“MẸ CÁC SINH LINH”
ói đến Evà, người ta
đều biết đó là vị nữ nguyên tổ của loài người. Đúng thế, theo Thánh
Kinh Do Thái Giáo cũng như Kitô Giáo, sau khi hai nguyên tổ loài
người là Adong và Evà sa ngă phạm tội mất ḷng Thiên Chúa là Đấng đă
tạo dựng nên các vị và cho các vị sống trong vườn địa đường, qua
việc các vị ăn trái cây biết lành biết dữ ở giữa vườn là cây bị Ngài
cấm, và sau khi các vị cùng với con rắn qủi cám dỗ nữ nguyên tổ lănh
bản án Thiên Chúa tuyên phạt, th́ Sách Khởi Nguyên ở đoạn 3 câu 20
ghi lại rằng: “Con người gọi vợ ḿnh bằng tên Evà, v́ nàng đă là mẹ
của tất cả các sinh vật”.
Thật vậy, nếu ơn gọi
của Adong là ơn gọi làm chồng Evà, ở chỗ, cũng theo bộ Thánh Kinh
này, trong đoạn 2 câu 24 của cùng Sách Khởi Nguyên: “Con người ĺa
bỏ cha mẹ ḿnh mà gắn bó với vợ ḿnh”, th́ quả thật “Ơn Gọi của Evà
là Làm Mẹ Sinh Linh”, tức ơn gọi của Evà không phải chỉ ở tại việc
hiến thân cho chồng ḿnh để “cả hai trở nên một xương thịt”
(Gn.2:24) mà thôi. Bởi v́, nước không bao giờ chảy ngược thế nào,
t́nh yêu con người cũng phải xuôi chiều như vậy, tức là theo tiến
tŕnh tự nhiên phát xuất từ Adong yêu thương gắn bó với Evà để rồi,
nhờ được Adong yêu thương, Evà có thể đóng vai tṛ làm mẹ. Thế nên,
bao giờ con người được dựng nên “có nam có nữ” (Gn.1:27) đi ngược
chiều hay đi sai lệch với tiến tŕnh ơn gọi hôn nhân do Thiên Chúa
Tối Cao vô cùng khôn ngoan xếp định này, họ khó ḷng có thể tránh
được tai nạn xẩy đến cho ḿnh, như cơn khủng hoảng xă hội ngày nay
bắt nguồn từ hôn nhân và gia đ́nh đă chứng thực hết sức rơ ràng. Về
vấn đề này, trong bài “Ơn Gọi của Adong: Gắn Bó với Vợ” (trang
104-105) người viết đă nhận định như sau:
·
Chính v́ ngày
nay người ta theo văn hóa hôn nhân “pro choice”, tức chủ trương tôi
có quyền chọn ư trung nhân th́ tôi cũng có quyền bỏ, có quyền chọn
lại, mới xẩy ra t́nh trạng ly dị và phá sản hôn nhân như ngày nay,
và từ đó lây sang t́nh trạng phá thai khủng khiếp như bây giờ. Hiện
tượng ly dị được pháp lư hóa cho thấy hết sức rơ ràng là con người
cực kỳ văn minh ngày nay qúa ấu trĩ, không biết chọn lựa ǵ cả, chọn
ǵ cũng không xong, không được như ư, thay đổi, chóng chán, như trẻ
con! Thế nên, tới khi nào con người ư thức được hôn nhân là một ơn
gọi, ở chỗ, người bạn đời của ḿnh là do Thiên Chúa chọn cho ḿnh,
ḿnh chỉ là người chấp nhận nhau từ Ngài, như Adong đă chấp nhận Evà
từ tay Thiên Chúa trong vườn địa đàng như “người nữ Chúa cho ở với
tôi”, hôn nhân của con người mới thực sự có ư nghĩa, bền bỉ và hạnh
phúc.
