1.- Văn Minh Khoa Học
rước hết, về văn minh
khoa học phải nói là đă được bắt đầu từ thiên kỷ thứ hai, một thứ
văn minh chẳng những bao gồm các thành quả về sáng chế kỹ thuật mà
nhất là c̣n phát xuất từ chính những khám phá kỳ diệu này nữa. Cho
tới cuối thế kỷ 16, bản đồ thế giới mới chỉ có một đại địa lục,
trong đó có ba châu, Châu Á, Châu Phi và Châu Âu. Nếu nói đến Á Châu
là nói đến đạo giáo thế nào th́ nói đến Âu Châu là nói đến khoa học
như thế. Trong một ngàn năm qua, chung lịch sử của con người và
riêng lịch sử của Âu Châu, về phương diện văn minh khoa học liên
quan đến những khám phá quan trọng và khẩn thiết để nhờ đó thế giới
mới có thể đi đến giai đoạn kỹ thuật tối tân tiến ngày nay, đă đi từ
thời vô thức (dark age), qua thời phục hưng (renaissance), sang thời
minh tri (enlightenment).
Thật ra, nếu văn minh
khoa học làm nên bởi những khám phá khoa học mới bắt đầu nẩy mầm và
phát triển hoàn toàn trong thiên kỷ thứ hai th́ kiến thức khoa học
đă có từ xa xưa, phải nói là đă có ngay từ khi con người bắt đầu
hiện hữu trên trái đất này. Bởi v́ con người là một con vật có lư
trí, không thể nào không t́m ṭi và khám phá về chính bản thân ḿnh
cũng như về thiên nhiên chung quanh ḿnh, để có thể sống c̣n, vượt
thoát, vươn lên và làm chủ trái đất đúng như bản chất cùng vai tṛ
“linh ư vạn vật” của ḿnh.
Lịch sử đă cho thấy các
nền văn minh tối cổ (trên cả 1000 năm BC), như ở Á Châu có văn minh
Trung Hoa và văn minh Ấn Độ, và ở Phi Châu có văn minh Ai Cập. Ngoài
ra, c̣n phải kể đến hai nền văn minh trung cổ (dưới 500 năm BC) ở Âu
Châu, đó là văn minh Hy Lạp và văn minh Rôma, hai nền văn minh có
tính cách thiên về khoa học và kỹ thuật hơn đạo giáo và xă hội, đă
ảnh hưởng đến hầu hết miền Nam Âu và Trung Đông. Trong hai nền văn
minh trung cổ ở Âu Châu này, văn minh Rôma thiên về kỹ thuật, như về
kiến trúc, th́ văn minh Hy Lạp thiên về kiến thức khoa học, kể cả
khoa triết học. Khoa học và kỹ thuật, hai đặc tính nổi bật và chuyên
biệt của chung Âu Châu cũng như của các dân tộc Châu Âu, đă được bắt
nguồn từ hai nguồn văn minh trung cổ này là như thế. Và theo tiến
tŕnh phát triển, kiến thức khoa học đă từ từ trở thành văn minh
khoa học như sau.
Kiến thức khoa học đầu
tiên là kiến thức về y dược, với tư tưởng đầu tiên được phát xuất từ
Hippocrates, một y sĩ người Hy Lạp, một nhân vật vào khoảng
400 BC cho rằng bệnh tật là do thiên nhiên gây ra hơn là do
thần linh. Sau đó, một y sĩ Hy Lạp thời danh khác là Galen
hành nghề ở Rôma vào khoảng 100 BC, rút kinh nghiệm từ những
cuộc thí nghiệm trên các con vật, đă phác ra các thuyết về thân thể
học, bệnh lư học và thể lư học, những lư thuyết đă ảnh hưởng ngành y
khoa cả gần 1500 năm.
Kiến thức khoa học thứ
hai là kiến thức về toán học. Hầu hết ư niệm về h́nh học c̣n được
giảng dạy tại các học đường hiện nay là do công hệ thống hóa của
triết gia người Hy Lạp tên là Euclid vào khoảng 300 BC.
