|
Giáo Hội Tại Gia
“gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái”
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 516 Thứ Sáu
303/7/2010
Để tiếp theo loạt bài chủ đề Gia Đ́nh - Giáo Hội Tại Gia ba tuần trước,
một Giáo Hội Tại Gia ở chỗ “Gia
đ́nh – hiện thực bản chất cộng đồng và gia đ́nh của Giáo Hội”,
với chiều kích thứ nhất “Gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân sủng và
nguyện cầu”,
và
chiều kích thứ hai “Gia đ́nh trở thành một
trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”.
Hôm nay, chúng ta tiến sang chiều kích
thứ ba của chủ đề Gia Đ́nh – Giáo Hội Tại Gia, đó là chiều kích
“Gia đ́nh trở thành một nơi đầu
tiên loan truyền đức tin cho con cái”
Thật vậy,
“Gia Đ́nh được gọi là giáo hội tại gia”, cho dù gia đ́nh đă “trở thành
một cộng đồng ân sủng và cầu nguyện” và “một trường dạy nhân đức làm
người và Kitô giáo”, vẫn chưa hoàn toàn và trọn vẹn là một “giáo hội tại
gia”, nếu thiếu chiều kích thứ ba, liên quan tới vấn đề giáo dục, có
tính cách tông đồ và truyền giáo tại gia, đó là chiều kích làm sao để
“gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái” nữa.
“Gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái” – với
Giáo Hội
Đúng thế,
theo Công Đồng Chung Vaticanô II, qua Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo
“Ad Gentes hay Cho Muôn Dân”, ở đầu đoạn 2, đă ư thức và tuyên bố rằng “tự
bản chất của ḿnh Giáo Hội là truyền giáo”. Nghĩa là nếu không
truyền giáo Giáo Hội không c̣n là và không phải là Giáo Hội nữa, như ánh
sáng tự bản chất là chiếu soi mà không soi chiếu th́ không c̣n là và
không phải là ánh sáng vậy. Theo lời Đấng Sáng Lập của ḿnh nói về thành
phần chứng nhân tiên khởi bấy giờ là các tông đồ khi mở đầu Bài Giảng
Phúc Đức Trọn Lành trên núi của Người, ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 5 câu
14, “các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi không khuất
được nữa”, Giáo Hội cũng thực sự ư thức được vai tṛ truyền giáo bất khả
thiếu của ḿnh qua Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội mang tựa đề “Lumen
Gentium hay Ánh Sáng Muôn Dân”, ở ngay câu mở đầu như sau: “Ánh sáng
muôn dân chính là Chúa Kitô, nên Thánh Công Đồng đang nhóm họp trong
Chúa Thánh Thần hết ḷng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của
Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc Âm
cho mọi tạo vật (x. Mc 16,15)”.
Thật vậy,
nếu yếu tố chính yếu làm nên Giáo Hội là Thánh Thể, nguồn mạch và là tột
đỉnh của mọi hoạt động của Giáo Hội, đến nỗi không có Thánh Thể không có
Giáo Hội (với thiên chức tư tế thừa tác nói chung và hàng giáo phẩm nói
riêng), nhưng Thánh Thể không phải chỉ là Hiện Diện Thần Linh của Chúa
Kitô ở cùng Giáo Hội cho tới tận thế (xem Mt 28:20) mà c̣n là Hy Tế Cứu
Độ được kư thác cho Giáo Hội và Giáo Hội được lệnh (xem Luca 22:19) cử
hành và hiện thực qua phụng vụ Thánh Thể nói riêng và các Bí Tích Thánh
nói chung trên trần gian và cho trần gian, th́ quả thực, tự bản chất
Giáo Hội là truyền giáo, là mang ơn cứu độ đến cho nhân loại, là qui tụ
tất cả nhân loại lại nơi ḿnh để sửa soạn nghênh đón Người lại đến trong
vinh quang (xem Rev 21:2).
“Gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái” – về
sự sống
Cũng thế,
“gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân sủng và cầu nguyện” và “trở thành
một trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo” để làm ǵ, nếu không
phải để “trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái”. Gia
đ́nh không phải chỉ có vợ chồng mà c̣n bao gồm cả con cái nữa. Một trong
các mục đích chính yếu của đời sống hôn nhân gia đ́nh, đó là “sự sống”
tâm linh nói chung và “sự sống” về thể lư nói riêng. Nếu “gia đ́nh là
cộng đồng yêu thương và sự sống”, mà “yêu thương” trực tiếp liên quan
trước hết và trên hết tới đời sống hôn nhân vợ chồng thế nào th́ “sự
sống” về thể lư cũng trực tiếp liên quan đến con cái như thế.
Theo dự
án thần linh về hôn nhân gia đ́nh của Thiên Chúa Hóa Công con người được
dựng nên “có nam có nữ” (Gen 1:27) không phải chỉ để “yêu thương” nhau
giữa hai con người trở thành vợ chồng này, mà c̣n nhờ họ “yêu thương”
nhau, “nên một xác thịt” (Gen 2:24) với nhau, “sự sống” xuất hiện nơi
thành phần con cái là hoa trái “yêu thương” của họ. Đó là lư do, ngay
sau khi ghi nhận sự kiện Thiên Chúa Hóa Công đă dựng nên con người “có
nam có nữ” ở đoạn 1 câu 27, Sách Khởi Nguyên liền thuật lại ở câu 28
cùng đoạn, tác động ngay sau đó của Ngài là chúc phúc cho họ mà truyền
cho hai con người nam nữ này “sinh sôi nẩy nở cho đầy mặt đất và làm chủ
nó”.
Không
phải chính hữu thể của từng con người nam nữ này đă cho thấy ơn gọi liên
quan tới “sự sống” hay sao, qua vai tṛ làm cha hay làm mẹ của họ? Phải
nói rằng v́ ơn gọi làm cha mà một người trong họ đă được dựng nên là
người nam, với những bộ phận về thể lư xứng với một nam nhân cùng với
tâm lư của một nam tính. Cũng thế, v́ ơn gọi làm mẹ mà một người trong
họ đă được dựng nên là người nữ, với những bộ phận về thể lư xứng với
một nữ nhân cùng với tâm lư của một nữ nhân.
Tuy
nhiên, “sự sống” là hoa trái của “yêu thương” giữa hai con người nam nữ
vợ chồng không phải chỉ là thứ “sự sống” về thể lư nơi con cái, giống
như “sự sống” nơi con cái của loài thú, mà c̣n là và phải là “sự sống”
tâm linh và siêu nhiên nơi thành phần con cái của họ nữa. Nếu Thiên Chúa
dựng nên con người theo h́nh ảnh và tương tự như Ngài (xem Gen 1:26)
trên trần gian này là để loài tạo vật “nhân linh ư vạn vật” này được
muôn đời hiệp thông thần linh với Ngài, chứ không phải để họ “sống để mà
ăn” như con vật trên đời này rồi cuối cùng “chết là hết”, th́ “sự sống”
tâm linh, nhất là “sự sống” siêu nhiên, “sự sống” thần linh mới là ơn
gọi chính yếu của chung con người và là sứ vụ khẩn thiết của thành phần
làm cha mẹ đối với con cái của ḿnh. Có thể nói và phải nói rằng định
mệnh đời đời của con cái trực tiếp liên quan tới số phận đời đời của cha
mẹ. Có thể nào xẩy ra chuyện cha mẹ làm hư con cái mà lại được rỗi trong
khi chúng bị đời đời hư đi v́ lỗi của cha mẹ chúng hay chăng?
