“BỎ CHA MẸ GẮN BÓ
VỚI VỢ”’?
hân phận của một người
con gái lớn lấy chồng, theo Khổng Giáo, là “xuất giá ṭng phu”, tức
là, theo ngôn ngữ b́nh dân Việt Nam, “lấy chồng th́ phải theo chồng”.
Văn hóa này dường như cũng là văn hóa chung, là đường lối chung của
nhân loại, chỉ trừ ở một vài nơi c̣n theo chế độ mẫu hệ, như nhóm
người Thượng ở Di Linh Việt Nam chẳng hạn, c̣n “đi bắt chồng” và
chồng phải về ở với vợ. Tục lệ Do Thái cũng chủ trương “lấy chồng
th́ phải theo chồng” như văn hóa Việt Nam. Chẳng hạn trường hợp của
Tôbia con đi lấy vợ và dẫn vợ về với ḿnh (xem Tobia 9:7-14), hay
trường hợp của Thánh Giuse và Mẹ Maria, như Phúc Âm thánh Luca thuật
lại, sau khi Thánh Giuse được thiên thần cho biết việc Mẹ Maria thụ
thai bởi Chúa Thánh Thần, th́ “ngài đă làm như thiên thần Chúa chỉ
dẫn và lănh nhận Mẹ về nhà làm bạn ḿnh” (1:24).
Thế mà, theo Sách Khởi
Nguyên, ngay từ ban đầu, sau khi con người được dựng nên có nam có
nữ, và sau khi con người nhận ra xương thịt của ḿnh nơi đồng bạn
xứng hợp với ḿnh, th́ Thánh Kinh mạc khải cho biết: “Đó là lư do
tại sao người nam ĺa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh” (Gn.2:24).
Nếu “người nam ĺa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh” như thế th́ ở
đây chồng theo vợ chứ đâu có phải là vợ theo chồng! Vậy th́ văn hóa
hôn nhân của chung con người từ trước đến nay đă đi ngược lại với ư
định của Thiên Chúa rồi sao? Những bàn giải sau đây sẽ làm sáng tỏ
vấn đề này.
Trước hết, cũng theo
Sách Khởi Nguyên, đoạn 2, nếu Thiên Chúa dựng nên người nữ từ
con người đầu tiên tự bẩm sinh mang nam tính là Adong, và mục đích
Thiên Chúa dựng nên người nữ cho con người mang nam tính là
để người nữ trở thành một đồng bạn xứng hợp với con người tự bẩm
sinh mang nam tính sống một ḿnh không tốt, th́ với tư cách làm vợ
của ḿnh, tức làm đồng bạn xứng hợp của người nam, người nữ thuộc về
người nam và phải theo người nam là chồng của ḿnh.
Sau nữa, Sách Khởi
Nguyên nói về việc con người nam nhân làm chồng đây “ĺa bỏ cha mẹ”,
trong khi Adong không hề được sinh ra bởi một cha mẹ nào, mà là được
chính Thiên Chúa tạo thành từ bụi đất và bằng hơi thở thần linh của
Ngài. Bởi vậy, việc con người nam nhân làm chồng “ĺa bỏ cha mẹ” đây
không có nghĩa đen là theo vợ, về ở với vợ, như trường hợp vợ theo
chồng và về ở với chồng vẫn thấy nơi trường hợp của người nữ làm vợ
từ trước đến nay. Đúng hơn, việc con người nam nhân làm chồng “ĺa
bỏ cha mẹ” đây là việc họ theo ơn gọi làm chồng của ḿnh, như nam nữ
theo ơn Chúa gọi th́ bỏ nhà đi tu, hay như trường hợp Abram theo ơn
Chúa gọi th́ rời bỏ quê cha đất tổ để đi đến nơi Chúa chỉ cho (xem
Gn.12:1). Vậy ơn gọi làm chồng của con người nam nhân đây là ǵ, nếu
không phải là, như Sách Khởi Nguyên, ngay sau khi nói về việc Adong
“ĺa bỏ cha mẹ”, liền nói “gắn bó với vợ ḿnh”.
Phải, ơn gọi của người
làm chồng đó là “gắn bó với vợ ḿnh”. Không phải hay sao, ơn gọi làm
chồng này, theo tự nhiên, đă gắn liền với con người mang nam tính? Ở
chỗ, khi c̣n “ở một ḿnh không tốt”, tức là khi tới tuổi dậy th́ mà
c̣n độc thân, nam nhân tự nhiên như luôn luôn bị thúc đẩy, hay nói
cách khác, vốn có khuynh hướng t́m kiếm “xương bởi xương tôi, thịt
bởi thịt tôi”. Việc nam nhân t́m kiếm nữ giới, qua việc đi “cua”,
“tán”, “theo” phái đẹp đây không phải là dấu hiệu chứng tỏ ơn gọi
“gắn bó với vợ ḿnh” khi lập gia đ́nh hay sao?