Kiến thức khoa học thứ ba
là kiến thức về vũ tru.ï Kiến thức khoa học về vũ trụ nhân loại có
được này bắt nguồn từ tư tưởng của nhà thiên văn Ptolemy
người Hy Lạp sống ở Alaxandria Ai Cập khoảng năm 150 BC, một
ư niệm cho rằng các hành tinh trên bầu trời quay chung quanh trái
đất. Dù ư niệm về thiên văn này sau này mới thấy được là hoàn toàn
sai, nhưng nó cũng đă tồn tại măi cho đến thế kỷ thứ 16 AD và đă
giúp cho các nhà thiên văn xưa tiên đoán được những cuộc nhật thực
hay nguyệt thực, cũng như đă định được vị trí của các hành tinh trên
bầu trời.
Tuy nhiên, những kiến
thức khoa học này, nhất là việc t́m ṭi khai phá thêm về lănh vực
này, đă bị đẩy lui vào thời tối tăm vô thức (Dark Age)
bởi các biến cố chính trị xẩy ra cho Đế Quốc Rôma nói chung vào cuối
thế kỷ thứ tư, khi Đế Quốc chia thành Tây Phương và Đông Phương, với
kết quả là phần Đế Quốc bên Tây Phương vào giữa thế kỷ thứ năm bị
các sắc dân Đức xâm chiếm, và kiến thức khoa học đă bị lấn át bởi
kiến thức thần học Trung Cổ (Middle Ages). Thế nhưng, cũng chính vào
Trung Cổ này, một số phát minh về kỹ thuật đă xuất hiện để bắt đầu
góp phần vào việc mở màn cho một nền văn minh khoa học, chẳng hạn
như phát minh lưỡi cầy (moldboard plow) để trồng cấy ở
Bắc Âu, phát minh đồng hồ động cơ (mechanical clock),
phát minh dùng bánh quay nước (water wheels) và dùng
cánh xoay gió (windmills).
Trong thế kỷ 12,
các kiến thức khoa học của Hy La, những kiến thức được chuyển dịch
sang tiếng Ả Rập rồi được lưu giữ và phát triển ở Ả Rập vào Thời Âu
Châu Tăm Tối, lại được phục hưng (Renaissance) và được
chuyển dịch sang ngôn ngữ học thức của Tây Phương bấy giờ là tiếng
Latinh. Thời phục hưng này được phát triển bởi những bộ óc thực tiễn
theo truyền thống Rôma hơn là thuần thức theo truyền thống Hy Lạp.
Một trong những nhân vật tiên phong cho ngành khoc học kỹ thuật thực
nghiệm này phải kể đến Niccolo Tartaglia ở Milan Nước Ư vào
đầu thế kỷ 16, người đă tự thí nghiệm (thay v́ căn cứ
vào sách vở) để trả lời cho vị lănh chúa ở Milan đang muốn biết ṇng
súng đại bác phải đặt nằm thế nào để có thể chứa được nhiều thuốc
súng nhất, rằng nó phải được đặt nằm theo góc 45%. Thí nghiệm đầu
tiên này cho thấy nơi khoa học quan sát đi trước lư thuyết theo
sau, và cũng là thí nghiệm mở màn cho những t́m ṭi khoa học sau đó.
Cũng trong thời phục hưng
khoa học này, lịch sử khoa học đă đánh dấu một cuộc cách mạng khủng
khiếp với sự xuất hiện của Nicolaus Copernicus ở Balan, nhất
là qua tác phẩm của ông xuất bản năm 1543 mang tựa đề
Về Những Chuyển Động Trên Các Thiên Cơ (On the Revolutions of
the Heavenly Spheres), trong đó, ông lật ngược lại lư thuyết của
Ptolemy cho rằng các hành tinh quay chung quanh trái đất, bằng một
khẳng định, được căn cứ vào những quan sát về đêm của ḿnh trong một
căn pḥng kiến thị nhỏ, trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ
mà là mặt trời.
Chủ trương này của
Copernicus đă được công nhận là chính xác, bởi một trong những nhà
khoa học danh tiếng nhất bấy giờ là Galileo Galilei, người Ư,
nhân vật đă quan sát không gian bằng viễn vọng kính mới được sáng
chế thời ấy và đă công bố khám phá của ḿnh vào năm 1610.