Đúng thế, nếu con
người nam nữ sống đời vợ chồng với nhau, đặc biệt trong thời
khoa học kỹ thuật tối tân tiến ngày nay, không ư thức hôn nhân
là một ơn gọi, th́ như thực tế cho thấy, không sớm th́ muộn,
hôn nhân của họ cũng sẽ trở thành một thứ tṛ chơi, mà hậu quả
là con cái vô tội của họ sẽ trở thành một món đồ chơi.
“VẤN ĐỀ SINH SẢN”
ầm quan trọng của việc
ư thức ơn gọi hôn nhân liên hệ đến “vấn đề sinh sản” đă được Đức
Phaolô VI nhấn mạnh trong Thông Điệp Sự Sống Con Người ở đoạn 7 như
sau:
·
“Vấn đề sinh
sản, giống như mọi vấn đề khác liên quan đến sự sống con người, phải
được cứu xét vượt ra ngoài cả những quan điểm riêng rẽ - dù là trật
tự sinh lư hay tâm lư, dân số hay xă hội - tức phải được cứu xét
theo ư nghĩa của một cái nh́n toàn diện về con người và về ơn gọi
của họ, chẳng những ơn gọi tự nhiên và trần thế, mà c̣n cả ơn gọi
siêu nhiên và vĩnh cửu của họ nữa”.
Thế nhưng, ư thức ơn
gọi hôn nhân là ǵ, nếu không phải là nhận biết nguồn gốc thần linh
của t́nh yêu hôn nhân để sống đúng bản chất và sứ mệnh đích thức của
t́nh yêu này. Chính v́ thế, trong cùng một bức Thông Điệp Sự Sống
Con Người, ngay sau khi đề cập đến vấn đề hôn nhân là một ơn gọi,
Đức Phaolô VI đă nhắc lại giá trị của “t́nh yêu hôn nhân” như sau:
·
“T́nh yêu hôn
nhân biểu tỏ bản chất và cao qúi chân thực của ḿnh khi nó được coi
như phát xuất từ nguồn gốc tối cao là Thiên Chúa, Đấng là t́nh yêu
(x.1Jn.4:8), là ‘Cha mà mọi gia đ́nh trên trời dưới đất mang tên
gọi’ (x.Eph.3:15). Thế nên, hôn nhân không phải là kết quả của ngẫu
nhiên hay sản vật của một cuộc tiến hóa bởi những năng lực vô thức
tự nhiên; nó là một cơ cấu khôn ngoan của Đấng Hóa Công để thể hiện
nơi con người dự án yêu thương của Ngài. Nhờ việc hỗ tương trao tặng
bản thân ḿnh cho nhau, xứng hợp và toàn thể, vợ chồng hướng đến một
cuộc hiệp thông hữu thể của ḿnh liên hệ đến tầm vóc toàn hảo chung,
để hợp tác với Thiên Chúa trong việc sản sinh và giáo huấn các cuộc
sống mới” (đoạn 8)...
·
“Hôn nhân và
t́nh yêu phối ngẫu, tự bản chất của ḿnh, là để sinh sản và giáo dục
con cái. Con cái thật sự là qùa tặng cao cả của hôn nhân và đóng góp
rất trọng yếu cho việc an toàn của cha mẹ ḿnh” (đoạn 9).
Với ư thức ơn gọi hôn
nhân như thế, trong thực hành, vợ chồng c̣n cần phải tỏ ra bằng việc
làm, nhất là ở việc sinh sản con cái là mục đích chính yếu của hôn
nhân và là căn nguyên sâu xa làm nên hôn nhân. Thế nên, theo gịng
tư tưởng được bố cục thứ tự hết sức mạch lạc của ḿnh, Thông Điệp Sự
Sống Con Người tiếp tục diễn đạt ở đoạn 10 về “việc truyền sinh”
chân chính thế này:
·
“Thế nên,
trong việc truyền sinh, cha mẹ không được tự do tiến hành hoàn toàn
theo ư ḿnh, như thể họ có thể định đoạt một cách hoàn toàn tự động
đường lối xứng hợp phải theo; song họ phải tác động hợp với ư định
sáng tạo của Thiên Chúa, được thể hiện ngay nơi bản chất của hôn
nhân cũng như của việc làm hôn nhân, và được biểu lộ bằng giáo huấn
liên tục của Giáo Hội”.
