( Inter Mirifica : Nghị
Định Công Đồng Vatican II về Truyền Thông )
Một ít tư tưởng
tóm lược những huấn dụ của Nghị Định Inter Mirifica Công
Đồng Vatican II về Truyền Thông để kính tặng những ai � đang muốn
Sống Sứ Mạng Truyền Thông � theo tinh thần của Công Đồng, phục
vụ Giáo Hội và phục vụ Đất Nước.
Tiến sĩ NGUYỄN
HỌC TẬP
Nguồn:
http://www.tinmungvietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=453
Trước ảnh hưởng lớn lao của các
phương tiện truyền thông xă hội tạo nên trong cuộc sống nhân loại,
Giáo Hội Công Giáo đặc biệt lưu ư đến các lợi ích cũng như những
tai hại khó lường được, do việc xử dụng chính đáng hay bất chính các
phương tiện trên.
Trong tâm thức đó Công Đồng Vatican
II đă tuyên bố Nghị định (Decretum) Inter Mirifica (IM)
để chuyển đến Cộng Đồng Dân Chúa cũng như đến những ai thành
tâm thiện chí, muốn tạo ra cho nhân loại một cuộc sống xă hội xứng
đáng với nhân phẩm con người, những huấn dụ của các Nghị Phụ Công
Đồng.
� - " Giữa những khám phá kỹ
thuật kỳ diệu, với ơn Chúa giúp đỡ, con người đă khai thác được từ
các tạo vật được dựng nên nhờ tài năng của ḿnh, Giáo Hội đón nhận
và theo dơi với ḷng ưu ái của người mẹ, những ǵ có liên hệ trực
tiếp đến khả năng thiêng liêng của con người và cung cấp cho con
người những phương thế khả dĩ mở rộng để truyền thông dễ dàng các
tin tức đủ loại, các ư kiến và định hướng � ( IM, 1).
Những ǵ chúng tôi vừa trích dịch
trên là câu tuyên bố đầu tiên của Nghị Định Inter Mirifica �
của Công Đồng Vatican II về Các Phương Tiện Truyền Thông.
Giáo Hội đón nhận, với ḷng ưu ái
và chăm chú của người Mẹ, các khám phá mới của phương tiện truyền
thông, v́ biết rằng nếu con người biết dùng một cách chính đáng, các
phương tiện truyền thông có khả năng phục vụ con người: cung hiến
cho con người những phương thức giải trí, phát huy văn hóa, mở rộng
tinh thần, cũng cố và mở mang Nước Chúa.
Nhưng đàng khác, Giáo Hội là người
Mẹ cũng chăm chú ưu tư v́ con người có thể xử dụng các khám phá mới
trên không chính đáng, làm hại phương hại đến dự án mà Thiên Chúa
thiết định cho con người và trở thành tổn hại cho con người.
Đó là lược tóm những ǵ Công Đồng
Vatican II tuyên bố kế tiếp trong cùng một điều khoản của Nghị
Đinh (IM, id.)
Chúng tôi không có ư dịch thuật và
tŕnh bày nguyên bản Nghị Định Inter Mirifica của Công Đồng
Vatican II, bởi lẽ ai cũng có thể đọc và tra cứu được trong các tài
liệu của Công Đồng.
Điều mà chúng tôi có ư ghi lại và
tŕnh bày những nét chính yếu huấn dạy của Công Đồng về các phương
tiện truyền thông đối với
- những ai có trách nhiệm hướng
dẫn,
- những ai hoạt động trong chức
năng của ḿnh,
- cũng như những ai được các phương
tiện truyền thông nhằm chuyển các sứ điệp, tin tức và ư kiến đến
cho.
Sứ điệp giáo huấn của Giáo Hội Công
Giáo.
1 - Đối
với các thành phần Giáo Hội:
Mục đích của Giáo Hội được Chúa
Giêsu thiết lập nên là để đem ơn cứu rỗi đến cho tất cả mọi người.
Giáo Hội được thúc đẩy để rao giảng Phúc Âm.
Với sứ mạng vừa kể, Giáo Hội nhận
thấy rằng ḿnh có bổn phận phải dùng các phương tiện truyền thông để
rao giảng sứ điệp cứu rổi của Chúa Giêsu.
Đồng thời Giáo Hội cũng nhận thấy
có bổn phận phải chỉ dẫn cho mọi người biết dùng đúng đắn các phương
tiện vừa nói.