Ngoài ra, căn cứ vào một số những thí nghiệm, Galileo c̣n lật ngược
lại quan niệm suy luận thường thức cho rằng hai vật rơi cùng một lúc
và từ cùng một độ cao th́ vật nào có trọng lượng nặng hơn sẽ rơi
xuống nhanh hơn, bằng thuyết buông rơi (free falling)
theo khoa học, được kiểm chứng bằng những lần thí nghiệm, đó là tất
cả mọi vật (nếu không bị không khí cản trở đặc biệt) th́ cả hai đều
rơi xuống chạm đất cùng một lúc với nhau và khi rơi th́ cả hai cũng
rơi xuống ở cùng một tốc độ b́nh thường (regular speed) chứ
không rơi xuống càng lúc càng nhanh theo kiểu gia tốc (acceleration).
Nếu Tartaglia khởi xướng
việc thí nghiệm theo khoa học, Galilêo đặt nền móng cho phương pháp
khoa học th́ Isaac Newton, một nhà vật lư kiêm toán gia người
Anh, là người đă hoàn thành phương pháp t́m hiểu theo khoa học ấy.
Tuy việc khám phá ra ánh sáng là một hỗn hợp đủ loại mầu sắc của ông
phải nói là hết sức đáng kể, việc quan trọng nhất ông đóng góp cho
khoa học đó là việc ông khám phá ra các năng lực cùng với các định
luật tác động trên mặt đất cũng chi phối cả những biến động của các
vật trên bầu trời nữa, như hiện tượng một trái táo rơi xuống và hiện
tượng mặt trăng lơ lửng trên bầu trời đều do cùng một tác lực hay
trọng lực, sau này khoa học gọi đó là Định Luật Trọng Lực
Newton Phổ Quát, người đă tŕnh bày định luật này cùng với những
h́nh thức chuyển động khác trong cuốn Principia Mathematica (Những
Nguyên Lư Toán Học) xuất bản năm 1687. Nhờ định
luật về trọng lực quan trọng này, các khoa học gia mới có thể cắt
nghĩa được chính nhờ trọng lực thu hút của mặt trời mà các hành tinh
luôn luôn ở nguyên trong quĩ đạo của ḿnh, nếu chẳng may trọng lực
của mặt trời một lúc nào đó bị mất đi th́ các hành tinh sẽ lạc bay
lung tung trong không gian.
Định luật trọng lực của
Newton c̣n giúp cho chiêm tinh gia Edmond Halley người Anh
khám phá ra rằng các sao chổi không xuất hiện một cách bất ngờ mà
theo định kỳ của ḿnh. Vào đầu thế kỷ 18, sau khi
nghiên cứu các lần sao chổi xuất hiện, thấy rằng chỉ có một sao chổi
duy nhất cứ 76 năm xuất hiện một lần, lần ông thấy là năm 1682, hai
lần trước theo sách vở ghi lại là năm 1531 và năm 1607. Do đó, ông
tiên đoán là nó sẽ xuất hiện vào năm 1758, và quả thực đă xẩy ra như
thế. Sao chổi năm 1758, cũng là sao chổi duy nhất, được đặt tên là
Sao Chổi Halley, và việc xuất hiện đúng như Halley tiên đoán
đă chứng tỏ định luật trọng lực Newton hoàn toàn xác thực.
Thế là từ đó, từ
thế kỷ 18, Âu Châu bước vào thời minh tri (Enlightenment
hay Age of Reason), thời khao khát kiến thức, thời t́m
kiếm và khám phá khoa học, bằng cách áp dụng phương pháp khoa học
cho cả các ngành như sinh vật học (biology), địa
chất học (geology) và hóa chất học (chemistry).
Về sinh vật học có Carolus Linnaeus, một nhà thiên
nhiên học và thực vật học người Thụy Điển, vị đă đặt ra một hệ thống
mới để đặt tên và phân loại cây cối và thú vật. Về địa chất học
có James Hutton, một nhà hóa học người Tô Cách Lan, nhân
vật đă phổ biến một lư thuyết cho rằng trái đất quá cổ với những đặc
tính liên tục đổi thay một cách từ từ. Về hóa chất học có
Joseph Priestley, một hóa học gia người Anh, và Carl Scheele,
một hóa học gia người Thụy Điển, mỗi người tự ḿnh khám phá ra được
chất dưỡng khí (oxygen). Sau đó, qua thí nghiệm, Antoine
Lavoisier, một hóa học gia Pháp, đă khám phá ra sức bức cháy
(combustion) là một phản ứng hóa học bao giờ cũng được phát
tỏa bởi một chất nào đó với chất dưỡng khí oxygen. Cuốn
Elementary Treatise on Chemistry (Khái Luận Căn Bản về Hóa
Học) ông xuất bản năm 1789 là cuốn giáo
khoa hóa học tân thời đầu tiên.
