Chân Phước Têrêsa Calcutta

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 527 Thứ Sáu 15/10/2010

 

 

Chân Phước Têrêsa Calcutta sáng lập Ḍng Thừa Sai Bác Ái được xưng tụng như biểu hiệu của đức bác ái Kitô giáo đă được Giáo Hội phong chân phước vào Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2003 cách đây đúng 7 năm, vị chân phước có thể nói tiêu biểu thuộc hạng các vị đệ nhất trong những vị thánh nhân được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI xếp vào thành phần cách mạng và canh tân Giáo Hội cùng xă hội bằng đời Đức Tin Sống Thánh của ḿnh, trong thời điểm các vị được Thiên Chúa nhiệm mầu quan pḥng sử dụng và sai đến, như ngài đă nhận định trong huấn Từ cho Đêm Canh Thức Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX Thứ Bảy 20/8/2005 ở Cologne Đức quốc.

 

·         “Người ta chỉ cần nghĩ đến những nhân vật như Thánh Biển Đức, Thánh Phanxicô Assisi, Thánh Têrêsa Avila, Thánh Ignatiô Loyola, Thánh Charles Borromeo, những vị sáng lập ḍng thế kỷ 19 đă khởi động và hướng dẫn phong trào xă hội, hay những vị thánh của thời chúng ta đây – Maximilian Kolbe, Edith Stein, Mẹ Têrêsa, Cha Piô Năm Dấu… Các thánh nhân, như chúng ta đă nói, thực sự là thành phần cải cách. Giờ đây tôi muốn bày tỏ điều này một cách thậm chí quyết liệt hơn nữa, đó là cách mạng thực sự chỉ xuất phát từ các thánh nhân, từ Thiên Chúa mà thôi, con đường tối hậu để biến đổi thế giới…”

 

Tuyên Phong và Tiểu Sử

 

Trước hết, chúng ta hăy tổng quan chiêm ngưỡng Chân Phước Teresa Calcutta với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, qua bài ngài giảng trong Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ ngày 19/10/2003, để thấy được 4 điểm chính yếu nơi con người và cuộc đời của Mẹ : 1- một cuộc đời bộc lộ cho thấy trọn vẹn con người của Mẹ ở cả chiều kích hoạt động “thừa sai bác ái”, lẫn chiều kích nội tâm tận tuyệt bần cùng như thành phần nghèo khổ nhất trong các người nghèo khổ; 2- một cuộc đời đă phải trải qua rất lâu dài t́nh trạng nội tâm tăm tối thiêng liêng như bị Thiên Chúa bỏ rơi; 3- một cuộc đời đă được kêu gọi và thúc đẩy để “làm giăn cơn khát yêu thương và các linh hồn của Chúa Giêsu”, Đấng hiện thân nơi những người anh chị em hèn mọn nhất của Người; 4- một cuộc đời “muốn là dấu chứng cho ‘t́nh yêu của Thiên Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa, ḷng cảm thương của Thiên Chúa’”để có thể “mang các linh hồn về cho Thiên Chúa và đưa Thiên Chúa đến cho các linh hồn”.

 

1.-     … Mẹ Têrêsa Calcutta, vị sáng lập ḍng Chư Thừa Sai Bác Ái, vị mà hôm nay đây Tôi hân hoan ghi danh vào sổ bộ chân phước, vị đă đi theo lư lẽ tôi tớ phục vụ. Bản thân Tôi lấy làm biết ơn người phụ nữ can trường này, người phụ nữ Tôi cảm thấy lúc nào cũng kề cận bên Tôi. Là h́nh ảnh của một người Samaritanô Nhân Lành, Mẹ đă đi khắp nơi để phục vụ Chúa Kitô nơi thành phần nghèo khổ nhất trong những người nghèo. Chẳng có một thứ xung đột nào và một thứ chiến tranh nào có thể cản ngăn bước tiến của Mẹ.

 

Từ đó đến nay, Mẹ vẫn hằng nói với Tôi về các cảm nghiệm của Mẹ trong việc phục vụ các giá trị của phúc âm. Chẳng hạn Tôi nhớ đến những ǵ Mẹ nói khi Mẹ lănh Giải Thưởng Ḥa B́nh Nobel: “Nếu quí vị nghe thấy có người đàn bà nào không muốn sinh con và muốn phá thai, xin hăy cố thuyết phục chị ta mang đến cho tôi đứa bé ấy. Tôi sẽ yêu thương bé, v́ thấy nơi bé dấu hiệu h́nh ảnh của t́nh yêu Thiên Chúa” (Oslo, Dec. 10, 1979).