“Gia
đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái” ở đây không
phải là vấn đề con cái chưa có đức tin như người ngoài Kitô giáo, mà là
thành phần đă lănh nhận đức tin qua Phép Rửa khi c̣n là một em bé sơ
sinh nằm trên tay mẹ. Thế nhưng, đức tin này mới là một hạt giống được
gieo vào thửa ruộng của chung nhân tính và của riêng linh hồn em, rất dễ
bị chết đi hay không thể lớn lên được bởi cỏ lùng trong thửa ruộng nhân
tính của em là các mầm mống tội lỗi của nguyên tội. Đúng vậy, Phép Rửa,
nói chung, có tác dụng tha nguyên tội cùng với các h́nh phạt của nguyên
tội, thậm chí tha cả tư tội cùng với các h́nh phạt của tư tội nữa, trong
trường hợp người lớn lănh nhận bí tích này, nhờ đó, linh hồn vừa được
lănh nhận Phép Rửa mà chết ngay sau đó, chưa kịp phạm một tội lỗi ǵ
trong tư tưởng, lời nói và việc làm, sẽ được lên Thiên Đàng lập tức. Tuy
nhiên, Phép Rửa vẫn không tiêu diệt các mầm mống của nguyên tội.
“Gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái” – về
con người
Chính
mầm mống của nguyên tội này là những ǵ hằng gây trục trặc nơi nội tâm
của mỗi người, như Thánh Tông Đồ Phaolô đă cảm nhận và diễn tả trong Thư
Rôma ở đoạn 6 từ câu 14 đến 24, với lời than lên rằng: “Ôi tôi là một
con người khốn nạn là chừng nào! Ai có thể cứu tôi khỏi thân xác bị
quyền lực sự chết thống trị này đây?” Cuốn Toát Yếu Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo ở số 339 cũng đă đặt vấn đề “Tội lỗi đe dọa hôn nhân như
thế nào?” và sau đó trả lời rằng: “V́ nguyên tội đă gây đổ vỡ cho
sự hiệp thông, được Đấng Sáng Tạo ban tặng, giữa người nam và người nữ,
nên sự kết hợp hôn nhân luôn bị đe dọa bởi bất hoà và sự không thủy
chung. Tuy nhiên, với ḷng nhân từ vô bờ bến, Thiên Chúa ban cho người
nam và người nữ ân sủng để họ thực hiện sự kết hợp đời sống của họ theo
đúng ư định nguyên thủy của Ngài”.
Nếu mầm
mống nguyên tội đă gây rắc rối cho chính bản thân mỗi một con người làm
vợ hay làm chồng th́ c̣n trở thành một thách đố đến đâu nơi con cái nữa,
với những đam mê nết xấu của chúng, đối với thành phần làm cha làm mẹ.
Chưa hết, ngoài những đam mê nết xấu nơi bản thân ḿnh cũng như nơi con
cái, những chướng ngại hầu như tự nhiên không thể vượt qua, nơi chính
bản thân cha mẹ và con cái c̣n có những cá tính riêng, với những ư
thích, chủ trương và ước muốn riêng, th́ vấn đề giáo dục con cái lại
càng trở nên khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả, nhất là trong một
thời đại văn minh nhân quyền ở Tây phương là nơi con cái được bênh vực
và bảo vệ tối đa. Tuy nhiên, những ǵ con người không thể làm được th́
Thiên Chúa lại làm được. Bởi thế, chỉ cần làm sao cho “gia đ́nh trở
thành cộng đồng ân sủng và cầu nguyện”, chiều kích đầu tiên trong ba
chiều kích chính cho “gia đ́nh được gọi là giáo hội tại gia”, th́ không
c̣n khó là bao trong việc làm cho “gia đ́nh trở thành một trường dạy
nhân đức làm người và Kitô giáo”, tức làm cho thành phần làm cha làm mẹ
“yêu thương” nhau chân thực hơn và trọn hảo hơn, để rồi từ đó và nhờ đó,
họ có thể làm cho “gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin
cho con cái”.
Trong
việc “loan truyền đức tin cho con cái”, thành phần cha mẹ không phải chỉ
truyền dạy kiến thức căn bản về giáo lư cho con cái, chẳng hạn như bảo
chúng hay bắt chúng đọc kinh hằng ngày với gia đ́nh, thúc giục chúng
“giữ ngày Chúa Nhật” và “xưng tội một năm ít là một lần” v.v. Cũng trong
việc “loan truyền đức tin cho con cái”, công việc của cha mẹ không phải
chỉ quanh quẩn ở chỗ triệt để nhổ
những thứ cỏ dại nhú lên hay mọc lên trong đời sống của con cái ḿnh,
bằng những luật lệ khe khắt, những nhiếc mắng thậm tệ, những cấm đoán
ngột ngạt, những ḍ la bới móc, những so sánh nhục nhă v.v.
