thần linh này mà thực sự “gia đ́nh trở
thành trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”. Thế nhưng, vấn đề áp
dụng ở đây là làm thế nào để thực tế có thể cho thấy quả thực “gia đ́nh
trở thành trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”?
Nếu hôn
nhân gia đ́nh Kitô giáo, nhờ Bí Tích Hôn Phối, chẳng những là phản ảnh
mà c̣n được tham dự vào “mầu nhiệm cao cả liên quan tới Chúa Kitô và
Giáo Hội” về “yêu thương”, th́ các phần tử trong gia đ́nh nói chung,
nhất là hai con người nam nữ đă t́nh nguyện lấy nhau v́ “yêu thương”
nhau, chỉ có thể “góp phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành trường
dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”, nhất là đối với thành phần con cái
của ḿnh là hoa trái của “yêu thương” giữa họ với nhau, một khi họ biết
sống theo gương của Chúa Kitô và Giáo Hội trong “mầu nhiệm cao cả” này,
như được Thánh Tông Đồ Phaolô diễn tả và khuyên dụ trong Thư Ephêsô ở
đoạn 5 từ cầu 22-24 cho người vợ và từ câu 25 và 28-30 cho người chồng.
Cho
người vợ, để sống “mầu nhiệm cao cả liên quan tới Chúa Kitô và Giáo Hội”,
Thánh Phaolô khuyên dạy rằng: “(22) Người làm vợ hăy tùng phục chồng như
tùng phục Chúa, (23) v́ chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là Đầu của
Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người.
(24) Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, th́ vợ cũng phải tùng
phục chồng trong mọi sự như vậy”.
Cho
người chồng, cũng căn cứ vào “mầu nhiệm cao cả liên quan tới Chúa Kitô
và Giáo Hội”, Vị Tông Đồ Dân Ngoại huấn dụ như sau: “(25) Người làm
chồng, hăy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và
hiến ḿnh v́ Hội Thánh; (28) Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính
thân thể ḿnh. Yêu vợ là yêu chính ḿnh. (29) Quả vậy, có ai ghét thân
xác ḿnh bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác ḿnh,
cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh (30)”.
Theo thứ
tự của hai lời khuyên dạy giành cho cả vợ lẫn chồng này của Thánh
Phaolô, th́ vợ được khuyên “phục tùng” chồng trước rồi sau đó chồng mới
được khuyên “yêu thương” vợ sau. Phải chăng đó là lư do trong Việt ngữ
người ta hay nói “vợ chồng” hơn là “chồng vợ”? Và phải chăng lư do của
thứ tự khuyên dạy vợ trước chồng sau này là v́ trong bản án nguyên tội,
người nữ bị tuyên phạt trước chồng ḿnh, và trong bản án giành riêng cho
người vợ, Thiên Chúa đă cho biết rằng “ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi,
và nó sẽ thống trị ngươi." (Gen 3:16).
Tuy
nhiên, dù được khuyên trước hay sau, vấn đề chính yếu cho cả vợ chồng ở
đây là họ đều phải căn cứ vào “mầu nhiệm cao cả” mà sống, mà đối xử với
nhau, và nhờ đó mới có thể sống với nhau và yêu thương nhau thực sự, yêu
thương nhau một cách trọn lành, và cũng nhờ đó họ mới phần nào hay hoàn
toàn phản ảnh “mầu nhiệm cao cả” bởi tham dự vào “mầu nhiệm cao cả” này
bằng chính cuộc sống yêu thương siêu nhiên v́ Chúa và chấp nhận nhau
trong Chúa.
Nếu
không xẩy ra trường hợp “vợ hăy tùng phục chồng như tùng
phục Chúa… và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào,
th́ vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy”, và trường hợp
nếu chồng không “yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu
thương Hội Thánh và hiến ḿnh v́ Hội Thánh… như Đức Kitô
nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh”, chắc chắn cuộc sống hôn nhân của họ sẽ
trở thành bất hạnh và không bền, và gia đ́nh của họ sẽ không bao giờ trở
thành một “cộng đồng yêu thương và sự sống”, và không bao giờ có chuyện
“gia đ́nh trở thành trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”.