 

2.     Không phải ư nghĩa hay sao việc tuyên phong chân phước cho Mẹ đang được thực hiện vào chính ngày Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Truyền Giáo? Bằng chứng từ phúc âm của cuộc sống ḿnh, Mẹ Têrêsa nhắc nhở cho tất cả mọi người sứ vụ truyền bá phúc âm của Giáo Hội được thể hiện qua đức bác ái, một đức bác ái được bồi dưỡng bằng nguyện cầu và lắng nghe Lời Chúa. Biểu hiệu cho đường lối truyền giáo này là bức ảnh họa vị tân chân phước, một tay nắm tay của một thơ nhi và một tay cầm cỗ tràng hạt.

 

Chiêm niệm và hoạt động, truyền bá phúc âm hóa và cổ vơ nhân bản: Mẹ Têrêsa loan báo Phúc Âm bằng đời sống Mẹ hoàn toàn dấn thân cho người nghèo, nhưng đồng thời cũng sâu xa cầu nguyện.

 

3.     “Ai muốn làm lớn trong các con th́ phải làm tôi tớ của các con” (Mk 10:43). Chúng ta hôm nay nhớ đến Mẹ Têrêsa với một cảm xúc đặc biệt, nhớ đến một người đại tôi tớ của người nghèo, của Giáo Hội và của toàn thể thế giới. Đời sống của Mẹ là một chứng từ cho phẩm giá và đặc ân của việc khiêm hạ phục vụ. Mẹ đă muốn chẳng những là người hèn mọn nhất mà c̣n là người tôi tớ của thành phần hèn mọn nhất nữa. Là người mẹ thực sự của người nghèo, Mẹ đă cúi ḿnh xuống trên những ai chịu đựng các thứ h́nh thức nghèo khổ. Cái cao cả của Mẹ là ở khả năng Mẹ cho đi mà không tính đến cái giá phải trả, ban phát “cho đến độ đau đớn”. Đời sống của Mẹ là một cuộc sống Phúc Âm hết ḿnh và là cuộc hiên ngang loan báo Phúc Âm.

 

Tiếng kêu của Chúa Giêsu trên cây thập giá “Ta khát” (Jn 19:28), một lời kêu than bộc lộ cho thấy Thiên Chúa hết sức khát mong con người, đă thấm nhập vào tâm hồn Mẹ Têrêsa và gặp được một mảnh đất ph́ nhiêu nơi ḷng trí của Mẹ. Việc làm giăn cơn khát yêu thương và các linh hồn của Chúa Giêsu trong sự liên hợp với Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, đă trở thành mục đích duy nhất của cuộc sống Mẹ Têrêsa và là động lực nội tâm thúc đẩy Mẹ bung ḿnh ra, khiến Mẹ “vội vă” bôn ba khắp thế giới hoạt động cho phần rỗi và sự thánh hóa của thành phần nghèo khổ nhất trong các người nghèo.

 

4.     “Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25:40). Sứ điệp Phúc Âm này, một sứ điệp rất quan trọng để hiểu được việc Mẹ Têrêsa phục vụ người nghèo, là nền tảng cho niềm xác tín đầy tin tưởng của Mẹ đến nỗi khi đụng chạm đến những thân xác tan nát của người nghèo là Mẹ sờ chạm tới thân ḿnh của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu, ẩn ḿnh dưới bộ mặt buồn thảm của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là mục tiêu cho việc phục vụ của Mẹ nhắm đến. Mẹ Têrêsa đă làm sáng tỏ ư nghĩa sâu xa nhất của việc phục vụ, một tác động yêu thương, một hành động làm cho người đói, kẻ khát, người lạ, kẻ trần trụi, người bệnh, kẻ tù phạm (x Mt 25:34-36) là làm cho chính Chúa Giêsu.