Vấn đề
chính yếu và quan trọng trong việc “loan truyền đức tin cho con cái” ở
đây là làm sao cho chúng có thể sống vượt lên trên cả những thực hành
đạo đức căn bản nữa, sống một cách tự do không sợ sệt, sống tự lập và ư
thức, sống một cách thực sự trọn lành và thánh thiện. Ở chỗ, biết kính
sợ Chúa và làm lành lánh dữ, biết phán đoán theo chân lư Phúc Âm, biết
chọn lựa những ǵ tốt lành theo Ư Chúa, ở chỗ “không hưởng thụ nhưng
phục vụ” (Mt 20:28), ở chỗ “vâng lời trọng hơn của lễ” (1Sam 15:22), ở
chỗ “hiền lành và khiêm nhượng trong ḷng” (Mt 11:29), ở chỗ quảng đại
thứ tha v.v. Một khi con cái của chúng ta có một tấm ḷng đạo đức và đời
sống lành thánh, chúng ta không c̣n phải lo sợ ǵ nữa, không phải lúc
nào cũng cần phải theo dơi chúng, trái lại, chúng c̣n thúc giục chúng ta
sống đạo và làm gương sống thánh cho chúng ta nữa là đàng khác.
“Gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái” – theo
phương thức
Muốn
“góp phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền
đức tin cho con cái” như thế, thành phần cha mẹ cần phải làm sao “góp
phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân sủng và cầu
nguyện” cũng như “góp phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành một
trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”.
Muốn
“góp phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền
đức tin cho con cái” như thế, thành phần cha mẹ cần phải làm sao “góp
phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân sủng và cầu
nguyện”, điển h́nh nhất là trường hợp của gia đ́nh Thánh Giáo Hoàng
Basiliô Cả, vị Giáo Phụ được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, trong bài giáo
lư cho buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần ngày 4/7/2007 đă nhận định
rằng: “Ngài được sinh vào đời khoảng năm 330 trong một gia đ́nh của
những vị thánh, ‘một Giáo Hội tại gia thực sự’, những con người đă sống
trong một bầu không khí sâu sa đức tin”, một gia đ́nh 10 người trong
đó có 6 vị thánh, (chưa kể bà của các người con cũng thánh là Macrina
the Elder), bao gồm người cha là Thánh Basiliô the Elder, người mẹ là
Thánh Nữ Emmelia, người chị là Thánh Macrina the Younger cùng 2 người em
trai là Thánh Grêgôriô Giám Mục Nyssa và Thánh Peter Giám Mục Sebaste.
Muốn
“góp phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền
đức tin cho con cái” như thế, thành phần cha mẹ cần phải làm sao “góp
phần vào việc làm cho gia đ́nh trở thành một trường dạy nhân đức làm
người và Kitô giáo”. Chẳng hạn trường hợp của Thánh Giáo Phụ Gioan Kim
Khẩu, vị được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong bài giáo lư cho buổi
triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần ngày 19/9/2007 nhận định rằng “Ngài
được sinh vào đời khoảng năm 349 ở Antiôkia xứ Syria (ngày nay là
Antakya Nam Thổ Nhĩ Kỳ). Ngài đă bị mất cha ở tuổi c̣n thơ và đă sống
với mẹ ngài là bà Anthusa, một người đă làm thấm nhập nơi ngài cái cảm
quan nhân bản cao quí và một niềm tin sâu xa Kitô Giáo”.
“Gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái” – một
mẫu gương
Một khi
quả thực “gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con
cái”, nhờ “gia đ́nh trở thành một cộng đồng ân sủng và cầu nguyện” cũng
như “trở thành trường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo”, “gia đ́nh
được gọi là giáo hội tại gia” này chắc chắn sẽ sinh hoa kết trái phong
phú, như nơi trường hợp gia đ́nh của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Về trường hợp của gia đ́nh
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong
tác phẩm “Tặng Ân và Huyền Nhiệm” kỷ niệm 50 năm linh mục của ḿnh được
phát hành 12/1996, ấn bản Anh Ngữ, trang 19, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đă cho biết ảnh hưởng đầu tiên liên quan tới ơn gọi linh mục của ngài
là gia đ́nh: “Việc chuẩn bị cho tôi lănh nhận thiên chức linh mục
ở chủng viện, một cách nào đó, đă được gia đ́nh tôi chuẩn bị cho tôi
trước đó, nhờ đời sống và gương sáng từ cha mẹ của tôi. Trước tiên, tôi
phải biết ơn cha tôi góa vợ lúc ngài c̣n trẻ. Tôi đă mất mẹ khi chưa
được Rước Lễ Lần Đầu: khi ấy tôi mới gần chín tuổi. Do đó tôi chưa ư
thức được rơ cho lắm những ǵ mẹ tôi đă đóng góp, chắc hẳn là lớn lắm,
vào việc giúp tôi sống đạo. Sau cái chết của mẹ, rồi đến cái chết của
anh tôi, tôi đă sống một ḿnh với cha tôi, một người có ḷng đạo đức sâu
xa. Hàng ngày tôi quan sát thấy lối sống khắc khổ của cha tôi. Cha tôi
đă sống đời binh nghiệp, và sau khi mẹ tôi qua đời, cuộc sống của cha
tôi trở thành một đời liên lỉ cầu nguyện. Đôi khi thức giấc nửa đêm, tôi
thấy cha tôi đang quỳ cầu nguyện, như tôi vẫn thường thấy ông quỳ trong
nguyện đường. Chúng tôi không bao giờ nói về ơn gọi linh mục, nhưng
gương sáng của người
cha
một cách nào đó là chủng viện đầu tiên của tôi, một loại chủng viện tại
gia”.
Nếu
chiều
kích thứ hai của “Gia Đ́nh được gọi là Giáo Hội tại gia” ở chỗ “gia đ́nh
trở thành một học đường dạy nhân đức làm người và Kitô giáo” quả thực đă
được thể hiện trọn hảo nơi một số gia đ́nh Kitô hữu, đặc biệt nhất là
nơi gia đ́nh của cặp vợ chồng Thánh Basil the Elder và Thánh Emmelia với
4 người con thánh,
Thánh
Macrina the
Younger, Thánh
Giám Mục
Giáo Phụ
Basiliô
Cả,
Thánh Giáo Phụ Gregory Giám Mục Nyssa, và Thánh Peter Giám Mục Sebaste,
như chúng ta đă nghe trong buổi phát thanh Tin Mừng Sự Sống tuần vừa rồi,
th́ chiều kích “gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho
con cái”
được thể hiện đặc biệt nơi gia đ́nh của cặp vợ chồng thánh Gregory
Nazianzen the Elder và Thánh Nonna với
3 người con thánh, Thánh
Giáo Phụ
Gregory Nazianzen the Younger, Thánh Caesarius và Thánh nữ Gorgonia.
Thánh
Gregory Nazianzen the Elder
vào đời
khoảng
năm
274. Ngài vừa
là một
điền
chủ
ở
Arianzus gần
Nazianzus
đồng
thời
cũng
là một
viên chức
cao cấp
trong chính quyền.
Về
vấn
đề
tâm linh và tín ngưỡng,
ngài tin thờ
thần
“Zeus hypsistos”. Nhưng
nhờ
người
vợ
Kitô giáo của
ḿnh, viên chức
cao cấp
45 năm
trong chính quyền
này
đă
trở
lại
Kitô giáo. Ngài
được
rửa
tội
vào năm
325 và dấn
thân sống
đức
tin Kitô giáo và sau
đó
4 năm
ngài
được
chọn
làm giám mục
ở
quê quán của
ḿnh là Nizianzius thành Cappadocia. Ngài
đă qua
đời
năm
374 hưởng
thọ
gần
100 tuổi.