Năm 1803,
nhà hóa học người Đại Anh Quốc John Dalton nêu lên một lư
thuyết mới rất quan trọng về vật lư, đó là vật chất được tạo nên bởi
các đơn vị li ti được gọi là nguyên tử, v́, theo quan sát và thí
nghiệm, hầu hết các chất bị hư hoại đều do bởi phản ứng hóa học,
song phản ứng hóa học sẽ hoàn toàn ngưng lại ở mức độ phản ứng cuối
cùng làm nên chất than (carbon), sau đó phản ứng hóa học
không xẩy ra nữa. Bấy giờ Dalton đă liệt kê ra 16 nguyên tố hóa học
(chemical element) là những chất được tạo nên bởi một loại
nguyên tử đặc biệt và những nguyên tử này dù bất khả phân chia song
cũng có thể trở thành hợp chất bằng những đường lối khác nhau để tạo
nên tất cả mọi chất liệu trên mặt đất này.
Thuyết nguyên tử của
Dalton đă giúp cho các hóa học gia cuối hậu bán thế kỷ 19 khám phá
ra được thêm các định luật về các hợp chất nguyên tử. Năm 1869,
hai nhà hóa học, một của Nga là Dmitri Mendeleev, và một của
Đức là Julius Lothar Meyer, mỗi người tự động tuyên bố rằng
ḿnh đă khám phá ra được định luật phân cách (periodic law),
v́ họ thấy rằng khi liệt kê các hóa chất theo trọng lượng nguyên tử
của chúng th́ các chất có đặc tính tương tự như nhau sẽ phân cách
nhau một cách đều đặn. Nhờ khám phá này, các nhà hóa học đă lập
thành một bảng phân cách hóa chất (periodic table of the elements)
hoàn toàn để làm tiêu chuẩn chung cho tới ngày nay. Tuy nhiên, vấn
đề tại sao các hóa chất lại có một trọng lượng thứ tự như vậy chỉ
được giải quyết vào đầu thế kỷ 20 với thuyết cơ lượng (quantum
mechanics) mà thôi.
Cũng vào thời điểm ngành
hóa học đang nở rộ như thế th́ ngành sinh vật học cũng tiến đến một
bước hết sức quan trọng vào thập niên 1870, với đóng góp của nhà hóa
học người Pháp, Louis Pasteur, cũng như của một y sĩ người
Đức, Robert Koch. Căn cứ vào các nghiên cứu của ḿnh, cả hai
cho thấy rằng các thứ bệnh nạn, nhất là bệnh truyền nhiễm là do
những vi khuẩn gây ra. Từ đó, Pasteur đă nghĩ tới việc sử
dụng nhiệt độ để diệt các loại vi trùng ở trong rượu, trong bia,
trong sữa và đồ ăn, một phương pháp sau đó được khoa học đặt tên cho
là phá-tổ-di-trùng (pasteurization). Ngoài ra, nhà bác
học Pasteur c̣n cho thấy tầm mức quan trọng và cần thiết của việc
chích ngừa (vaccination) và ông cũng đă chế ra một số
loại chủng ngừa (vaccines), trong đó có loại
chủng ngừa rabies vaccine để đề pḥng bị thú dại cắn (như bị chó
dại cắn).
Trong thế kỷ 19, trước
khi có bảng phân cách hóa học và có việc chích ngừa, th́ thuyết
tiến hóa (evolution) đă xuất hiện, một lư thuyết của
Charles Darwin, một người Đại Anh Quốc, được phổ biến trong cuốn
Nguồn Gốc Giống Loại (The Origin of Species) của ông
xuất bản năm 1859. Thuyết tiến hóa này được bắt đầu từ
kinh nghiệm việc nhân tạo lựa giống (artificial selection)
của tác giả là một người nuôi chim bồ câu bấy giờ. Theo tác giả,
việc tự nhiên lựa giống (natural selection) xẩy ra lâu
hơn là việc nhân tạo lựa giống, v́ việc tự nhiên lựa giống là sự
kiện tranh sống (competition) về đủ thứ giữa các phần
tử chênh lệch nhau (variations) trong cùng một
loại, và kết quả phải xẩy ra là phần tử nào có khả năng hơn sẽ sống
c̣n (the survival of the fittest).