 

V́ nh́n nhận thấy Người như thế, Mẹ đă thi hành bằng cả tấm ḷng mộ mến của Mẹ đối với Người, bộc lộ cho thấy tính cách âu yếm nơi t́nh yêu phu thê của Mẹ. Như thế, bằng việc hoàn toàn hy hiến bản thân ḿnh cho Thiên Chúa cũng như cho tha nhân, Mẹ Têrêsa đạt được mức độ thành toàn cao cả nhất và đă sống những tính chất quí giá nhất về nữ tính của Mẹ. Mẹ muốn là dấu chứng cho “t́nh yêu của Thiên Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa, ḷng cảm thương của Thiên Chúa”, nhờ đó nhắc nhở tất cả mọi người giá trị và phẩm vị của mỗi một người con Chúa “được dựng nên để yêu thương và được yêu thương”. Bởi vậy Mẹ Têrêsa đă “mang các linh hồn về cho Thiên Chúa và đưa Thiên Chúa đến cho các linh hồn”, cũng như đă làm giăn cơn khát của Chúa Kitô, nhất là con khát đối với những người khẩn thiết nhất, những người có nhăn quan về Thiên Chúa đă bị lu mờ bởi khổ đau và đớn đau.

 

5.     “Con Người đến để hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người” (Mk 10:45). Mẹ Têrêsa đă thông phần cuộc khổ nạn của Đấng Chịu Đóng Đanh, một cách đặc biệt trong những năm dài sống trong “tăm tối nội tâm”. Cuộc thử thách này có những lúc rất gắt gao mà Mẹ đă chấp nhận như ‘tặng ân và đặc ân” chuyên biệt.

 

Trong những giờ phút tối tăm nhất, Mẹ đă thiết tha nguyện cầu hơn nữa trước Thánh Thể. Cuộc thử thách dữ dội này đă khiến Mẹ nhận thấy ḿnh hơn bao giờ hết giống hệt như thành phần Mẹ phục vụ hằng ngày, bằng cảm nghiệm đớn đau và có những lúc bị loại trừ. Mẹ thích lập đi lập lại rằng t́nh trạng bần cùng nhất là t́nh trạng bị bỏ rơi, t́nh trạng không được ai chú ư chăm sóc cho anh chị em.

 

6.     “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ân sủng của Chúa, chúng con hy vọng nơi Chúa!”. Như tác giả Thánh Vịnh, biết bao nhiều lần, trong những giây phút lẻ loi cô quạnh nội tâm, Mẹ Têrêsa cũng đă lập lại cùng Chúa của Mẹ rằng: “Lạy Chúa Trời con, con trông cậy nơi Chúa, con cậy trông nơi Ngài!”.

 

Chúng ta hăy ca ngợi người phụ nữ nhỏ bé phải ḷng Thiên Chúa này, vị sứ giả khiêm hạ của Phúc Âm đây, và là một vị ân nhân không ngừng của nhân loại. Chúng ta tôn kính nơi Mẹ một con người nổi bật nhất trong thời đại của chúng ta. Chúng ta hăy chấp nhận sứ điệp của con người này và hăy noi theo gương của con người ấy.

 

Bốn điểm chính yếu về con người và đời sống của Mẹ Teresa Calcutta được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tóm gọn và đề cao trong bài giảng của ḿnh cho lễ phong chân phước cho Mẹ trên đây, đă được lược thuật trong bản tiểu sử về Mẹ được Văn Pḥng Cử Hành Phụng Vụ của ĐTC công bố (http://www.vatican.va/news_services/liturgy/saints/ns_lit_doc_20031019_madre-teresa_en.html) nguyên văn như sau:

 

Về huyết nhục th́ tôi là người Albany. Theo tính cách công dân th́ tôi là một người Ấn Độ. Với đức tin th́ tôi là một nữ tu Công Giáo. Theo ơn gọi của ḿnh th́ tôi thuộc về thế giới. Với tâm hồn của ḿnh th́ tôi hoàn toàn thuộc về Trái Tim Chúa Giêsu”. Với một thân ḿnh nhỏ con, một đức tin sắt đá, Mẹ Têrêsa Calcutta được ủy thác cho sứ mạng truyền bá t́nh yêu khát khao của Thiên Chúa cho nhân loại, nhất là cho thành phần nghèo nhất trong thành phần nghèo khổ. “Thiên Chúa vẫn yêu thương thế gian và Ngài gửi anh chị em và tôi đến làm t́nh yêu của Ngài và ḷng xót thương của Ngài đối với người nghèo”. Mẹ là một tâm hồn đầy tràn ánh sáng Chúa Kitô, cháy lửa mến yêu Người và bừng bừng một ước mong duy nhất đó là “làm giăn cơn khát yêu thương và các linh hồn của Người”.