Do sứ mạng rao truyền Phúc Âm được
Chúa giao phó, Giáo Hội xác tín rằng ḿnh
- có quyền xử dụng
- và quyền sở hữu
các phương tiện được đề cập, không
trừ phương tiện nào, cần thiết hoặc hữu ích để cung cấp cho con
người một nền giáo dục Ki Tô giáo, cũng như cần thiết và hữu ích cho
bất cứ hoạt động tông đồ nào khác của ḿnh.
Điều đó cho thấy
- ở đâu Giáo Hội bị hạn chế quyền
sở hữu và quyền được xử dụng các phương tiện truyền thông để chu
toàn sứ mệnh rao giảng Phúc Âm của ḿnh
- là ở đó Giáo Hội đang bị đàn áp,
tự do tôn giáo bị đàn áp,
dầu cho các quyền tự do khác liên
hệ đến đời sống tôn giáo có được nới rộng, tự do phụng tự chẳng hạn,
nới rộng để đánh bóng bên ngoài, che giấu những mưu toan bất chính
bên trong.
Sau khi xác nhận ích lợi của các
phương tiện truyền thông cho sứ mạng rao giảng Phúc Âm của ḿnh,
Giáo Hội giao trọng trách cho các vị chủ chăn
- có phận sự giáo huấn
- và hướng dẫn các tín hữu để họ
biết dùng mưu ích cho phần rỗi của ḿnh, thăng tiến trọn hảo con
người của ḿnh, cũng như của cả gia đ́nh nhân loại ( IM, 3)
Trong khi đó người tín hữu giáo dân
cũng được Giáo Hội giao cho bổn phận phải biến các phương tiện
truyền thông thành năng động bằng các giá trị Ki Tô giáo và nhân
bản, để các phương tiện truyền thông có thể đáp ứng lại hoàn hảo
các ước vọng của nhân loại và hợp với chương tŕnh cứu rỗi của Thiên
Chúa ( IM, id.).
2 ) Luật
luân lư.
Điều tối cần cho những ai xử dụng
các phương tiện truyền thông là nếu muốn xử dụng một cách chính
đáng,
- họ phải biết những nguyên tắc
luân lư
- và biết trung thành áp dụng (
IM, 4).
Đối với những ai có liên hệ đến
- việc xử dụng các phương tiện
truyền thông,
- người có nhiệm vụ hướng dẫn và
kiểm soát,
- người sản xuất, người phổ biến
cũng như người tiêu thụ, nói chung là tất cả mọi người,
cần phải được hướng dẫn và đào
đạo để có được lương tâm ngay chính, nhứt là đối với những vấn
đề liên hệ được bàn cải sôi động trong thời đại chúng ta (IM,
id.).
3 - Quyền
tự do truyền bá tư tưởng.
a) Vấn đề đầu tiên của quyền tự do
truyền bá tư tưởng là vấn đề thu thập tin tức, ư kiến, hiểu biết
và quảng bá.
Thông tin rất có ích lợi và đôi khi
không thể thiếu, là điều hiển nhiên đối với nhu cầu của con người.
Nếu bản tính con người là bản tính
vừa cá nhân, vừa xă hội, th́ quyền thông tin và được tiếp nhận tin
tức, kiến thức một cách trung thực là quyền căn bản đối với con
người, để con người có thể trao đổi, học hỏi, làm giàu thêm kiến
thức của cá nhân ḿnh, giúp cho ḿnh phát triển hoàn hảo con người
của ḿnh.
Do đó
- bất cứ thể chế hay tổ chức nào
kềm kẹp, hạn chế con người xử dụng các phương tiện truyền thông một
cách bất chính
- là thể chế hay tổ chức chống lại
bản tính và phẩm giá con người,
- trước khi là thể chế chống lại
phương thức tổ chức Quốc Gia một cách dân chủ.
Việc kềm kẹp, hạn chế không những
gồm
- những khống chế, cầm đoán vật
chất, cấm không cho quyền được xử dụng báo chí, truyền thanh, truyền
h́nh, phim ảnh, kịch nghệ, tranh ảnh, điêu khắc, internet,
- mà c̣n gồm cả những công việc
kiểm soát, cắt xén, thông tin không đầy đủ, b́nh luận có chủ ư bóp
méo sự thật.
Tục ngữ La Tinh có câu:
� " Dimidia veritas, veritas non
est !" ( Phân nửa sự thật, không phải là sự thật !)
Những phương thức
- kềm kẹp, khống chế vật chất đối
với việc xử dụng các phương tiện,
- cũng như kiểm soát, cắt xén, b́nh
luận với chủ ư bất chính, làm sai lạc nội dung của sự thật,
dần dần tạo nên tâm thức tai hại
nơi con người, cách hành xử gian dối, có nói không, không nói có; và
coi đó như là nền tảng luân lư tự nhiên.