Chưa hết, cuối thế kỷ 19
c̣n đánh dấu những khám phá khoa học quan trọng nữa, đó là các khám
phá về điện tính (electricity) và từ tính
(magnetism), do nhà vật lư học người Tô Cách Lan,
James Clerk Maxwell, người đă cho thấy hai lănh vực này bắt
nguồn và tương giao với nhau ra sao qua bốn phương tŕnh (equations)
được phổ biến vào năm 1865. Tác phẩm nổi danh nhất của
nhà vật lư toán học này là cuốn Khái Luận về Điện Tính và Từ Tính
(Treatise on Electricity and Magnetism) xuất bản năm
1873. Theo nhà khoc học này th́ những làn sóng điện từ
(electromagnetic waves) chuyển động giống như vận tốc của ánh
sáng, bởi v́ chính ánh sáng cũng bao gồm những làn sóng điện từ này,
một giả thuyết đă được công nhận là xác thực vào năm 1887,
qua các thí nghiệm của nhà vật lư học người Đức là Heineich R.
Hertz.
Năm 1897,
Joseph Thomson, một nhà vật lư học người Đại Anh Quốc, khám
phá ra rằng các nguyên tử (atoms) có chứa đựng các
vi thể (particles) mà ông gọi là các điện tử (electrons).
Năm sau đó, hai vợ chồng vật lư gia, Marie Curie, người Pháp gốc
Balan, và Pierre Curie, người Pháp, đă lấy được chất phóng xạ
(radium), nhờ đó đẩy mạnh việc nghiên cứu năng lực phóng
xạ (redioactivity).
Một trong những thành đạt
về khoc học mở màn cho thế kỷ 20 xẩy ra vào năm 1905,
đó là thuyết tương đối tính (theory of relativity)
của Albert Einstein, một nhà vật lư học người Đức. Theo
thuyết này th́ các định luật về vật lư đều giống nhau nơi tất cả mọi
trường hợp liên hệ, tức là, dù chúng ta ở đâu hay di động thế nào đi
nữa, chúng ta cũng chỉ thấy các định luật vật lư giống nhau xẩy ra
mà thôi. Thuyết này cho rằng một chiếc đồng hồ đang chạy, đối với
một người ở nguyên một chỗ, sẽ có vẻ như chạy chậm hơn là chiếc đồng
hồ của một người đang di chuyển. Sau khi được khoa học chứng nhận là
đúng, thuyết tương đối tính này đă trở thành một phần chính yếu của
ngành vật lư ngang hàng với định luật chuyển động của Newton.
Năm 1911,
căn cứ vào thí nghiệm, nhà vật lư học Đại Anh Ernest Rutherford
đă vẽ ra cho thấy cấu trúc của các nguyên tử, ở chỗ, mỗi nguyên
tử như là một vi cầu có một nhân tử (nucleus) ở giữa,
và có những điện tử (electrons) phóng phát rất nhanh.
Năm 1913, nhà vật lư học người Danish, Niels Bohr,
mới cắt nghĩa cho biết các điện tử của một nguyên tử hợp nhau lại
thành một quĩ đạo ở chung quanh nhân tử, khi một điện tử phóng từ
quĩ đạo phía ngoài vào quĩ đạo phía trong th́ phát ra một số lượng
nhiệt năng nhất định nào đó. Chính thuyết cơ lượng (quantum
mechanics) này cũng đă cho thấy được lư do tại sao hóa chất cần
phải được xếp thứ tự trên bảng phân cách hóa chất (periodic table
of the elements). V́ theo cơ lượng thuyết, những tác động giống
nhau của một nhóm nguyên tố là do nhóm nguyên tố ấy có cấu trúc
giống nhau nơi các nguyên tử của ḿnh.