 

Vị sứ giả ánh sáng này của t́nh yêu Thiên Chúa được sinh vào đời ngày 26/8/1910 ở Skopje, Albania, một thành phố tọa lạc ở giao điểm lịch sử Balkan. Người con trẻ nhất đây được sinh ra bởi hai vị thân sinh Nikola và Drane Bojaxhiu và được rửa tội với tên là Gonxha Agnes, được Rước Lễ Lần Đầu lúc 5 tuổi rưỡi và chịu phép Thêm Sức vào tháng 11/1916. Từ ngày Rước Lễ Lần Đầu, t́nh yêu các linh hồn đă triển nở trong tâm hồn bé. Bé mất cha bất ngờ khi mới lên tám. Bà mẹ góa kiên cường nuôi con cái, và đă ảnh hưởng rất nhiều đến tính nết cùng ơn gọi của bé. Ngoài ra, đời sống đạo của bé cũng được nâng đỡ bởi cả vị linh mục Ḍng Tên coi xứ Thánh Tâm là nơi bé sinh hoạt nữa.

 

Vào năm 18 tuổi, được thúc đẩy bởi ư định trở thành một nhà truyền giáo, cô Gonxha đă bỏ gia đ́nh vào tháng 9/1928 để dâng ḿnh cho Chúa trong Ḍng Trinh Nữ Maria, tức tu hội Nữ Tu Loreto ở Ái Nhĩ Lan. Tại đây chị được đặt tên là Nữ Tu Maria Têrêsa theo Thánh Nữ Thérèse Hài Đồng Giêsu. Vào tháng 12 cùng năm, chị này lên đường đi Ấn Độ, tới Calcutta ngày 6/1/1929. Sau khi khấn lần đầu vào tháng 5/1931, Nữ Tu Têrêsa được chỉ định đến cộng đồng Loreto Entally ở Calcutta và dạy học ở Trường Thánh Maria phái nữ. Vào ngày 24/5/1937 Nữ Tu này khấn trọn, để trở thành, như chị nói, “hôn thê của Chúa Giêsu” cho “đến muôn đời bất tận”. Từ đó trở đi, chị được gọi là Mẹ Têrêsa. Mẹ tiếp tục dạy học ở Trường Thánh Maria và làm hiệu trưởng của trường này vào năm 1944. Là một con người sâu xa cầu nguyện và hết sức yêu thương chị em ḍng cũng như học sinh của ḿnh, 20 năm sống trong ḍng Loreto Mẹ cảm thấy thật là hạnh phúc. Nổi tiếng là bác ái, vị tha và can đảm, khả năng chịu khó và có óc tổ chức, Mẹ đă sống trọn cuộc sống tận hiến của ḿnh cho Chúa Giêsu, giữa chị em đồng tu, một cách trung thành và vui vẻ.

 

Vào ngày 10/9/1946, trên chuyến xe lửa từ Calcutta tới Darjeeling để dự tuần pḥng hằng năm, Mẹ Têrêsa đă được “ơn soi động”, một “ơn gọi trong ơn gọi” của Mẹ. Hôm ấy, Mẹ đă ở trong một trạng thái mà Mẹ không bao giờ giải thích cho biết, cơn khát yêu thương và các linh hồn của Chúa Giêsu chiếm đoạt tâm hồn Mẹ, và ước muốn làm giăn cơn khát của Người trở thành mănh lực chi phối cuộc sống của Mẹ. Những tháng ngày sau đó, bằng những ngôn xướng và thị kiến nội tâm, Chúa Giêsu đă tỏ cho Mẹ biết ư của Trái Tim Người muốn có “những mồi ngon của t́nh yêu”, thành phần “chiếu tỏa t́nh yêu của Người trên các linh hồn”. Người đă nài xin Mẹ: “Hăy đến để làm ánh sáng của Cha. Cha không thể đi một ḿnh”.