Tuy nhiên, để áp dụng
trọn vẹn và xác đáng ư thức ơn gọi hôn nhân trong việc truyền sinh
vào thời điểm hiện nay không phải là một chuyện dễ, như những người
làm cha làm mẹ chúng ta hầu như ai cũng cảm thấy. Để giải đáp vấn đề
ngừa thai xứng hợp với ơn gọi hôn nhân cao cả, Thông Điệp Sự Sống
Con Người, sau khi tỏ ra thông cảm với các cặp vợ chồng gặp những
khó khăn trong việc sinh dưỡng con cái, đă dứt khoát chủ trương của
ḿnh ở đoạn 16 như sau:
·
“Nếu vậy, một
số người có thể đặt vấn đề: vào hoàn cảnh hiện nay, không hợp lư hay
sao, trong nhiều trường hợp cần phải sử dụng đến phương pháp ngừa
thai nhân tạo, nếu nhờ đó chúng tôi bảo toàn được sự ḥa thuận và
b́nh an trong gia đ́nh, cũng như tạo điều kiện tốt hơn cho việc giáo
dục những đứa con đă được sinh ra? Về vấn đề này, cần phải trả lời
một cách rơ ràng minh bạch như sau: Giáo Hội là người đầu tiên ca
ngợi và khuyến khích việc can thiệp sáng suốt vào phận sự được gắn
sát với tạo vật có lư trí trước Đấng Tạo Hóa; thế nhưng, Giáo Hội
xác nhận rằng, việc này phải được thực hiện theo sự tôn trọng trật
tự được Thiên Chúa thiết lậïp. Bởi thế, nếu có lư do quan trọng
trong việc co giăn sinh nở, gây ra do t́nh trạng thể lư hay tâm thần
của vợ chồng, hay những hoàn cảnh ngoại tại, Giáo Hội dạy rằng, bấy
giờ cần phải căn cứ vào chu kỳ tự nhiên trong phần hành truyền sinh,
để làm việc vợ chồng trong thời kỳ không đậu thai mà thôi, và nhờ
cách này mà điều hành việc sinh sản mới không vi phạm đến những
nguyên tắc luân lư...”.
Nếu không theo nguyên
tắc và đường lối chính đáng hợp với “trật tự được Thiên Chúa thiết
lập” để “không vi phạm đến những nguyên tắc luân lư” này, con người
sẽ đưa cuộc sống hôn nhân của ḿnh nói riêng, và gia đ́nh của ḿnh
nói chung, thậm chí cả xă hội loài người của ḿnh nữa, đến một t́nh
trạng được Thông Điệp Sự Sống Con Người tiên báo rất chính xác, như
thực tế hiện nay cho thấy, qua đoạn 17 như sau:
·
“Có lư để sợ
rằng nam nhân, trong việc đi sâu vào việc sử dụng những đường lối
ngừa thai trái phép, cuối cùng có thể mất đi ḷng trọng kính nữ giới,
và v́ không c̣n để ư tới t́nh trạng quân b́nh về thể lư cũng như tâm
lư của họ, có thể tiến đến chỗ coi họ thuần túy như một dụng cụ
hưởng thụ ích kỷ của ḿnh, họ không c̣n là người đồng bạn đáng kính
và yêu dấu của ḿnh nữa. Cũng cần xét đến việc trao khí giới nguy
hiểm vào tay một thứ chính quyền không c̣n nghe theo những đ̣i hỏi
luân lư. Ai có thể đổ lỗi cho chính quyền về việc giải quyết những
rắc rối của cộng đồng bằng cách dùng những phương tiện được công
nhận là hợp pháp cho các cặp vợ chồng để giải quyết những vấn