Về thiên văn, từ thập
niên 1860, loài người mới chỉ nhận thấy rằng các hành tinh cách nhau
rất xa. Vào thập niên 1920, Edwin
Hubble, một nhà thiên văn Hoa Kỳ làm việc tại Pḥng Thí Nghiệm
Mount Wilson ở California mới cho thấy là Giải Ngân Hà (the Milky
Way) của chúng ta chỉ là một trong hàng tỉ giải ngân hà khác
trong vũ trụ, khi ông chứng tỏ cho biết có những chùm sao rất lớn mờ
mờ ở ngoài các giới hạn của Giải Ngân Hà, những giải ngân hà ấy đang
di chuyển chẳng những xa dần chúng ta mà c̣n xa cả lẫn nhau nữa. Như
thế có nghĩa là vũ trụ này đang giăn ra thêm và đă được xuất hiện
bằng một cuộc đại bộc phát (big bang) vào một lúc nào
đó ngay từ ban đầu. Theo các nhà thiên văn th́ vũ trụ đă được hiện
hữu và tồn tại khoảng từ 10 đến 20 tỉ năm.
Về sinh vật học, căn cứ
vào những khám phá của Gregor Mendel, một Đan Sĩ Áo Quốc, vào
giữa thế kỷ 19, các nhà sinh vật học mới chỉ biết được những đặc
tính thể lư là do di truyền, song măi đến năm 1953,
nhờ hai nhà sinh vật học, một của Hoa Kỳ là James Watson và
một của Đại Anh Quốc là Francis Crick, khoa học mới khám phá
ra cấu trúc của DNA (deoxyribonucleic acid) là một thứ
phân tử (molecule) làm nên chất di truyền (gene). Ngày
22/2/1997, thế giới bàng hoàng kinh ngạc trước sự xuất
hiện của con Dolly bên Tô Cách Lan, hoàn toàn do việc phối
bào nhân tạo (cloning) mà có, một trong những thí nghiệm
bằng cách tạo sinh vô tính dục này là nhờ bởi kỹ thuật phối hợp giữa
một tế bào vú (c̣n nguyên chất DNA) lấy từ con chiên cái đủ lớn thứ
nhất, với một tế bào trứng (đă bỏ chất DNA đi) lấy từ một con chiên
cái thứ hai, đem cấy vào trong bụng của một con chiên cái thứ ba,
sau 148 ngày, con chiên cái thứ bốn giống hệt con chiên cái thứ nhất
(v́ có chất DNA của con chiên cái thứ nhất này) đă chào đời.
Theo Gregory Benford,
một nhà vật lư học kiêm giáo sư thực thụ dạy ở đại học University of
California ở Irvine (UCI) từ năm 1980 và là một tiểu thuyết gia về
khoa học đoạt nhiều giải thưởng đáng kể, một trong 20 tác phẩm mới
nhất là Deep Time xuất bản tháng 2/1999, liên quan đến
kỹ thuật tân tiến hiện đại trong viễn tượng tương lai thế giới sau
này, cho rằng thế kỷ 21 sẽ là một thế kỷ của sinh vật học, ở chỗ:
Y khoa sẽ chữa dứt hai
bệnh tim và ung thư (tim th́ dễ hơn, c̣n ung thư phải tới 50 năm
nữa); vào năm 2100 con người ta trung b́nh có thể sống ngoài 100
tuổi (v́ đầu thế kỷ 20, con người sống trung b́nh tới 50 tuổi, nhờ
khoa học tiến bộ, con người ở vào cuối thế kỷ 20 hiện nay sống trung
b́nh tới 75 tuổi); nhất là với phương pháp tử thi được ướp lạnh
chờ hồi sinh (cryonics) sau khi chết, (như có một số
giống nhái ở Canada sau khi chết lạnh ở đáy hồ trong mùa đông đă hồi
sinh trong mùa hè), thân xác con người sẽ sống lại nhờ kỹ thuật
hợp thể (nanotechonology), một kỹ thuật có thể làm hoàn
chỉnh các phân tử tế bào bị hư hoại nơi cơ thể sinh vật c̣n sống
cũng như đă chết. Nếu tính cho tới cuối thiên kỷ thứ ba, nhà hóa học
này c̣n cho rằng bấy giờ con người sẽ chẳng những khám phá ra hết
thái dương hệ mà c̣n cả những v́ tinh tú gần ḿnh cùng với các hành
tinh của chúng trong vũ trụ này nữa, họ sẽ sống trên các hành tinh,
tuổi thọ của họ sẽ kéo dài hơn qua các thế kỷ và loài người sẽ được
chia ra thành các thứ phụ giống (subspecies) khác nhau. Tuy
nhiên, cũng cho tới lúc bấy giờ, con người vẫn phải đối diện và giải
quyết những vấn đề về triết học liên quan đến ư nghĩa của sự sống
con người cũng như đến vai tṛ của họ trên vũ trụ. Nhà bác học giáo
sư kiêm văn sĩ này cuối cùng cũng phải thú nhận là ḿnh chỉ nghĩ
theo kinh nghiệm loài người về tương lai vậy thôi, chứ thực tại của
nó chắc chắn là những ǵ không ai có thể mường tưởng ra được.