 

Người đă tỏ cho Mẹ biết cái đau đớn của Người nơi thành phần nghèo khổ bị bỏ rơi, niềm sầu thương của Người ở chỗ vô tri của họ và niềm khát vọng được họ yêu mến. Người đă xin Mẹ Têrêsa hăy thành lập một cộng đoàn tu tŕ, Ḍng Thừa Sai Bác Ái, dấn thân phục vụ thành phần nghèo nhất trong các người nghèo. Gần hai năm trời bị thử thách và nhận thức qua đi trước khi Mẹ được phép bắt đầu khởi sự. Vào ngày 17/8/1948, lần đầu tiên Mẹ mặc bộ sari trắng viền xanh dương và bước qua cổng tu viện Loreto thân yêu để tiến vào thế giới người nghèo.

 

Sau một khóa huấn luyện ngắn với Các Nữ Tu Thừa Sai Y Khoa ở Patna, Mẹ Têrêsa trở về Calcutta và t́m một trú cư tạm thời với Các Nữ Tỷ Nghèo. Vào ngày 21/12 lần đầu tiên Mẹ đi đến những khu nhà ổ chuột. Mẹ đă viếng thăm các gia đ́nh, rửa các vết ghẻ lở cho một số trẻ em, chăm sóc cho một người già nằm bệnh trên đường phố và thuốc men cho một người đàn bà đang chết đói và bị lao phổi. Mẹ bắt đầu mỗi ngày bằng việc rước lấy Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể và rồi lên đường, tay cầm tràng hạt, để t́m kiếm và phục vụ Ngài nơi “thành phần không được chú ư tới, không được yêu thương, không được chăm sóc“. Sau mấy tháng, Mẹ được những học sinh của Mẹ trước đó, từng người một, đến tham gia cộng tác với Mẹ.

 

Ngày 7/10/1950, hội ḍng mới Chư Thừa Sai Bác Ái đă được chính thức thành lập tại TGP Calcutta. Vào đầu thập niên 1960, Mẹ Têrêsa bắt đầu gửi các Nữ Tu ḍng của Mẹ đi đến các vùng khác ở Ấn Độ. Sắc Lệnh Ca Ngợi do Đức Thánh Cha Phaolô VI ban gửi cho hội ḍng của Mẹ đă khuyến khích Mẹ mở một nhà ở Venezuela. Chẳng bao lâu sau những nhà khác được thành h́nh ở Rôma và Tanzania, rồi dần dần ở hết mọi lục địa. Bắt đầu từ năm1980 và liên tục qua thập niên 1990, Mẹ Têrêsa đă mở những nhà ở hầu hết mọi quốc gia cộng sản, bao gồm cả ở Khối Hiệp Nhất Sô Viết trước đây, Albania và Cuba.

 

Để đáp ứng hơn nữa cho cả nhu cầu về thể lư cũng như thiêng liêng, năm 1963 Mẹ Têrêsa đă lập hội ḍng Thừa Sai Chư Huynh Bác Ái, năm 1976 ngành chiêm niệm cho các Nữ Tu, năm 1979 ngành Chư Huynh Chiêm Niệm, và năm 1984 Thừa Sai Chư Phụ Bác Ái. Tuy nhiên, ơn soi động của Mẹ không giới hạn vào những ai theo đuổi ơn gọi tu tŕ mà thôi. Mẹ đă thành lập tổ chức Đồng Cán Sự của Mẹ Têrêsa cũng như Đồng Cán Sự Phục Vụ Bệnh Nhân và Đau Khổ, những người thuộc nhiều tín ngưỡng và quốc tịch được Mẹ chia sẻ tinh thần cầu nguyện của Mẹ, tinh thần giản dị đơn sơ của Mẹ, tinh thần hy sinh của Mẹ và tinh thần tông đồ thực hiện những việc làm yêu thương khiêm tốn của Mẹ. Tinh thần này sau đó đă tác động nên Chư Thừa Sai Giáo Dân Bác Ái. Để đáp lại những lời yêu cầu của nhiều linh mục, vào năm 1981, Mẹ Têrêsa cũng đă bắt đầu Phong Trào Chúa Kitô cho Các Linh Mục như là một “đường lối thánh thiện nhỏ bé” cho những vị muốn tham dự vào đặc sủng và tinh thần của Mẹ.