Thánh
Nonna
là vợ
của
Thánh Gregory Nazianzen the Elder và là con gái của
một
người
Philantios. Thánh nữ
đă
sống
đời
làm vợ
và làm mẹ
Kitô giáo gương
mẫu,
luôn nỗ
lực
thực
hành các nhân
đức
Kitô giáo. Thánh nữ
rất
đạo
hành và nết
na, có một
tấm
ḷng thương
mến
người
nghèo khó. Nhất
là việc
Thánh nữ
dưỡng
dục
cả
3 người
con của
ḿnh sống
thánh
đức,
đặt
nền
tảng
nơi
các con cho tương
lai thánh
đức
của
các vị.
Thánh nữ
đă
qua
đời
vào năm
374, cùng năm
với
chồng,
ở
trong
nhà thờ
thánh nữ
thường
xuyên lui tới
và trong khi
đang
tham dự
Thánh Lễ.
Sau đây
là ba người
con
đều
làm thánh của
gia
đ́nh
cặp
vợ
chồng
Thánh Gregory Nazianzen the Elder và Thánh Nonna.
Thánh
Gregory Nazianzen the Younger
được
sinh ra vào khoảng
năm
330. Ngài học
ở
Caesarea xứ
Cappadocia cũng
như
ở
Caesarea xứ
Palestine, sau
đó
ở
Alexandria xứ
Ai Cập,
và sau cùng
ở
Nhă
Điển
gần
10 năm,
nơi
ngài
đă
trở
thành bạn
thân của
Thánh Basiliô Cả.
Vào khoảng
năm
358 ngài trở
về
Nazianzius và làm giáo sư
hùng
biện
một
thời
gian ngắn.
Cho tới
bấy
giờ
ngài mới
quyết
định
lănh nhận
phép rửa.
Có lúc ngài
đă
muốn
trở
thành một
đan
sĩ.
Năm
362, hoàn toàn ngoài ư muốn
của
ḿnh, theo lời
yêu cầu
của
cộng
đồng
dân chúng nơi
quê quán của
ngài, ngài
đă
thụ
phong linh mục
bởi
vị
giám mục
thân phụ
của
ngài là Thánh Gregory Nazianzius the Elder. Sau
đó
ngài
đă
trốn
vào nơi
hoang vắng
và biện
minh cho hành
động
của
ḿnh bằng
cuốn
Apologia for His Flight về
phẩm
vị
và gánh nặng
của
thiên chức
linh mục.
Tuy nhiên, chẳng
bao lâu,
ngài đă
trở
về
Nizianzius giúp vị
giám mục
cha ḿnh
để
cai quản
và chăm
sóc mục
vụ
trong giáo phận
của
cha. Ngài
được
giám mục
bạn
ḿnh là Thánh Basiliô Cả
tấn
phong giám mục
và sau khi vị
giám mục
thân phụ
của
ngài qua
đời
năm
374, ngài
đă
tạm
thay cha
coi sóc giáo phận
của
cha. Tuy nhiên, chẳng
bao lâu ngài lại
dấn
thân sống
đời
đan
tu
ở
Seleucia. Thế
nhưng,
vào năm
379, ngài
đă
chấp
nhận
coi sóc và tái thiết
giáo phận
Constantinople bấy
giờ
đang
bị
khủng
hoảng.
Tuy nhiên, trước
những
t́nh huồng
ngoài
ư muốn,
ngài
đă
từ
nhiệm
vai tṛ lành
đạo
giáo phận
Constantinople và tiếp
tục
chăm
sóc cho giáo phận
nhà Nizianzius 2 năm.