Thế
nhưng, để có thể phần nào, không nhiều th́ ít “cộng tác vào việc làm cho
gia đ́nh trở thành một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo” là
yêu thương, nhờ đó “gia đ́nh là một cộng đồng yêu thương và sự sống”,
hai con người nam nữ trở thành vợ chồng bởi Bí Tích Hôn Phối trước hết
và trên hết cần phải làm sao để “cộng tác vào việc làm cho gia đ́nh trở
thành một cộng đồng ân sủng và cầu nguyện” đă. Có thế, họ mới có thể
tiếp tục tiến tới chiều kích thứ ba cũng là chiều kích cuối cùng của vấn
đề “Gia Đ́nh được gọi là Giáo Hội Tại Gia”, đó là chiều kích “cộng tác
vào việc làm cho gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên truyền bá đức tin cho
con cái”.
“Gia đ́nh trở thành một học đường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo” -
Áp dụng thực hành
1.
Hăy ư thức rằng tất cả mọi sự chúng ta có là do được ban cho và
để cho người khác. Như người mẹ sẽ chẳng có sữa nếu không có con và
không tiếp tục cho con bú. Như thế sữa “nơi” người mẹ là “của” người con
hơn là “của” người mẹ, một con người “có” sữa là để “cho” người con, với
tư cách làm quản lư hơn là làm chủ nguồn sữa này, hoàn toàn định đoạt
theo ư muốn thường xu hướng vị kỷ của ḿnh.
2.
Thế nhưng, một khi ban tặng những ǵ “của” ḿnh cho nhau, đừng
tặng cho nhau những ǵ ḿnh thích mà là những ǵ nhau thích, đúng hơn
những ǵ hợp với nhau theo ư muốn của Thiên Chúa về nhau. Bằng không,
cho dù là “cho” nhau đấy, chúng ta vẫn tỏ ra độc quyền trên những ǵ vốn
là “của” nhau và “cho” nhau. Tức là làm sao để hoàn toàn “trở nên mọi sự
cho mọi người” (1Cor 9:22), như 1 x 1 = 1.
3.
Hăy nhớ rằng trong vấn đề yêu thương chân chính th́ phải chia
trước nhân sau (chia sẻ cho nhau trước
mới có thể nên một với nhau sau). Và yêu thương chỉ thực sự chân chính ở
chỗ “hiệp nhất nên một”, một t́nh trạng cho thấy “sự sống” là cốt lơi và
là thực tại của yêu thương, bằng không, không có “sự sống” là hiệp nhất
nên một, yêu thương chỉ là một cái xác không hồn, là một tử thi hay là
một con thú sống theo bản năng của luật rừng mạnh được yếu thua mà thôi,
như đang xẩy ra trong thế giới càng văn minh càng bạo loạn ngày nay theo
chủ nghĩa duy nhân bản tôn sùng nhân quyền.
4.
Bởi thế, hăy yêu thương trong chân lư và hăy sống làm sao để có
thể duy tŕ “sự sống” là mối hiệp nhất trong yêu thương và bằng yêu
thương, cho dù phải hy sinh cho đến cùng, như Đấng đă tự hiến để Giáo
Hội là Nhiệm Thể của Người được thánh hóa trong chân lư (xem Jn 17:19),
nhờ đó mới sống trọn “mầu nhiệm cao cả” của hôn nhân gia đ́nh.
5.
Đừng sợ những khác biệt của nhau và tất cả những ǵ bất trắc xẩy
ra trong cuộc sống hôn nhân. V́ sợ là tỏ ra thua cuộc và sẽ không đủ sức
chống chọi khi xẩy ra biến sự. Trái lại, hăy coi tất cả mọi sự bất lợi
cho cuộc sống hôn nhân, thậm chí hành động ngoại t́nh, kể cả thái độ
khinh bỉ của người phối ngẫu, là cơ hội và dịp tốt để t́nh yêu thương vợ
chồng nên chân thực hơn và hoàn thiện hơn.
6.
Theo tâm
lư tự nhiên của phái tính, chồng thường hành động, suy tư và phản ứng
theo lư trí, lư sự, phải trái, đúng sai, trong khi đó, vợ lại sống theo
cảm t́nh, theo con tim (ở bên trái của cơ thể) có những lư lẽ mà lư trí
không hiểu được. Nếu trong cuộc ân ái vợ chồng tế bào tinh trùng của
người chồng gặp tế bào trứng nơi người vợ làm nên mầm sống là con cái
thế nào, lư lẽ của người chồng cũng phải hợp với t́nh cảm của người vợ
mới an vui như vậy.
