Theo Lịch Sử Nhân Loại Học Kitô Giáo Là Nguồn Mạch Cho Các Thứ
Nhân Quyền
Tác giả cuốn “Nhân Loại Học Kitô Giáo: Từ Công Đồng Chung
Vaticanô II Tới Đức Gioan Phaolô II” là ông Juan Luis Lorda, một
kỹ sư về kỹ nghệ, với cấp bằng tiến sĩ thần học, dạy ở Đại Học
Navarre từ năm 1983 và là tác giả cuốn “Là Một Kitô Hữu” và
“Nghệ Thuật Sống”, đă chủ trương rằng nhân loại học Kitô Giáo,
theo lịch sử, là nguồn mạch khơi nay các thứ quyền làm người.
Trong cuộc phỏng vấn sau đây với Zenit, vị tác giả này cho biết
Đức Gioan Phaolô II đă đóng góp vào việc hiểu biết hơn nữa về
nhân loại học Kitô Giáo.
Vấn: Nhân loại học Kitô Giáo từ Công Đồng Chung
Vaticanô II đă được đổi mới ra sao?
Đáp: Điều quan trọng nhất đó là việc giải thích và
phát triển được Đức Gioan Phaolô II cống hiến cho công đồng này,
nhất là cho “Vui Mừng Và Hy Vọng – Gaudium et Spes”. Bản Hiến
Chế này là một trong những cột trụ của công đồng này và Đức
Gioan Phaolô II đă trực tiếp hợp tác vào việc viết văn kiện ấy.
Từ đó, ngài đă thực hiện việc dẫn giải sâu xa về nó trong giáo
triều của ngài.
Ngày nay mọi người quen thuộc với Khoản Số 22 nổi tiếng của “Vui
Mừng Và Hy Vọng”: “Chúa Kitô hoàn toàn tỏ cho con người biết về
con người”. Tuy nhiên, trước Đức Gioan Phaolô II điều này chẳng
nổi nang ǵ. Sự kiện này có thể thấy được nơi nhiều bài dẫn giải
b́nh luận vào thời ấy, những bài dẫn giải b́nh luận thậm chí
không hề đề cập đến nó.
Có nhiều triết gia và thần học gia đă gây nhiều ảnh hưởng đến
nhân loại học Kitô Giáo, v́ khoa học này đă từng trải qua một
giai đoạn rất phong phú. Thế nhưng, vấn đề tổng hợp về tín lư
của những nguyên tắc này là do Đức Gioan Phaolô II.
Vấn: Edith Stein, một nữ tu Ḍng Camêlô bị đảng Nazis
sát hại và được Đức Gioan Phaolô II phong thánh, cũng đă đóng
góp quan trọng vào khoa nhân loại học này. Vị nữ quan thày của
Âu Châu đây đă có một trực giác như thế nào?
Đáp: H́nh ảnh về Edith Stein là một h́nh ảnh thật là
kỳ thú, và tôi nghĩ rằng vị thánh này sẽ chiếm một vị trí càng
ngày càng quan trọng nơi tư tưởng Kitô Giáo. Về nguồn gốc, ngài
là một trí giả Do Thái. Về việc học hỏi th́ ngài thuộc về trường
phái đầu tiên của khoa hiện tượng học, với những nghiên cứu quan
trọng.
Sau khi trở lại Công Giáo, ngài đă cố gắng thiết lập liên hệ
giữa những luồng triết học này với của Thánh Tôma Aquinas. Ngài
đă chết như một nữ tu Camêlô ở một trại tập trung, vào lúc cao
điểm của thảm cảnh Sát Tế kinh hoàng.
Khi ḷng mà t́m thấy được những nhân cách có một chiều kích nhân
bản hết sức sâu xa. Hiện tượng học, nhất là khoa hiện tượng được
thực hiện bởi nhóm của Edith Stein, với Reinach, Max Scheler,
Conrad-Martius, von Hildebrand, là một trong những luồng triết
học sinh hoa trái nhất và rơ ràng nhất, đặc biệt trong việc hiểu
biết bản thân nội tại của con người. Nơi Edith Stein cũng như
nơi Đức Gioan Phaolô II sau đó, khoa hiện tượng học này được
liên kết với truyền thống Kitô Giáo. Và đó là vấn đề rất quan
trọng.
Chúng ta không được quên rằng việc khám phá ra luồng triết lư
này đă giải thoát ngài khỏi những thành kiến và đặt ngài vào một
vị thế lắng nghe chân lư. Đó là bước đầu tiên trên đường trở lại
của ngài.
Đó là một thứ triết học và nhân loại học cần cho chúng ta hôm
nay đây: loại khoa học này hướng về sự thật, khám phá ra bản
thân nội tại của con người, và liên kết với đức tin Kitô Giáo.
Nó cũng là một thứ triết học chúng ta cần đến nơi các phân khoa
của chúng ta.
Vấn: Đâu là những đóng góp của Karol Wojtyla vào khoa
nhân loại học Kitô Giáo này?