Con người bị các phương tiện truyền
thông hủy hoại, thay v́ được giúp đở để phát triển hoàn hảo con
người của ḿnh và hành xử theo đường lối an bài của Thiên Chúa để
tiến đến ơn cứu rỗi.
Những chủ thể kềm kẹp, khống chế và
hạn chế con người qua các cách hành xử vừa kể
- có thể là một thể chế Quốc Gia,
mà cũng có thể là một tổ chức truyền thông, một tờ báo, một tập san,
đài phát thanh, truyền h́nh chẳng hạn.
Trách nhiệm
- làm cho con người không phát
triển được hoàn hảo con người của ḿnh,
- không đi đúng đường lối an bài
của Thiên Chúa để được cứu rổi
là trách nhiệm nặng nề đối với
những ai liên hệ đến các phương tiện truyền thông, có khả năng ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng thiêng liêng của con người: ( IM, 1)
Và một khi con người luôn luôn bị
lường gạt, áp chế, cấm cản không được phát biểu đúng đắn những ǵ
ḿnh suy nghĩ, con người sẽ không c̣n suy nghĩ những ǵ ḿnh không
được phát biểu nữa:
- " Một khi sợ không dám nói ra
những điều ḿnh suy nghĩ, dần dần người ta cũng sẽ không c̣n muốn
suy nghĩ những điều ḿnh không dám nói ra nữa � ( Giovanni Sartori,
Democrazia, Che Cosa è?, Milano, Rizzoli, 1994, 69).
Như vậy khống chế, kềm kẹp, hạn
chế, cắt xén, bóp méo sự thật của thể chế chính trị Quốc Gia cũng
như của cơ quan truyền thông là thái độ
- vừa vi phạm quyền tự do ngôn luận
để phổ biến tư tưởng,
- vừa vi phạm tự do tư tưởng, con
người được tự do để suy tư.
Và một khi con người đă bị băng
hoại, tổ chức xă hội chung sống của Quốc Gia sẽ không tránh khỏi
phá sản luân lư cũng như vật chất.
Như vậy các phương thức khống chế
và kềm kẹp, truyền thông không trung thực và đầy đủ sẽ tạo nên tai
hại cho con người và phá hoại cuộc chung sống cộng đồng Quốc Gia.
Hiểu được như vậy, chúng ta sẽ hiểu
được tại sao Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức đặt quyền
tự do ngôn luận và được thông tin một cách trung thực vào phần những
nguyên tắc căn bản để bảo vệ phẩm giá con người và nền tảng xây dựng
Quốc Gia ( điều 1-19):
� - " Mọi người có quyền diễn tả
và phổ biến tự do ư kiến của ḿnh bằng lời nói, chữ viết và h́nh
ảnh; và có quyền tự do được thông tin, không ai có quyền cấm cản,
từ những nguồn tin mà ai cũng có thể được. Quyền tự do báo chí và
phổ biến tin tức qua đài phát thanh và phim ảnh ( những phương tiện
tân tiến nhứt cho tới năm 1949) được bảo đảm. Không ai có thể thiết
định bất cứ một sự kiểm duyệt cắt xén nào.
Những quyền được kể trên có giới
hạn trong những đạo luật tổng quát, nơi những điều khoản luật pháp
liên hệ đến mục đích bảo vệ tuổi trẻ và quyền của con người được bảo
vệ trong danh dự của ḿnh " ( Điều 5, đoạn 1 và 2 Hiến Pháp 1949
Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Như vậy ngoài mục đích " bảo vệ
tuổi trẻ và quyền của con người được bảo vệ trong danh dự ḿnh "
, một Hiến Pháp Nhân Bản và Dân Chủ như Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên
Bang Đức không cho phép bất cứ ai và với bất cứ lư do ǵ " có
quyền thiết định bất cứ một sự kiểm duyệt cắt xén nào " .
Việc truyền bá trung thực và đầy đủ
các dữ kiện và biến cố cho phép con người có được ư niệm, hiểu biết
trọn vẹn và lâu dài để biến thành tư tưởng, ư kiến và loại trừ tư
tưởng và ư thức hệ sai lạc với mưu đồ bất chính có thể phương hại
đến con người.
Nhờ có được hiểu biết và ư kiến mỗi
cá nhân có thể cộng tác một cách hữu hiệu cho công ích . Với ư muốn
đồng thuận Cộng Đồng Quốc Gia chung nhau cộng tác tạo ra thịnh vượng
và phú cường cho đất nước ( IM, 5 ).