Ngài
đă
sống
những
năm
tháng c̣n lại
trong
đời
của
ngài
ở
gia sản
do cha ngài
để
lại
ở
Arianzus gần
Nazianzus, nơi
ngài biên soạn
những
tác phẩm
thần
học
quan trọng,
nhất
là về
mầu
nhiệm
Chúa Ba Ngôi liên quan tới
sự
thật
đồng
bản
thể
của
Chúa Con với
Chúa Cha cũng
như
của
Chúa Thánh Thần
với
cả
Cha lẫn
Con.
Thánh
Caesarius
là con thứ
hai trong ba người
con của
gia
đ́nh
cặp
vợ
chồng
Thánh Gregory Nizianzus the Elder và Thánh Nonna. Ngài đă
theo học
ở
Alexandria Ai Cập
các môn h́nh học,
thiên văn
và y dược.
Sauk hi trở
về
quê quán Nazianzus của
ḿnh, ngài
đă
hành nghề
y dược,
thành công tới
độ
ngài
đă
chiếm
được
ḷng tin tưởng
của
Hoàng
Đế
Constantius, vị
đă
triệu
ngài
đến
Constantinople. Cả
vị
tân hoàng
đế
là Julian the Apostate cũng
bổ
nhiệm
ngài làm vị
lương
y cho triều
đ́nh
của
hoàng
đế,
cho dù thánh nhân không chấp
nhận
quan
điểm
về
nhân sinh của
vị
hoàng
đế
này. Sau
đó
ngài
được
Hoàng
Đế
Jovinian bổ
nhiệm
làm quan coi quốc
khố
ở
Bithynia.Ở
đó,
ngài thoát chết
một
cách lạ
lùng dưới
đống
đổ
nát gây ra bởi
trận
động
đất
năm
368. Thế
là ngài
đă
từ
nhiệm
tất
cả
mọi
vị
thế
trong xă hội
và chính trị
để
lo phần
rỗi
của
ḿnh. Ngài
đă
lănh nhận
Phép Rửa
và
đă
sống
một
cuộc
sống
thống
hối
và phục
vụ
người
nghèo là thành phần
ngài
đă
bán hết
mọi
sự
ngài có
để
giúp họ.
Ngài chết
bất
ngờ
vào năm
369. Người
anh giám mục
của
ngài là Thánh Gregory of Nazianzius the Younger
đă
ngỏ
cùng ngài bài
điếu
văn
an táng.
Thánh
Gorgonia
là người
con gái út trong 3 người
con của
cặp
vợ
chồng
Thánh Gregory Nizianzus the Elder và Thánh Nonna. Khi c̣n trẻ,
thánh nữ
đă
được
gả
cho một
người
Alipius xứ
Iconium, và hai vợ
chồng
thánh nữ
đă
có 5 người
con, 2 trai và 3 gái. Thánh nữ
đă
sống
một
cuộc
đời
làm vợ
và làm mẹ
rất
gương
mẫu.
Thánh nữ
đă
qua
đời
vào năm
370, một
năm
sau người
anh Caesarea và 4 năm
trước
cha mẹ
của
thánh nữ.
Trong lúc hấp
hối,
vị
linh hướng
của
thánh nữ
là Thánh Basiliô Cả
đă
có mặt.
Và người
anh giám mục
của
thánh nữ
là Thánh Gregory Giám Mục
Nazianzus the Younger
đă
ngỏ
những
lời
phúng
điếu
với
thánh nữ.
Thánh Gregory Giám Mục
Nazianzus the Younger qua
đời
năm
390, muộn
nhất
trong cả
gia
đ́nh
5 người
của
ngài, nên ngài
đă
lưu
lại
cho biết
về
các chi tiết
liên
quan tới
đời
sống
của
các phần
tử
trong gia
đ́nh
ngài qua các bài
điếu
văn
của
ngài mỗi
khi có người
thân yêu trong gia
đ́nh
của
ngài qua
đời.
“Gia đ́nh trở thành nơi đầu tiên loan truyền đức tin cho con cái”: Áp
dụng thực hành
1.