Đúng thế, cho tới nay,
nhiều vấn đề khoa học vẫn chưa thể giải quyết được và chắc chắn sẽ
không bao giờ giải quyết được. Chẳng hạn như vấn đề liên quan đến cả
triết học luận và thần học luận về nguồn gốc của vũ trụ từ không ra
có như thế nào trước giây phút đại bộc phát (big bang),
hay vũ trụ này sẽ giăn nở (expanding) tới đâu và cùng
tận vào lúc nào, rồi sẽ chấm dứt ra sao? Hiện tại vũ trụ rộng chừng
nào, con người cũng chưa biết, trong khi đó, theo thuyết phồng
nở (theory of inflation) là thuyết cho rằng vùng
ngụy chân không (false vacuum) theo toán học đă tạo nên
một trọng lực đẩy ra hơn là thu vào, họ c̣n cho rằng chẳng những có
nhiều giải ngân hà khác với Giải Ngân Hà của chúng ta mà c̣n cả rất
nhiều vũ trụ khác nữa, mỗi vũ trụ đều xuất hiện nhờ hiện tượng đại
bộc phát (big bang) vào thời điểm của ḿnh. Cả đến những vấn đề có
tầm mức nhỏ hơn, hoàn toàn thuộc về phạm vi khoa học cũng thế, như
vấn đề về sinh vật học liên quan đến việc làm thế nào một thai bào
có thể tự ḿnh phát triển thành một cơ cấu sinh vật, và làm thế nào
sinh vật lại trở nên già nua cằn cỗi rồi chết đi? Hoặc vần đề về vật
lư học liên quan đến bản chất thực sự của không gian, như phải chăng
không gian chỉ là một phạm vi bốn chiều (kể cả chiều thời gian) mà
thôi, cũng c̣n là vấn đề con người đang t́m hiểu và định nghĩa? v.v.
Tuy nhiên, dầu sao cũng
phải công nhận là chính con người là một siêu vũ trụ mà chính họ vẫn
chưa thể hiểu được chính ḿnh, cả về phương diện thể lư cũng như tâm
lư. Có thể nói, tụ điểm của cả thể lư và tâm lư của con người ở nơi
chính bộ óc của họ, một bộ óc siêu việt, một kỳ công c̣n tuyệt diệu
hơn cả không gian vũ trụ bao la mà chính bộ óc con người chưa thấu
triệt, và c̣n tinh vi hơn cả cơ cấu nguyên tử nơi tiểu vũ trụ vật
chất nữa, một bộ óc mà không biết cho đến bao giờ kỹ thuật khoa học
mới có thể tiến đến độ thay được óc cho thành phần khờ chậm trí khôn
(mental retardation), như đă có thể thay tim cho những người bị hư
tim, một bộ óc vật chất giống như con vật mà cho tới nay khoa học
cũng không thể hiểu làm thế nào nó lại có thể nẩy ra được những tư
tưởng trừu tượng vô h́nh, nhất là làm thế nào nó có thể phát sinh ra
nơi con người những ư thức (consciousness) hoàn toàn thuộc về thế
giới tâm linh sâu nhiệm mà chỉ có chính chủ thể mới biết được ḿnh
v.v.
Thật vậy, dù là một con
người vô thần duy vật đi nữa, hoàn toàn chối bỏ tất cả những ǵ là
siêu nhiên, là thần thánh và đời sau, con người vẫn không thể phủ
nhận được hai chân lư căn bản và thiết yếu này: chân lư thứ nhất,
đó là con người là một sinh vật hữu hạn, với một hữu thể bất toàn (không
toàn hảo) và với những khả năng bất lực (không toàn năng); chân lư
thứ hai, đó là mọi sự trên đời này, tức mọi sự trong vũ trụ khoa học
con người có thể khám phá ra đây, không thể nào tự ḿnh mà có.