đề gia đ́nh? Ai sẽ ngăn cản được các nhà cầm quyền khỏi chấp nhận
phương pháp ngừa thai mà họ cho rằng hiệu nghiệm nhất, ngay cả khỏi
việc họ áp đặt lên dân chúng của ḿnh phương pháp này, một khi họ
cho là cần thiết? Như thế, con người, trong khi muốn tránh những khó
khăn về cá nhân, gia đ́nh hoặc xă hội ngược lại với việc giữ lề luật
thần linh, sẽ tiến đến chỗ đặt lănh vực cá nhân nhất và riêng tư
nhất của t́nh tự hôn nhân vào sự can thiệp thương hại của chính
quyền. Kết quả là, nếu không muốn sứ mệnh truyền sinh bị lạm dụng
bởi ư muốn buông thả của con người, họ cần phải nhận biết những giới
hạn không thể vượt qua đối với khả năng nơi quyền thống trị của con
người trên thân xác ḿnh cũng như trên các phần hành của nó; những
giới hạn mà không một ai, dù là cá nhân riêng tư hay một người có
thẩm quyền, cho rằng ḿnh có quyền qua mặt”.
THỰC TẾ PHŨ PHÀNG
ua lời cảnh báo này,
Thông Điệp Sự Sống Con Người của Đức Phaolô VI quả thực là một sứ
điệp tiên tri cho thời điểm hiện đại. Nếu để ư trong các đoạn Thông
Điệp được trích dẫn vừa rồi, chúng ta sẽ thấy có 2 điều Đức Phaolô
VI lo ngại chính, liên quan đến việc sử dụng phương pháp ngừa thai
nhân tạo không đúng với “trật tự được Thiên Chúa thiết lập” và đă
“vi phạm đến những nguyên tắc luân lư”, những điều lo ngại đă trở
thành thực tế phũ phàng trước mắt chúng ta ngày nay.
Điều lo ngại thứ nhất
là: “Có lư để sợ rằng nam nhân, trong việc đi sâu vào việc sử
dụng những đường lối ngừa thai trái phép, cuối cùng có thể mất đi
ḷng trọng kính nữ giới, và v́ không c̣n để ư tới t́nh trạng quân
b́nh về thể lư cũng như tâm lư của họ, có thể tiến đến chỗ coi họ
thuần túy như một dụng cụ hưởng thụ ích kỷ của ḿnh, họ không c̣n là
người đồng bạn đáng kính và yêu dấu của ḿnh nữa”. Điều này cho
thấy, kính thưa qúi vị, một cách trực tiếp nơi thị trường buôn dâm,
vẫn biết loại thị trường này đă có từ trước, song đến nay, thị
trương măi dâm này lại càng ngày càng đầy giẫy và tinh vi khêu gợi
hơn nơi những phim ảnh, h́nh ảnh, hộp đêm phơi bầy phụ nữ khỏa thân
để mua vui cho nam giới, nhất là nơi một số nước bên Á Châu và Úc
Châu đang làm ngơ trước dịch vụ du lịch mua dâm. Sự kiện khinh
thường xác thể phụ nữ này c̣n phơi bầy cách gián tiếp qua sự kiện ly
dị mỗi ngày một tăng, nhất là ở các nước tân tiến Âu Mỹ, ở một môi
trường con người chỉ chạy theo tiện nghi vật chất hơn là trọng t́nh
trọng nghĩa, một môi trường hưởng thụ theo cá nhân chủ nghĩa hơn là
phục vụ cho tha nhân cộng đồng, một môi trường cạnh tranh kinh tế
lợi lộc và chính trị chủ quyền hơn là tinh thần hy sinh bỏ ḿnh v.v.