Các gia đ́nh Thánh bao gồm
cả cha mẹ lẫn con cái là những vị thánh trong Giáo Hội
Chiều kích thứ hai của “Gia Đ́nh được gọi là Giáo Hội tại gia” ở chỗ
“Gia đ́nh trở thành một học đường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”
quả thực đă được thể hiện trọn hảo nơi một số gia đ́nh Kitô hữu, đặc
biệt nhất là nơi 3 gia đ́nh có cả cha mẹ lẫn con cái được Giáo Hội tuyên
phong như những vị thánh của Giáo Hội, thứ nhất là cặp vợ chồng Thánh
Basil the Elder và Thánh Emmelia với
4 người con thánh, thứ hai là cặp vợ chồng
thánh Gregory Nazianzen the Elder và Thánh Nonna với 3 người con
thánh, và thứ ba là cặp vợ chồng thánh
Vincent Madelgarius và Thánh Waldetrudis với 4 người con thánh.
Thứ nhất là cặp vợ chồng Thánh Basil the Elder và Thánh Emmelia với
4 người con thánh.
Thánh
Basil the Elder, xuất
thân
ở
Ceasarea Xứ
Cappadocia, là một
luật
sư
và giáo sư
khoa hùng biện,
lập
gia
đ́nh
với
Thánh Emmelia là một
người
nữ
vừa
nết
na
đức
hạnh
vừa
nhan sắc,
một
người
con gái mồ
côi cha mẹ
từ
nhỏ
nên lập
gia
đ́nh sớm
để
tránh nguy hiểm.
Cặp
vợ
chồng
này nổi
tiếng
về
nhân
đức
ở
Pontus và Cappadocia, nhất
là về
ḷng nhiệt
thành trong việc
thiết
lập
các công việc
nhân ái
đối
với
thành phần
nghèo khổ
và hành hương.
Hai vị
đă
sinh
được
10 người
con. Thánh Emmelia dạy
con cái ngay từ
thuở
nhỏ
biết
trân quí Lời
Chúa trong Thánh Kinh, nhất
là Sách Khôn Ngoan
được
người
mẹ
thánh này sử
dụng
để
dạy
cho con cái quen biết
với
các nguyên tắc
của
đời
sống
Kitô giáo. Khi Thánh Basil the Elder qua
đời
vào năm
349 sau khi người
con cuối
cùng vừa
ra
đời,
và sau khi chu toàn nhiệm
vụ
dưỡng
dục
con cái, Thánh Emmelia
đă
ẩn
thân trong một
đan
viện
ở
Annesi và
đă
qua
đời
năm
373. Bốn
trong 10 người
con thánh
đức
của
cặp
vợ
chồng
thánh Basil the Elder và Emmelia
đó
là Thánh Macrina the
Younger, Thánh Basiliô Cả,
Thánh Gregory of Nyssa, Thánh Macrina the Younger và Thánh Peter of
Sebaste.
Thánh
Nữ
Macrina the Younger
là cháu của
Thánh Macrina the Elder, sinh năm
327
ở
quê hương
như
của
vị
thân phụ.
Thánh nữ
là một
nữ
nhân nhan sắc
như
mẹ
và
đă
được
cha mẹ
gả
cho một
người
nam xứng
đáng
nhất
theo ư nghĩ
của
nhị
vị
thân sinh. Tuy nhiên, con người
được
tuyển
chọn
ấy
đă
chết
bất
ngờ
trước
khi thành hôn với
thánh nữ.
Thánh nữ
đă
quyết
giữ
ḿnh
đồng
trinh trước
mộ
của
người
quá cố
như
để
trung thành với
người
chồng
chưa
cưới
này của
ḿnh. Sau khi cha chết,
thánh nữ
đă
phụ
giúp mẹ
nuôi dưỡng
đàn
em cho
đến
khi người
mẹ
hoàn thành nhiệm
vụ
làm mẹ
của
bà th́ thánh nữ
đă
khuyên mẹ
sống
đời
tu tŕ với
một
số
phụ
nữ
vốn
giúp việc
cho gia
đ́nh
thánh nữ,
và người
mẹ
đă
theo chấp
thuận
sống
như
thế
trên bờ
sông Iris
ở
Annesi gần
Hore thuộc
Pontus cho tới
khi bà qua
đời
và vai tṛ lănh
đạo
tu viện
của
bà
được
thay thế
bởi
chính thánh nữ.