Chân lư thứ nhất do chính kinh nghiệm bản thân hết sức thực tế của
con người mà có, c̣n chân lư thứ hai do lư luận khoa học mà có.
Thế mà, thực tế lại phũ
phàng cho thấy, những chân lư được căn cứ vào kinh nghiệm hay vào lư
luận vẫn có thể sai lầm như thường. Nếu khoa học là ngành kiến thức
t́m hiểu ngoại diện của thế giới vật chất, về cách thức “how”
nó hiện hữu và hoạt động, có những vấn đề nan giải và bí tắc thế nào,
triết học là ngành kiến thức t́m hiểu nội tại của thế giới siêu h́nh
về căn nguyên “why” nó hiện hữu và hoạt động cũng vậy, nhất
là ngành triết học theo các trường phái chuyên về lănh vực tri thức
(schools of epistemological), một lănh vực được đặc
biệt mở màn với René Descartes, một nhà triết gia kiêm toán
học người Pháp thế kỷ 17, với tác phẩm thời danh Những Suy
Tư về Đệ Nhất Triết Lư (Meditations on First Phylosophy)
xuất bản năm 1641, và với câu nói thời danh “ego cogito, ergo sum”
(tôi suy nghĩ chứng tỏ là tôi hiện hữu), cũng gặp vấn đề nan
giải và bế tắc trong việc nỗ lực giải quyết sự kiện làm sao con
người biết được những ǵ ḿnh nghĩ là đúng.
Bởi v́, nếu nói đến kinh
nghiệm là nói đến một trường hợp cụ thể, nói đến từng trường hợp,
liên quan đến cả sự kiện về thời gian và không gian, có thể lúc này
và ở đây đúng, song lúc khác và ở kia lại không xẩy ra như vậy, và
nói đến lư luận cũng là nói đến một phần kinh nghiệm được trí khôn
dựa vào đó để suy ra thành những lư lẽ hợp với cảm thức chung
(common sense) của mọi người. Lịch sử khoa học đă tỏ tường
cho thấy cả kinh nghiệm lẫn lư luận theo cảm thức chung của con
người nhiều lúc hoàn toàn sai lầm, hoàn toàn không đúng với sự thực,
không đúng với thực tại hiện hữu.
Chẳng hạn như chủ trương
có thể được gọi là thuyết nhân trung (homocentric) của
nhà thiên văn học Ptolemy, một lư thuyết làm chủ tâm thức loài người
ngót hai thiên niên, từ khoảng năm 150 BC tới măi giữa thế kỷ 16 AD,
khiến ai cũng nghĩ theo chiều hướng hoàn cầu hệ (global
system) chứ không hề nghĩ đến thái dương hệ (solar
system), v́ thuyết này chẳng những hợp nhận định chung của mọi
người, khi ai cũng thấy trước mắt rơ như ban ngày là có những dấu
hiệu chứng tỏ mặt trời lên (sunrise) và mặt trời
xuống (sunset), mà c̣n hợp với cả cảm thức chung của loài
người nữa, v́ họ cho rằng con người “linh ư vạn vật” mới là chủ
chốt, nên trái đất là nơi con người ở phải là trung tâm, là cái rốn
của vũ trụ.
Một trường hợp hết sức
điển h́nh khác nữa cho thấy tính cách thiếu sót và khả năng nông nổi
của cả lư luận lẫn kinh nghiệm theo cảm thức chung, đó là ai cũng
nghĩ rằng một khi thả hai vật xuống từ cùng một độ cao và cùng một
lúc, nếu không bị môi trường rơi của chúng ngoại lệ cản trở cách
nào, th́ vật nặng bao giờ cũng rơi nhanh hơn vật nhẹ, và những lư
luận yên trí theo cảm thức chung này đă tồn tại từ khi có loài người
cho măi đến đầu thế kỷ 17, thời điểm Galileô công bố hoàn toàn ngược
lại bằng chứng minh cụ thể cho thấy hai vật nặng nhẹ khác nhau về
trọng lượng rơi xuống đồng đều như nhau về cả thời gian lẫn vận tốc.