Điều lo ngại thứ hai là:
“Ai sẽ ngăn cản được các nhà cầm quyền khỏi chấp nhận
phương pháp ngừa thai mà họ cho rằng hiệu nghiệm nhất, ngay cả khỏi
việc họ áp đặt lên dân chúng của ḿnh phương pháp này, một khi họ
cho là cần thiết?” Đă không xẩy ra đúng như thế hay sao, riêng
luật pháp ở Hoa Kỳ đă cho phép phá thai vào năm 1973, tức sau bức
Thông Điệp này 5 năm. Điển h́nh nhất là Hội Nghị về Dân Số ở Cairô
nước Ai Cập năm 1994 bốn năm trước đây, Năm Quốc Tế Gia Đ́nh do Liên
Hiệp Quốc tổ chức, một hội nghị muốn triệt để phát động phương pháp
ngừa thai nhân tạo để kiểm soát dân số thế giới, đến nỗi, nếu không
bị hai khối Công Giáo và Hồi Giáo cực lực phản chống một cách hết
sức nghiêm chỉnh và kịch liệt, th́ phụ nữ trên thế giới nói chung,
và ở các nước chậm tiến hay đang tiến nói riêng, v́ ngay lành hay dù
không muốn, cũng đă phải tuân theo một thể chế quốc tế hóa trong
việc hạn chế sinh sản hoàn toàn vô nhân đạo và phản luân lư mất rồi.
·
“Ở một xă hội
mà người mẹ có thể sát hại con ḿnh th́ c̣n ǵ người ta lại không
dám hủy hoại. Một đất nước giết hại những trẻ em c̣n trong bụng mẹ -
những con người được tạo tác để sống và để được yêu thương, những
tạo vật được dựng nên giống h́nh ảnh Thiên Chúa - th́ đất nước đó là
một đất nước bần cùng nhất”.
Mẹ Têrêsa Calcutta đă
suy luận và tuyên bố như thế.
Thật vậy, cứ đà này,
thế giới chúng ta hiện sống đang ở trên đà lao ḿnh xuống hố diệt
vong, với nhân số càng ngày càng suy giảm tới mức không thể nào lấy
lại được nữa. Như các cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy, hầu hết dân
số trên cả thế giới được phát triển là do người ta sống lâu hơn là
sinh nhiều hơn. Số sinh đă giảm sút hẳn tại Bắc Mỹ, Mỹ Châu La Tinh,
Aâu Châu và Đông Á. Theo chiều hướng này th́ Aâu Châu sẽ hụt dân số
vào năm 2005; mức độ thụ thai của các nước tân tiến sẽ rơi xuống
dưới mức độ bù trừ vào năm 2015, và cả thế giới sẽ hụt dân số vào
năm 2045. Phần trăm của dân số thế giới tăng hiện nay ở mức thấp
nhất trong lịch sử và tiếp tục giảm sút mỗi năm...
Ngoài ra, c̣n một dấu
chứng nữa báo hiệu t́nh trạng con người đang trên đà diệt vong là
việc tràn lan các chứng bệnh bị nhiễm lây theo đường sinh dục, theo
tiếng Mỹ là sexually transmitted diseases. Thật vậy, không kể hội
chứng liệt kháng, hay Aids bên tiếng Mỹ và Siđa như người Việt chúng
ta vẫn quen gọi, một hội chứng đă lan tràn khắp thế giới mà khoa học
tân tiến ngày nay vẫn không thể đối phó nổi, th́ riêng tại Mỹ quốc
này, theo các tài liệu của Đại Học Chuyên Viên Sản Khoa Hoa Kỳ, của
bác sĩ Joe Mclllhaney Jr. trong cuốn Safe Sex do Baker Book House
xuất bản năm 1991, và của Các Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh Tật ở
Atlanta, tiểu bang Georgia, cho biết: Các bệnh truyền nhiễm theo
đường sinh lư là những chứng bệnh thịnh hành nhất hiện nay, chỉ thua
có cảm cúm thông thường mà thôi; 1 trong 5 người Mỹ hiện nay đang
mắc phải chứng bệnh này; 12 triệu trường hợp bắt đầu bị bệnh này
được tường tŕnh hằng năm, tức 33 ngàn vụ mỗi ngày; 45 triệu người
Hoa Kỳ bị nhiễm chứng bệnh này không thể chữa trị
CỨU VĂN T̀NH THẾ
ậy, để cứu văn t́nh
trạng băng hoại gia đ́nh gây ra bởi cuộc khủng hoảng t́nh yêu hôn
nhân mà hậu quả, ngoài các chứng bệnh truyền nhiễm theo đường sinh
lư nguy tử, là chính những thai nhi vô tội bị chết oan uổng, hội
ḍng Thừa Sai Bác Aùi của Mẹ Têrêsa Calcutta đă thực hiện “chương
tŕnh kế hoạch hóa theo phương cách tự nhiên” cho các cặp vợ chồng,
và chương tŕnh “đừng phá thai” qua việc nhận nuôi trẻ em bị bỏ rơi
sau khi sinh ra.