“NÊN MỘT XÁC THỊT”
hế nhưng, người chồng
phải thực hiện ơn gọi “gắn bó với vợ ḿnh” bằng cách nào và như thế
nào mới đúng như ư Đấng đă xe duyên kết nghĩa cho ḿnh, như chính
Ngài đă dựng nên Evà và c̣n đích thân mang Evà đến cho Adong, để
chính thức kết duyên cho đôi uyên ương nguyên tổ trong vườn địa
đàng, lúc mà cả hai đang ngây ngất hồn nhiên với bộ áo cưới “trần
truồng không biết xấu hổ”. Cũng ngay trong cùng một đoạn và câu của
Sách Khởi Nguyên trên đây, sau khi nói đến chuyện con người nam tính
“ĺa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh”, Mạc Khải Thánh Kinh liền tiết
lộ bản chất làm nên hôn nhân nói chung và ư nghĩa sâu xa của ơn gọi
làm chồng nói riêng, qua câu: “và trở nên một thân thể với vợ”.
Đúng vậy, để thể hiện
ơn gọi làm chồng là “gắn bó với vợ ḿnh”, con người nam tính phải
“trở nên một thân thể với vợ”. Hay nói cách khác, “trở nên một thân
thể với vợ” là người chồng hoàn thành ơn gọi làm chồng của ḿnh. Thế
nhưng, thực tế cho thấy, về sinh lư hay thể lư, người chồng không
thể nào “trở nên một thân thể với vợ” được. Do đó, chữ “thân thể”
đây phải hiểu là bản thân ḿnh, bản thân người chồng, tức là người
vợ của người chồng, đúng như văn hóa Việt Nam vẫn cho phép người
chồng gọi vợ là “ḿnh”, và đúng như lời Thánh Phaolô khuyên người
làm chồng là “phải yêu thương vợ ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh.
Ai yêu vợ ḿnh là yêu chính bản thân ḿnh” (Eph.5:28). Như thế, để
“trở nên một thân thể với vợ” hầu có thể thực hiện trọn vẹn và hoàn
hảo ơn gọi làm chồng của ḿnh, người chồng “phải yêu thương vợ ḿnh
như yêu thương bản thân ḿnh”.
Nói tóm lại yêu thương
vợ ḿnh là ơn gọi của người làm chồng, hay nói ngược lại, ơn gọi của
người làm chồng là yêu thương vợ ḿnh. Người chồng nào cảm thấy cuộc
sống hôn nhân với vợ ḿnh không c̣n hay không có hạnh phúc th́ trước
hết hăy xét lại xem ḿnh đă chu toàn hay đă hết sức thực hiện ơn gọi
“yêu thương vợ ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh” chưa? Nếu rồi th́
họ có khổ cũng đừng lo, tới thời điểm Chúa định, Ngài sẽ giải quyết
mọi sự tốt đẹp cho họ, như Ngài đă thực hiện trong trường hợp của
Thánh Giuse (xem Mt.1:18-25).
Tuy nhiên, cả Thánh
Kinh lẫn thực tế cho thấy, cũng không thiếu những trường hợp người
chồng “yêu thương vợ ḿnh như yêu thương bản thân ḿnh” mà vẫn không
hoàn trọn ơn gọi làm chồng của ḿnh, trái lại, c̣n tác hại đến chính
bản chất hôn nhân là “trở nên một thân thể với vợ” nữa. Điển h́nh
nhất là trường hợp của đôi uyên ương nguyên tổ trong vườn địa đàng.
Adong đă chẳng yêu thương vợ ḿnh hay sao, đến nỗi, như chính Thiên
Chúa cũng nhận thấy là “ngươi đă nghe vợ mà ăn cây Ta cấm ngươi ăn”
(Gn.3:17). Ở đây, tuy Adong không ghét vợ hay không c̣n hợp với vợ
ḿnh đă tự ḿnh “chọn” chứ không ai ép, để có thể đi đến chỗ ly dị
vợ ḿnh như ngày nay, nhưng t́nh của Adong yêu Evà cũng đă làm cho
hai người, thay v́ “trở nên một thân thể”, lại gặp phải t́nh trạng
ly thân đáng thương.
Đúng thế, sau khi yêu
thương nhau cách hồn nhiên nhưng ngang trái với ư muốn của Thiên
Chúa, đôi uyên ương nguyên tổ đă không ly thân nhau là ǵ, khi hai
người, về thể lư, tuy là vợ chồng với nhau, mỗi người cũng phải t́m
cách che giấu đi “cái” phái tính đặc thù (private part) của ḿnh,
chứ không c̣n là một thân thể khi “cả hai trần truồng mà không biết
xấu hổ” (Gn.2:25) nữa. Về tâm lư, đôi uyên ương nguyên tổ cũng không
ly thân nhau là ǵ, khi Adong bị Chúa hạch hỏi “ai đă bảo cho ngươi
biết rằng ngươi trần truồng?” (Gn.3:11) liền đổ lỗi cho Evà: “Người
nữ mà Chúa cho ở với tôi đă đưa cho tôi trái cây đó nên tôi đă ăn”
(Gn.3:12).