 

Trong những năm phát triển nhanh này, thế giới bắt đầu chú ư tới Mẹ Têrêsa và công việc Mẹ đă khởi công thực hiện. Nhiều bằng tưởng thưởng, bắt đầu là Bằng Tưởng Thưởng Padmashiri Ấn Độ vào năm 1962, nhất là Giải Ḥa B́nh Nobel năm 1979, đă tôn vinh công cuộc của Mẹ, khiến cho giới truyền thông lưu ư và bắt đầu theo dơi các sinh hoạt của Mẹ. Mẹ đă lănh nhận cả các thứ giải thưởng và sự chú trọng “v́ vinh quang Thiên Chúa và nhân danh kẻ nghèo”.

 

Suốt cuộc đời và lao nhọc của Mẹ Têrêsa đều chứng tỏ cho thấy niềm vui của yêu thương, sự cao cả và phẩm giá của hết mọi con người, giá trị của những điều nhỏ mọn được trung thành thực hiện v́ yêu mến, và giá trị siêu việt của t́nh bằng hữu với Thiên Chúa. Thế nhưng c̣n một phương diện anh hùng khác về người nữ cao cả này đă được tỏ lộ chỉ sau khi người nữ ấy qua đời. Khuất kín trước mắt của tất cả mọi người, ngay cả với những người thân cận nhất với Mẹ, đó là đời sống nội tâm của Mẹ, đầy những cảm nghiệm đau thương sâu đậm liên lỉ của t́nh trạng bị xa ĺa Thiên Chúa, thậm chí bị Ngài loại bỏ, mà lại cứ càng khát vọng t́nh yêu của Ngài. Mẹ đă gọi cảm nghiệm nội tâm này là “bóng tối tăm”. “Đêm tối đau thương” của linh hồn Mẹ ấy, được bắt đầu vào khoảng thời gian Mẹ khởi sự hoạt động cho người nghèo và đă tiếp tục cho đến hết đời của Mẹ, đă khiến Mẹ tiến đến chỗ được hiệp nhất sâu xa với Thiên Chúa hơn bao giờ hết. Nhờ bóng tối tăm Mẹ đă tham dự một cách lạ lùng vào cơn khát của Chúa Giêsu, vào khát vọng đau thương bừng cháy yêu thương của Người, và Mẹ đă tham dự vào nỗi cô đơn hiu quạnh nội tâm của thành phần nghèo khổ.

 

Trong những năm cuối đời của ḿnh, mặc dù có những trục trặc trầm trọng về sức khỏe, Mẹ Têrêsa vẫn tiếp tục coi sóc Hội Ḍng của Mẹ và đáp ứng các nhu cầu của người nghèo cũng như của Giáo Hội. Vào năm 1997, con số nữ tu ḍng của Mẹ gần 4 ngàn và đă thiết lập được 610 nhà ở 123 quốc gia trên thế giới. Vào 3/1997, Mẹ đă chúc lành cho vị thừa kế mới được tuyển bầu của ḿnh làm Bề Trên Tổng Quyền của Ḍng Chư Thừa Sai Bác Ái, để rồi thực hiện nhiều chuyến xuất ngoại hơn. Sau khi gặp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lần sau hết, Mẹ đă trở về Calcutta và sống những tuần lễ cuối cùng của ḿnh, tiếp đón các khách viếng thăm và chỉ dẫn cho các Nữ Tu của Mẹ.

 

Vào ngày 5/9, Mẹ đă chấm dứt cuộc sống trần gian. Mẹ đă được vinh dự chôn cất theo quốc táng do chính quyền Ấn Độ thực hiện, và thi thể của Mẹ được an táng tại Nhà Mẹ Ḍng Thừa Sai Bác Ái. Mộ của Mẹ trở thành một địa điểm hành hương mau chóng và là nơi cầu nguyện cho dân chúng thuộc đủ mọi tín ngưỡng, giầu cũng như nghèo. Mẹ Têrêsa đă để lại chứng từ của một đức tin bất khả chuyển lay, một niềm hy vọng bất khuất và một đức ái phi thường. Việc Mẹ đáp lại lời kêu gọi của Chúa Giêsu “hăy đến làm ánh sáng của Cha”, làm Mẹ trở thành một vị Thừa Sai Bác Ái, thành “mẹ của người nghèo”, làm biểu hiện của ḷng xót thương trước thế giới, và là một chứng từ sống động cho t́nh yêu khát khao của Thiên Chúa.