Đáp: Vẫn khó ḷng trong việc phán quyết về tầm ảnh
hưởng của Karol Wojtyla đối với thần học Công Giáo, v́ chúng ta
thiếu phối cảnh. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu về ngài nhiều
năm, tôi cảm thấy rằng ảnh hưởng của ngài thật là vĩ đại, nhất
là nơi nền tảng về nhân loại học của nền luân lư, như giáo huấn
về tính dục, về t́nh yêu phối ngẫu, về việc truyền sinh cũng như
về phẩm vị của sự sống con người.
Tôi tin rằng người ta phải thành thực mà nói là ngài đă cải tiến
một cách đặc biệt giáo huấn về thần học nơi tất cả mọi vấn đề.
Điều ấy được phản ảnh rơ ràng nơi cuốn Giáo Lư Giáo Hội Công
Giáo. Có vấn đề trước và có vấn đề sau cuốn giáo lư này.
Vấn: Tại sao khoa nhân loại học Kitô Giáo là một
trong những vấn đề mạnh mẽ của việc truyền bá phúc âm hóa?
Đáp: V́ nó khám phá ra cách thức con người là cùng
với những ước vọng sâu xa nhất của họ. Tâm điểm của việc truyền
bá phúc âm hóa Kitô giáo là Thiên Chúa, ở chỗ dẫn con người tân
tiến đến chỗ khám phá ra rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta v́
Ngài là Cha của chúng ta. Đó là tâm điểm sứ điệp của Chúa Giêsu
Kitô.
Thế nhưng, con đường này trở thành dễ dàng hơn khi một người
khám phá ra ḿnh là ǵ và những ước vọng sâu xa nhất của họ qui
hướng về Thiên Chúa. Giáo Hội có một kiến thức khôn ngoan về con
người, có một nền nhân bản Kitô Giáo, một kho tàng về văn hóa
thuộc đệ nhất đẳng, v́ kho tàng văn hóa này làm cho đời sống có
ư nghĩa, nó dẫn con người đến chỗ sống hợp với nhân phẩm, và làm
cho con người cảm thấy hạnh phúc. Nó là một thứ ánh sáng lạ lùng
trên thế gian này.
Có nhiều người đương thời của chúng ta đây, khi họ nghĩ về ḿnh,
họ nghĩ rằng họ là thành quả mù quáng của những tác lực về thể
chất, một thứ nguyên sinh động vật biến chuyển theo may rủi.
Chúng ta biết rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, chúng ta có
một Người Cha yêu thương chúng ta, chúng ta là anh em với nhau
và định mệnh của t́nh yêu là những ǵ chúng ta có thể đă sống
đang đợi chờ chúng ta.
Chúng ta hiểu được cái ư nghĩa của lư trí và tự do, của yêu
thương và gia đ́nh. Đó là vẻ đẹp. C̣n những cái khác đều là tăm
tối và đê tiện. Dostoyevsky đă nói về điều này rằng: “Chỉ có vẻ
đẹp mới cứu thế giới”.
Vấn: Phải chăng khoa nhân loại học Kitô Giáo là nền
tảng vững chắc cho các thứ quyền làm người, như ĐTGM Fernando
Sebastian ở Pamplona đă nói đến trong lời giới thiệu cho tác
phẩm của ông?
Đáp: Thậm chí tôi có thể nói rằng khoa nhân loại học
Kitô Giáo về lịch sử là nguồn mạch cho các thứ quyền làm người,
v́ những ai góp phần vào việc h́nh thành giáo huấn này, mặc dù
trong một số trường hợp họ đă đánh mất đức tin, họ đă nắm được
cái yếu tố chính yếu về văn hóa Kitô Giáo rồi vậy.
Họ tin rằng rằng con người chúng ta là thành phần tự do và hữu
trách đối với các hành động của ḿnh; rằng chúng ta b́nh đẳng
với nhau; rằng chúng ta là những ngôi vị; và chúng ta có một
phẩm giá bất khả xúc phạm. Tất cả những điều này đều phát xuất
từ đức tin Kitô Giáo.
Nếu có ai nghĩ rằng con người là thành quả mù quáng của việc
tiến hóa về vật chất, một thứ nguyên sinh chất được tiến hóa
theo cơ may, như tôi đă nói đến trước đây, th́ họ không đạt được
thành quả ấy. Họ không thể suy diễn rằng chúng ta là thành phần
tự do và hữu trách. Họ không thể suy diễn rằng chúng ta đều b́nh
đẳng với nhau. Họ không thể suy diễn rằng chúng ta là những con
người hay chúng ta có một phẩm giá bất khả xúc phạm.
Thật vậy, chủ nghĩa duy vật về khoa học đang hủy hoại đi nền văn
hóa về pháp lư và luân lư của tính cách tân tiến. Nơi những vấn
đề thuộc khoa đạo lư sinh học, chúng ta đang ở vào lúc cao điểm
của cuộc tấn công sự sống con người.
Những phôi bào đang được chế tạo ra cho việc sử dụng trị liệu,
v́ phôi bào vốn là một con người được nghĩ rằng chỉ là một chùm
tế bào chẳng có phẩm giá ǵ, giống như bất cứ một thứ văn hóa về
tế bào nào vậy thôi.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
dịch từ Zenit ngày 9/11/2004