4 - Tố
cáo những sai trái luân lư.
Tố cáo
- những sai trái luân lư,
- những sai trái của ư thức hệ độc
tài,
- đàn áp con người, đê tiện hóa
nhân phẩm,
không những là
* việc phải làm,
* mà c̣n đáng được khuyến khích
và hổ trợ để thực hiện.
Nhờ những người có lương tâm ngay
chính đứng ra tố cáo những sai trái vừa kể, phương tiện truyền thông
cung cấp cho con người sự hiểu biết chi tiếc và sâu sắc về chính
ḿnh, phát huy và vinh danh những nét huy hoàng của chân, thiện, mỹ
( IM, 6 ).
Muốn được như vậy, đem lại những ǵ
lợi ích cho tâm hồn con người và loại trừ những ǵ có hại, những ai
có trách nhiệm với ngành truyền thông, cần phải hành động ngay
chính theo sát các nguyên tắc luân lư,
- nhứt là đối với những vấn đề cần
được tŕnh bày một cách cẩn trọng
- hoặc những chủ đề có thể dễ khơi
động những ước muốn không chính đáng nơi con người, bị tổn thương
bởi nguyên tội ( IM, 7 ).
5 - Đối
với người tiêu thụ.
Nghị Định Inter Mirifica
của Công Đồng Vatican II
khuyến cáo người tiêu thụ
- nên khuyến khích, ủng hộ những tổ
chức truyền thông có giá trị luân lư, văn hóa và nghệ thuật thực sự,
- cũng như khai trừ những tổ chức
phổ biến những chủ đề có thể làm phương hại đến đời sống thiêng
liêng của ḿnh, hay có thể làm gương mù, gương xấu cho người khác.
- Loại trừ những tổ chức truyền
thông cản trở những ai hành xử để đem lại thực sự những giá trị tốt
lành vừa kể
- hay loại trừ những ai đồng lỏa
, cổ vỏ, ủng hộ những kẻ hành xử với mục đích bất chính ( IM, 9
).
Ngoài ra Nghị Đinh cũng khuyên bảo
người tiêu thụ, v́ lương tâm ngay chính, đừng thiếu bổn phận kịp
thời tố cáo với những ai có thẩm quyền những tổ chức truyền
thông có đường lối hay ư thức hệ sai lạc, để giới thẩm quyền có biện
pháp thích đáng ( IM, id.).
Và sau cùng người tiêu thụ cũng có
bổn phận, bằng những phương thế thích ứng, tạo cho ḿnh lương tâm
được soi sáng và ngay chính để
- có thể đối đầu lại những ảnh
hưởng bất chính
- và hấp thụ được những giá trị
tốt lành ( MCS, id.).
6 - Bổn
phận nhà sản xuất và người hành nghề chức nghiệp .
Nhà sản xuất và những ai hành nghề
chức nghiệp trong các phương tiện truyền thông phải ư thức đến trách
nhiệm nặng nề của họ trong việc thực hiện và phổ biến.
Tin tức, ư kiến, đường lối mà họ
phổ biến cũng như áp lực mà họ tạo nên qua phương tiện truyền thông
- có thể hướng dẫn nhân loại trên
con đường đoàn kết, liên đới, thương yêu, xây dựng
- cũng như đưa đến chia rẻ, ích kỷ,
hận thù và diệt vong.
Họ phải biết làm thế nào để ḥa hợp
các yếu tố chính trị, kinh tế hay nghệ thuật để tạo nên công ích
thay v́ đưa đến ích kỷ, thoả măn thú tính thấp hèn, đê tiện hóa nhân
phẩm.
Những ai có liên hệ với truyền
thông nên nhớ rằng phần lớn các độc giả và khán thính giả của họ là
những người trẻ, cần được báo chí, phim ảnh, kịch nghệ cống hiến cho
họ những đề mục giải trí lành mạnh và nâng cao tinh thần đến những
lư tưởng cao đẹp ( IM, 11).
Với chức năng của người hành nghề
truyền thông, những người trong nghề nghiệp nên ủy thác cho những
cộng sự viên đứng đắn và có thẩm quyền về những vấn đề tôn giáo, để
có thể đề cập đến tôn giáo với sự tôn kính phải có ( IM, id.).
7 - Tác
động của chủ chăn và tín hữu.