Thánh Macrina the Younger
đă
ảnh
hưởng
nhiều
đến
những
người
em thánh nổi
tiếng
của
ḿnh. Hai người
em trai lớn
hơn
của
Thánh Peter là Thánh Basiliô Cả
và Gregory of Nyssa, cho dù sau này
đă
trở
thành các vị
giám mục
cũng
vẫn
liên lạc
với
người
chị
thánh
đức
khả
kính này của
ḿnh. Riêng Thánh Basiliô Cả,
sau khi trở
thành giám mục
ở
Ceasarea xứ
Cappadocia vào năm
370,
đă
đích
thân
đến
thăm
chị
của
ḿnh và truyền
chuưc
linh mục
cho người
em Peter của
ḿnh
để
người
em linh mục
này có thể
chăm
sóc phần
thiêng liêng cho chị
và các nữ
đan
sĩ
thuộc
đan
viện
do chị
ḿnh thành lập.
Thánh Gregory, em trai của
Thánh Basiliô Cả,
sau khi làm giám mục
ở
Nyssa vào năm
371, cũng
đă
viếng
thăm
chị
ḿnh khoảng
năm
380 và kết
quả
của
cuộc
viếng
thăm
này
đă
được
đúc
kết
thành cuốn
sách “Về
Linh Hồn
và Cuộc
Phục
Sinh” (PG 46:16-140). Thánh nữ
Macrina the Younger
đă
được
chôn táng, như
cha mẹ
của
ḿnh, tại
Thánh
Đường
gần
đan
viện
của
thánh nữ,
một
thánh
đường
được
xây cất
để
tôn kính 40 vị
tử
đạo
ở
Sebaste.
Thánh
Basiliô Cả
là trưởng
nam của
cặp
vợ
chồng
thánh Basil the Elder và thánh Emmelia, và là em của
Thánh Nữ
Macrina the Younger. Ngài
được
sinh vào
đời
khoảng
năm
329 hay 330
ở
cùng quê hương
với
thân phụ
là Ceasarea
ở
Cappadocia. Ngài là một
đứa
bé bệnh
nạn
và
được
chăm
sóc bởi
Thánh Nữ
Macrina the Elder là bà của
ḿnh
ở
Annesi. Sau khi
được
khỏi
bệnh
một
cách lạ
lùng sau biến
cố
thập
tử
nhất
sinh, ngài trở
về
sống
với
cha mẹ
của
ḿnh
ở
Ceasarea. Ngài chẳng
những
theo học
ở
quê quán của
ḿnh mà c̣n
ở
cả
Constantinople và Nhă
Điển.
Ngài trở
về
nhà năm
356 và dạy
khoa hùng biện
một
thời
gian ngắn
rồi
rút lui sống
đời
tu tŕ. Ngài
đă
viếng
thăm
các nơi
chốn
tu tŕ
ở
Syria, Palestine, Ai Cập,
Mesopotamia
để
làm quen với
tinh thần
tu tŕ. Sau
đó
ngài
đă
sống
đời
tu tŕ với
một
nhóm người
nam
đồng
chí hướng
ở
Neoceasarea thuộc
Pontus. Vào năm
358, khi Thánh Gregory of Nazianzen viếng
thăm
ngài
ở
đây,
một
người
bạn
ngài
đă
quen biết
khi c̣n học
ở
Nhă
Điển,
cả
hai
đă
cùng nhau chẳng
những
biên soạn
một
tập
sách
được
gọi
là Philokalia bao gồm
các câu nói
được
trích từ
các tác phẩm
của
giáo phụ
Origen mà c̣n cả
luật
lệ
tu tŕ của
đời
sống
đan
sĩ
làm nền
tảng
cho các luật
lệ
tu tŕ sau
đó.