 

Không đầy hai năm sau khi qua đời, căn cứ vào tiếng tăm thánh đức lẫy lừng của Mẹ cùng với những thuận lợi xẩy ra, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă cho phép tiến hành việc phong thánh cho Mẹ. Ngày 20/12/2002, Ngài đă chuẩn nhận sắc lệnh về các nhân đức anh hùng và phép lạ của Mẹ.

 

Sự Nghiệp và Danh Ngôn

 

Phải công nhn là trong các lễ phong chân phước, thậm chí kể cả lễ phong thánh, không có một lễ nào linh đ́nh và long trọng như lễ phong chân phước cho Mẹ Teresa Calcutta, một người nữ tu của thế kỷ 20 đầy hận thù tàn sát, một nữ tu bản chất tầm thường nhưng nội tâm thâm sâu thánh đức, được thể hiện bằng một cuộc đời thừa sai bác ái dấn thân phục vụ thành phần nghèo nhất trong các người nghèo, một nhân vật thời đại đă nhận 124 Bằng Tưởng Thưởng.

 

Thật vậy, trước sau chính lễ phong chân phước cho Mẹ có Thánh Lễ ở Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô Thứ Sáu 17/10, tại Đền Thở Đức Bà Cả Thứ Bảy 18/10, ở Quảng Trường Thánh Phêrô Thứ Hai 20/10. Chúa Nhật 19/10, chính ngày phong chân phước, vào lúc 5 giờ 30 chiều có buổi tŕnh chiếu cuốn phim “Mẹ Têrêsa: Một Di Sản”. Từ 20-22/10, các thánh tích của vị tân chân phước sẽ được trưng bày để tôn kính ở Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô. Từ 11-26/10, triển lăm ở Rôma về đời sống Mẹ Têrêsa, tinh thần và sứ điệp của Mẹ, ở hầm mộ Antonianum (Via Merulana 124).

 

Tác phẩm “Mẹ Têrêsa: Một Truyện Đời Được Mẹ Chuẩn Nhận”, do tác giả Navin Chawla viết đă được phát hành lần đầu tiên vào năm 1996, và đă được chuyển dịch sang 15 ngôn ngữ khác nhau. Trung Tâm Mẹ Têrêsa Calcutta ở Nữu Ước được lập nên để cổ vơ việc chân thực mến mộ Mẹ Têrêsa cũng như hiểu biết đời sống, hoạt động, thánh đức, linh đạo và sứ điệp của Mẹ. Nhà Thờ Mẹ Têrêsa Giáo phận Sivagangai đă được khánh thành ngày 29/5/2005, Lễ Ḿnh Máu Thánh Chúa, ở làng Malvalayanvayal, tiểu bang Tamil Nadu miền nam Ấn Độ. Kỷ niệm 100 năm Sinh Nhật của Chân Phước Teresa Calcutta (5/9/1910-2010), chính phủ Ấn Độ đă cho phát hành đồng 5 Ấn kim để ghi nhớ Mẹ chỉ có 5 Ấn kim khi bắt đầu sứ vụ phục vụ người nghèo nhất trong các người nghèo.

 

Trong lịch sử Giáo Hội chưa có một ḍng tu nào phát triển một cách nhanh chóng (trong ṿng 50 năm: 1950-1997), rộng lớn (khắp năm châu bốn bể) và đa dạng (các ngành nam nữ, chiêm niệm và hoạt động, tu sĩ giáo sĩ và giáo dân) như Ḍng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa Calcutta. Sau đây là bản liệt kê sự nghiệp sáng lập của Mẹ.


7/10/1950: Hội ḍng Thừa Sai Bác Ái được chính thức h́nh thành trước Giáo quyền. (Bấy giờ hội ḍng mới có 12 người. Người đầu tiên theo Mẹ vào tháng 3/1949. Người thừa kế đầu tiên thay Mẹ làm bề trên tổng quyền của cả hai ngành hoạt động và chiêm niệm là Sơ M. Nirmala, MC).