Thay v́ khoán trắng cho ai khoái
làm báo, nói trên đài phát thanh, truyền h́nh, hát cải lương ,
th́ mặc kệ họ !, Công Đồng Vatican II kêu gọi mọi thành phần của
Giáo Hội , không thể chần chờ thêm nữa, đều phải góp sức , thiện
ư và ḷng nhiệt thành để biến các phương tiện truyền thông thành
những dụng cụ hữu hiệu phục vụ cho sứ mạng tông đồ ( IM, 13).
Có trong tay phương tiện truyền
thông, người Ki Tô hữu có thể đề pḥng
- sáng kiến bất chính,
- băng hoại luân lư,
- tiêu diệt tôn giáo
- và đê tiện phẩm giá con người,
ở đâu và lúc nào họ cảm thấy phải
can thiệp khẩn trương và kịp thời.
Các vị chủ chăn có bổn phận phải
chu toàn trong lănh vực nầy, dạy dỗ và hướng dẫn các tín hữu
những ǵ giáo lư chỉ dạy để họ hành xử chính đáng và theo lương
tâm ngay chính. V́ đây là bổn phận trong gánh nặng rao giảng Phúc
Âm của qúy vị ( IM, id.).
Các vị chủ chăn có bổn phận dạy dỗ,
soi sáng chúng ta, những người giáo dân, bằng tín lư và luân lư.
Nhưng chúng ta đừng có thái độ ấu
trỉ, khoán trắng, đổ lên vai các vị tất cả gánh nặng mà Cộng Đồng
Dân Chúa phải chung nhau gánh vác.
Đó là những ǵ Công Đồng Vatican II
xác nhận trong Hiến Chế Lumen Gentium, ngay đang lúc Công Đồng c̣n
đang nhóm họp năm 1962:
�- " Các chủ chăn không phải là
người được Chúa Giêsu thiết lập nên để nhận lănh một ḿnh tất cả
trọng trách của sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội đối với trần gian , mà
bổn phận cao cả của các Vị là chăn dắt các tín hữu nhận biết phận vụ
và ân sủng của họ, để tất cả có thể đồng thuận hợp tác nhau vào công
việc chung, mỗi người tùy theo khả năng của ḿnh " ( LG , 30).
Lănh vực trần thế là lănh vực của
giáo dân, với thể thức và luật lệ hoạt động để thực hiện riêng biệt
của mỗi lănh vực.
Và các phương tiện truyền thông,
Inter Mirifica ( Giữa những khám phá kỳ diệu?), thuộc lănh vực
trần thế.
Do đó người tín hữu giáo dân cần
được các Vị Chủ Chăn dẫn dắt, soi sáng bằng tín lư và luân lư.
Và sau khi được dạy dỗ, với lương
tâm ngay chính và khả năng chuyên môn, người tín hữu giáo dân hăy
can đảm hành động với trách nhiệm của ḿnh:
�- " Thẩm quyền chuyên biệt của
giáo dân, mặc dầu không chỉ độc quyền của họ, là lănh vực chuyên môn
và những hoạt động trần thế.
Họ ( người giáo dân) nên trông
đợi ở các linh mục gương sáng và sức mạnh thiêng liêng. Nhưng họ
đừng nghĩ rằng các vị chủ chăn của họ có thẩm quyền để có thể đưa ra
cho họ một giải pháp thực tế và cấp tốc đối với mọi vấn đề, ngay cả
đối với vấn đề quan trọng mà họ đang gặp phải, hay đó là sứ mạng của
các Vị.
Đúng hơn, được soi sáng bởi đức
khôn ngoan Ki Tô giáo, chú ư một cách trung thực đến lời giảng dạy
của Giáo Hội, chính họ nên đứng ra nhận lănh trách nhiệm của ḿnh" (
Gaudium et Spes, 43 ).
Người giáo dân dấn thân trong ngành
truyền thông phải t́m cách là những chứng tá của Chúa Ki Tô, bằng
cách chu toàn công việc của ḿnh với khả năng chuyên môn, trách
nhiệm và tinh thần truyền giáo.
Họ cũng cộng tác trong các hoạt
động mục vụ của Giáo Hội bằng kiến thức kỹ thuật, kinh tế, văn hóa
và nghệ thuật, tùy theo khả năng của mỗi người ( IM, 13).
Một ít tư tưởng tóm lược những huấn
dụ của Nghị Định Inter Mirifica Công Đồng Vatican II về
Truyền Thông để kính tặng những ai � đang muốn Sống Sứ Mạng
Truyền Thông� theo tinh thần của Công Đồng, phục vụ Giáo Hội và
phục vụ Đất Nước.
///
CGVN