Thánh Basilô sở
dĩ
được
gọi
là “Cả”
là v́ các công việc
của
ngài làm với
tư
cách giám mục
từ
năm
370, liên quan tới
việc
linh hướng
cũng
như
việc
mục
vụ
tông
đồ,
nhất
là việc
ngài chống
lại
bè rối
Arianism
đang
sung sức
trong thời
hoàng
đế
Valens cho
đến
khi bè rối
này hoàn toàn bị
tàn lụi
vào năm
381. Ngài qua
đời
năm
379.
Thánh
Gregory of Nyssa
vào
đời
khoảng
năm
335. Thời
niên thiếu
của
ngài không
được
biết
đến
cho lắm
và ngài không
được
học
hành như
anh ngài là Thánh Basiliô Cả.
Ngài chỉ
được
học
ở
nơi
quê quán của
ḿnh. H́nh như
cha mẹ
ngài mong muốn
ngài trở
thành linh mục,
nhưng
ngài lại
trở
thành một
hùng biện
gia. Ngài
đă
từ
bỏ
nghề
hùng biện
nhưng
vẫn
theo
đuổi
đời
sống
hôn nhân gia
đ́nh
với
Theosebia, và ngài
đă
tiếp
tục
sống
đời
hôn nhân gia
đ́nh
này thậm
chí cho cả
sau khi ngài
đă
được
người
anh giám mục
Basiliô Cả
tấn
phong giám mục
ở
Nyssa cho ngài năm
371. Tuy nhiên,
đời
sống
hôn nhân gia
đ́nh
vẫn
không cản
trở
ngài sống
thánh
đức.
Vợ
ngài qua
đời
năm
385 và
được
giám mục
Gregory Nazianzen là bạn
học
của
Thánh Basiliô Cả
ca tụng
là “một
người
vợ
thật
là thánh
đức
và trung thực
của
một
vị
linh mục”.
Thánh nhân
đă
sống
đời
cô quạnh
với
vợ
của
ḿnh và cảm
thấy
bị
người
anh giám mục
Basiliô Cả
bắt
buộc
làm giám mục.
Thế
nhưng,
ngài
đă
chu toàn nhiệm
vụ
chủ
chăn
của
ḿnh, và
đă
được
dân Chúa quí mến.
Ngoài ra, ngài
đă
trở
thành một
đại
thần
học
gia và thần
bí gia và là tổ
phục
của
khoa thần
học
về
thần
bí.
Thánh
Peter
of Sebaste là người
con trai út của
cặp
vợ
chồng
thánh Basil the Elder và thánh Emmelia. Thánh nhân
được
sinh vào
đời
khoảng
năm
349 và
được
giáo dục
đạo
đức
bởi
người
chị
thánh
đức
của
ḿnh cùng chịu
ảnh
hưởng
sống
thánh của
người
chị
này rất
nhiều.
Thánh nhân
đă
sống
đời
đan
sĩ
ở
đan
viện
do người
anh Giám Mục
của
ḿnh là Basiliô Cả
thành lập
và sau
đó
trở
thành
đan
viện
phụ
của
đan
viện
này. Thánh nhân c̣n trở
thành giám mục
ở
Sebaste trong thời
gian 379-381 và qua
đời
năm
392.
Tiểu sử
của các cặp vợ chồng thánh có các người con thánh không thuật lại cho
chúng ta biết cách thức hay nghệ thuật giáo dục của các vị ra sao để có
được những người con thánh đức như các vị, nhưng hoa trái thánh đức nơi
con cái của các vị đă cho thấy các vị phải là những cây tốt lành và gia
đ́nh của các vị quả thực đă “trở
thành một học đường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”.
Lạy
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống,
Chúa
đă được sinh ra bởi một người nữ vào lúc thời gian viên trọn
để
cho nhân loại chúng con được làm nghĩa tử của Cha trên trời.
V́
gia đ́nh là cửa vào trần gian của Chúa,
và v́
Chúa đă biến đổi t́nh yêu tự nhiên của thành phần làm nên gia đ́nh
là vợ
chồng, cha mẹ và con cái trở thành một thứ rượu hảo hạng nơi Bí Tích Hôn
Phối,
xin
Chúa hăy tiếp tục tỏ vinh quang của Chúa ra như ở tiệc cưới Cana xưa,
để
gia đ́nh nói chung được thực sự trở thành một cộng đồng yêu thương và sự
sống,
và để
gia đ́nh Kitô hữu nói riêng trở thành một Giáo Hội Tại Gia như Chúa muốn.
Amen.
|