Về “chương tŕnh
kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên”,
Mẹ Têrêsa cho biết thành quả về sinh lư, về cả sinh lư lẫn tâm lư,
và cho chung xă hội, như sau. Thành qủa về sinh lư: “Có ba ngàn gia
đ́nh tham dự chương tŕnh kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên th́
có khoảng 95% đă thành công. Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta có thể mang
phương pháp tự nhiên này truyền dạy cho tất cả mọi quốc gia, và nếu
tất cả mọi người nghèo có thể học biết phương pháp này, th́ chắc sẽ
ḥa b́nh hơn, yêu thương nhau hơn trong các gia đ́nh”. Thành quả về
cả sinh lư lẫn tâm lư: “Nhiều người đă nói với tôi rằng: ‘Nhờ việc
học hỏi để kế hoạch hóa gia đ́nh theo đường lối tự nhiên mà t́nh yêu
của chúng tôi và sự kính trọng nhau nơi chúng tôi khá hơn trước’.
Các Nữ Tử Bác Aùi của hội ḍng chúng tôi đă hướng dẫn các gia đ́nh,
cho cả vợ lẫn chồng, việc kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên, và
họ đă cho chúng tôi biết họ cảm thấy khỏe mạnh hơn trước. Họ bày tỏ
rằng ‘chúng tôi hiện nay khỏe lắm. Thêm vào đó, chúng tôi lại c̣n
biết tùy nghi có con theo ư ḿnh nữa’”. Thành quả cho chung xă hội:
“Nơi nào chính quyền cũng lo ngại về vấn đề khủng hoảng nhân số...
Chúng tôi đă giúp cho chính phủ Aán Độ, đặc biệt ở nguyên tại
Calcutta, trong 10 năm qua giảm tỉ lệ dân số hơn cả triệu người. Đó
là lư do tại sao chính quyền Aán Độ đă hoàn toàn công nhận giá trị
của việc kế hoạch hóa gia đ́nh theo phương pháp tự nhiên”.
Về chương tŕnh
“đừng phá thai”
qua việc nhận nuôi trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi sau khi sinh ra, Mẹ
Terêsa cũng lên tiếng kêu gọi như sau: “Hôm ấy, có một phụ nữ người
Aán đến chia sẻ với tôi về nỗi khổ tâm dằn vặt mà bà đang trải qua.
Người đàn bà này rất giầu, có đủ mọi thứ, song lại hết sức buồn đau.