“NGƯỜI NỮ CHÚA CHO Ở VỚI TÔI”
hành ngữ “người nữ mà
Chúa cho ở với tôi”, được thốt ra từ cửa miệng Adong đây, chẳng
những nói lên việc vợ theo chồng hơn là chồng theo vợ, mà c̣n nói
lên việc Adong ư thức được hôn nhân là một ơn gọi chứ không phải là
chỉ việc t́m kiếm để đáp ứng cho thỏa măn nhu cầu tâm sinh lư tự
nhiên tới thời của nó nơi con người phái tính của ḿnh. Chính v́
ngày nay người ta theo văn hóa hôn nhân “pro choice”, tức chủ trương
tôi có quyền chọn ư trung nhân th́ tôi cũng có quyền bỏ, có quyền
chọn lại, mới xẩy ra t́nh trạng ly dị và phá sản hôn nhân như ngày
nay, và từ đó lây sang t́nh trạng phá thai khủng khiếp như bây giờ.
Hiện tượng ly dị được pháp lư hóa cho thấy hết sức rơ ràng là con
người cực kỳ văn minh ngày nay qúa ấu trĩ, không biết chọn lựa ǵ cả,
chọn ǵ cũng không xong, không được như ư, thay đổi, chóng chán, như
trẻ con!
Thế nên, tới khi nào
con người ư thức được hôn nhân là một ơn gọi, ở chỗ, người bạn đời
của ḿnh là do Thiên Chúa chọn cho ḿnh, ḿnh chỉ là người chấp nhận
nhau từ Ngài, như Adong đă chấp nhận Evà từ tay Thiên Chúa trong
vườn địa đàng như “người nữ Chúa cho ở với tôi”, hôn nhân của con
người mới thực sự có ư nghĩa, bền bỉ và hạnh phúc. Bởi v́, một khi ư
thức được người bạn đời của ḿnh là “người Chúa cho ở với” ḿnh th́
vợ chồng mới kính trọng nhau như là người của Chúa, chứ không phải
chỉ yêu thích nhau như là người của ḿnh, cho
đến khi không thích nữa th́ bỏ, th́ t́m người khác. Và
v́ vợ chồng là “người Chúa cho ở với” ḿnh như thế, nên phản bội
nhau là phản bội Chúa trước hết, là “phân rẽ những ǵ Thiên Chúa đă
kết hợp” (Mt.18:6).
Nếu Adong ư thức được
hôn nhân là một ơn gọi và đă yêu thương “gắn bó với vợ ḿnh” là
“người Chúa cho ở với” ông, mà c̣n chưa hoàn tất được ơn gọi làm
chồng của ḿnh, và nếu Thánh Giuse là “một con người công chính”
(Mt.1:19) c̣n gặp bị thử thách trong đời sống hôn nhân đến gần như
làm cho hôn nhân bất thành, th́ vợ chồng nói chung và người làm
chồng nói riêng ngày nay, không nhiều th́ ít, không nặng th́ nhẹ,
làm sao có thể hoàn toàn tránh được những cơn băo El Nĩno tàn phá
hay dập vùi hạnh phúc hôn nhân, chứ chưa nói đến việc “Chúa Kitô yêu
thương Giáo Hội thế nào, các người chồng cũng phải yêu thương vợ
ḿnh như vậy” (Eph.5:25).
Phải, chỉ có t́nh yêu
Chúa Kitô đối với Giáo Hội nơi thành phần làm chồng mới có thể giải
nguy cho t́nh trạng hôn nhân đang phá sản khủng khiếp ngày nay. Nếu
Adong, khi c̣n trong t́nh trạng công chính nguyên thủy chưa biết đến
tội lỗi là ǵ, mà thấy được gương của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội
để mà noi theo, th́ chưa chắc Adong đă yêu thương Evà vợ ḿnh ngang
trái và tai hại như thế. Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội. Adong cũng
yêu thương Evà. Tuy nhiên, t́nh yêu của Chúa Kitô đă thánh hóa Giáo
Hội (xem Eph.5:27), trong khi t́nh yêu của Adong lại làm cho Evà
phải mang nặng đẻ đau (xem Gn.3:16).
Vậy, nếu ơn gọi của
người làm chồng là “gắn bó với vợ ḿnh”, bằng việc “trở nên một thân
thể với vợ”, được thể hiện nơi mối t́nh “yêu thương vợ ḿnh như yêu
thương bản thân ḿnh”, không phải như kiểu cách của ḿnh mà là “như
Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội và đă hiến ḿnh cho Giáo Hội”, th́ xin
thánh Giuse, vị phu quân công chính đă hết ḿnh yêu thương Mẹ Maria
là người Chúa cho ở với ngài, khi ngài vui nhận Mẹ về nhà làm bạn,
để phục vụ Mẹ và Chúa Giêsu như một người “làm đầu là làm tôi tớ”
(Mt.20:27), cầu xin cho mỗi một người làm chồng và làm gia trưởng
trong gia đ́nh, được tràn đầy Chúa Thánh Thần là T́nh Yêu ban Sự
Sống.
(bài này
đă được phổ biến trên Bản Tin Song Nguyền của Chương Tŕnh Thăng
Tiến Hôn Nhân 3/1998, và Tam Cá Nguyệt San Vào Đời, 6/2000)