Hăy luôn ư thức rằng con cái là của Chúa hơn là của ḿnh,
thuộc về Chúa hơn về ḿnh là cha mẹ của chúng. V́ thành phần cha mẹ
chúng ta không biết con cái ḿnh sẽ được thụ thai hay chăng khi
chúng ta làm việc vợ chồng, hay có thụ thai th́ đích xác vào lúc nào,
rồi sau đó thành h́nh ra sao trong ḷng mẹ, nam hay nữ, mặt mũi cùng
tính nết chúng ra sao, tương lai chúng thế nào?...
2.
V́ con cái là của Chúa và thuộc về Chúa hơn là của ḿnh và
thuộc về ḿnh như thế mà cha mẹ chúng ta cần phải dưỡng dục chúng
theo ư Chúa hơn ư ḿnh, cho dù những ǵ xẩy ra cho chúng hay những
ǵ chúng muốn trái nghịch với ư muốn của chúng ta là thành phần mất
công dưỡng dục chúng. Trái lại, hăy dưỡng dục chúng làm sao để trọn
vẹn trả chúng về cho Chúa và dâng lên Chúa như một của lễ đẹp ḷng
Chúa nhất.
3.
Nếu có thể và cố gắng bao nhiêu có thể giành giờ đích thân
dạy giáo lư cho con cái, nhất là chia sẻ Lời Chúa với con cái theo
phụng vụ hằng tuần. Thảo
luận về những biến cố hay vấn đề luân lư thời đại đang xẩy ra hay
vừa xẩy ra trong xă hội. Cố gắng giải đáp những vấn nạn về đức tin
và luân lư cho con cái bao nhiêu có thể, theo luật tự nhiên, theo
Thánh Kinh và huấn quyền của Giáo Hội.
4.
Cố gắng làm gương tốt bao nhiêu có thể, nhất là về gương sống
đức tin, đặc biệt qua những cuộc thử thách và gian nan khốn khó của
gia đ́nh, và sẵn sàng xin lỗi con cái khi làm bất cứ điều ǵ gây
gương mù gương xấu cho chúng. Hăy giáo dục con cái để làm sao chiều
chúng - chúng vẫn không hư, phạt chúng - chúng vẫn không hận, lầm
lỗi - chúng vẫn kính trọng.
5.
Làm sao để tạo cho con cái cảm thấy gia đ́nh thực sự là một
tổ ấm, chứ không phải là một ngục tù, lúc nào cũng muốn vượt thoát.
Làm sao cho con cái cảm thấy không đâu bằng ở nhà, đi đâu rồi cũng
muốn về nhà, nhưng không phải chỉ biết có gia đ́nh ḿnh, không màng
chi tới các gia đ́nh khác, trái lại, tích cực
tham gia sinh hoạt cộng đoàn và các hội đoàn tông đồ.
6.
Hăy giáo dục con cái như một người lớn c̣n nhỏ (như trường
hợp Chúa Giêsu bao giờ
cũng cao cả trước mắt Mẹ Maria), sẽ dễ tôn trọng chúng hơn là như
một đứa nhỏ chưa lớn dễ bị coi thường. Đừng để xẩy ra t́nh trạng lạc
mất con ngay trong nhà của ḿnh. Con sống với ḿnh đó mà ḿnh vẫn
không biết nó đang ở đâu, vẫn cứ đi t́m nó!
Lạy
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống,
Chúa
đă được sinh ra bởi một người nữ vào lúc thời gian viên trọn
để
cho nhân loại chúng con được làm nghĩa tử của Cha trên trời.
V́
gia đ́nh là cửa vào trần gian của Chúa,
và v́
Chúa đă biến đổi t́nh yêu tự nhiên của thành phần làm nên gia đ́nh
là vợ
chồng, cha mẹ và con cái trở thành một thứ rượu hảo hạng nơi Bí Tích Hôn
Phối,
xin
Chúa hăy tiếp tục tỏ vinh quang của Chúa ra như ở tiệc cưới Cana xưa,
để
gia đ́nh nói chung được thực sự trở thành một cộng đồng yêu thương và sự
sống,
và để
gia đ́nh Kitô hữu nói riêng trở thành một Giáo Hội Tại Gia như Chúa muốn.
Amen.
|
|