Bà tức tưởi nói: ‘Mẹ ơi, tôi vừa trông thấy một em bé độ 8 tuổi chơi
ở ngoài sân. Khi thấy đứa bé kia tự nhiên tim tôi nhức buốt, lương
tâm cứ dày ṿ cắn rứt trong tôi, v́ trước đây tám năm tôi đă phá
thai. Thưa Mẹ, nếu không phá thai th́ giờ đây tôi đă có một đứa con
cũng lên 8 tuổi rồi’. Qúi vị thân mến, nếu qúi vị không muốn nuôi
trẻ em th́ hăy đem chúng đến cho chúng tôi. Tôi muốn nhận chúng. Tôi
sẽ t́m cho chúng một mái ấm để yêu thương và dưỡng nuôi chúng. Tôi
chỉ xin qúi vị một điều là đừng giết người. Đừng hủy hoại. Đừng sát
hại...”
Không phải một ḿnh Mẹ
Têrêsa cho chúng ta biết thành quả tốt đẹp và hầu như mỹ măn của
phương pháp ngừa thai nhân tạo, mà c̣n cả các bậc thức giả đương
thời nữa. Chẳng hạn, theo tác giả Mercedes A. Wilson, trong cuốn
“Love and Family” do Ignatius Press ở San Francisco xuất bản năm
1996, qua bản phân tích mức độ hiệu nghiệm của các phương pháp
ngừa thai nhân tạo với Ovulation Method là phương pháp tự
nhiên căn cứ theo chu kỳ trứng rụng, th́ kế hoạch hóa gia đ́nh theo
đường lối tự nhiên, Natural Family Planning, như phương pháp trứng
rụng, đă được thử nghiệm gắt gao trong hai thập niên qua, cho thấy
mức công hiệu tối đa, lên đến 98-99%. Mức độ thành qủa này qua mặt
cả mức độ hiệu nghiệm của tất cả mọi y dụng được phát minh ra để phá
thai hay ngừa thai nhân tạo.
Như thế, với “Chân Lư
Rạng Ngời” của Thông Điệp Sự Sống Con Người do Đức Phaolô VI ban
hành cách đây 30 năm, và với kinh nghiệm sống động hết sức thực tế
của Mẹ Têrêsa Cacultta trong việc hướng dẫn để áp dụng phương pháp
ngừa thai tự nhiên từ đó tới nay, th́ chỉ có những ai không chịu thử
hay ngại áp dụng, hoặc không thể làm chủ được ḿnh, phương pháp hiệu
nghiệm này mới không có kết quả mà thôi. Trái lại, nếu đă có tinh
thần sống ơn gọi hôn nhân, th́ dù việc sử dụng phương pháp này chẳng
may có không thành công, nơi 1 hay 2 hoặc 5 phần trăm trong số họ đi
nữa, họ cũng vẫn vui ḷng chấp nhận sự sống mới do Thiên Chúa ban
cho họ.
Tóm lại, nếu các
cặp vợ chồng biết sống đạo trong đời sống hôn nhân, tức thực sự và
hết sức sống ơn gọi hôn nhân cao cả của ḿnh, chắc chắn họ sẽ không
bị cuốn hút đến bật gốc nhân phẩm của ḿnh trong cơn lốc “văn hóa tử
vong”. Nhận thức như là một niềm xác tín này của tôi có thể
được chứng thực qua cuộc nghiên cứu được bà Mercedes Arzú Wilson là
chủ tịch kiêm sáng lập Hội Gia Đ́nh của Người Mỹ và Hội Thế Giới cho
Gia Đ́nh, thống kê cho thấy như sau: Các cặp lấy nhau trước ṭa đời
th́ một nửa bỏ nhau; các cặp lấy nhau theo Giáo Hội th́ 1 phần 3 bỏ
nhau; các cặp lấy nhau theo Giáo Hội và cùng nhau tham gia sinh hoạt
nhà thờ th́ 1 phần 50 bỏ nhau; và các cặp lấy nhau theo Giáo Hội rồi
cùng nhau tham dự Thánh Lễ và cầu nguyện chung th́ 1 phần 1429 bỏ
nhau.
(bài này
đă được phổ biến trên Bản Tin Song Nguyền của Chương Tŕnh Thăng
Tiến Hôn Nhân 1/1999, và Tam Cá Nguyệt San Vào Đời, 6/2000)