25/3/1963: Ngành NamThừa Sai Bác Ái được chính thức thành h́nh ở Calcutta. (Cha Ian Travers-Ball, SJ, ḍng Tên đă gia nhập ngành này năm 1965, với tên gọi là Sư Huynh Andrew, MC, và là bề trên tiên khởi của ngành nam. Bề trên tổng quyền của ngành nam được gọi là Tổng Phục Vụ [The Servant General] và vị Tổng Phục Vụ hiện nay là Sư Huynh Yesudas, MC)


3/1969: Ngành Cộng Tác Viên của Mẹ Têrêsa được chính thức bắt đầu. (Ngành này bao gồm tất cả mọi giáo dân, thuộc đủ mọi tôn giáo, quốc gia và nếp sống, muốn cùng với Mẹ Têrêsa làm giăn cơn khát yêu thương và các linh hồn của Thiên Chúa, bằng việc hiến dâng cho Ngài t́nh yêu của họ và làm cho t́nh yêu của Ngài được cảm nhận, cách riêng nơi thành phần nghèo nhất trong các người nghèo, nhất là nơi những ai thuộc gia đ́nh riêng của các phần tử ngành này. Ngành Cộng Tác Viên giáo dân đây c̣n có thể được thực hiện bởi một người “Cộng Sự Viên Bệnh Nhân và Đau Khổ” với một vị Thừa Sai Bác Ái).

 

25/6/1976: Ngành chiêm niệm Nữ được thành h́nh ở Nữu Ước. (Sứ vụ của các nữ tu MC ngành chiêm niệm này là t́m kiếm các linh hồn nghèo nhất trong các người nghèo qua việc tông đồ cầu nguyện, nhất là việc tôn thờ Thánh Thể, cũng như qua các hoạt động t́nh thương về tinh thần)


19/3/1979: Ngành chiêm niệm Nam được thành h́nh ở Rôma. (Dưới sự hướng dẫn của Cha Sebastian Vazhakala, MC, ngành nam chiêm niệm đă chính thức cộng nhận như một hội ḍng thuộc giáo phận ở Rôma vào năm 1993).

 

1980: Thành lập Phong Trào Thân Thể Chúa Kitô Cho Linh Mục (Corpus Christi Movement for Priests) cho các vị linh mục muốn thông dự vào linh đạo của Mẹ. (Cha Joseph Langford đă cộng tác vào việc này. Phong trào này đă tiếp tục lan rộng nơi các linh mục triều trên khắp thế giới dưới sự lănh đạo hiện nay của Cha Pascual Cervera ở Nữu Ước. Ngoài ra, Mẹ Têrêsa c̣n muốn hỗ trợ các vị linh mục hơn nữa bằng chương tŕnh Veronica Intercessors For Priests - Verônica Chuyển Cầu Cho Các Vị Linh Mục, một chương tŕnh thừa nhận thiêng liêng giữa một vị linh mục với một nữ tu hy sinh cầu nguyện cho ngài, theo chiều hướng của Chị Thánh Têrêsa Nhỏ trước đây. Chương tŕnh này đă được các vị giám mục cổ vơ và lan truyền đến nhiều ḍng tu khác nhau).


16/4/1984: Ngành Thừa Sai Bác Ái Giáo Dân được thành h́nh. (Mục đích là để giáo dân sống đời sống thiêng liêng được tổ chức theo đặc sủng của Mẹ Têrêsa).


13/10/1984: Ngành Thừa Sai Bác Ái Linh Mục được thành h́nh ở Bronx, Nữu Ước. (Cha Joseph Langford đă cộng tác vào việc thành lập ngành này. Mục đích của ngành này là để tạo cơ hội cho các vị linh mục phục vụ người nghèo nhất trong các người nghèo, giúp vào việc thiêng liêng cho gia đ́nh Thừa Sai Bác Ái, cũng như để truyền bá linh đạo cùng sứ vụ của Mẹ Têrêsa. Ngành này đă trở thành một hội ḍng thuộc giáo phận ở Tijuana, Mễ Tây Cơ năm 1992. Như thế, ngành nữ chiêm niệm và hoạt động chỉ là một ḍng, th́ ngành nam, kể cả Sư Huynh và Linh Mục, lại có ba ḍng (ngành chiêm niệm Nam MC, ngành Sư Huynh MC và ngành Linh Mục MC). Nhưng tất cả đều có một mục đích duy nhất là thực hiện đặc sủng của Mẹ Têrêsa, người “Mẹ” duy nhất của tất cả các ngành, trong việc làm giăn cơn khát của Thiên Chúa, bằng đời sống thánh thiện cũng như bằng việc phục vụ phần rỗi và thánh hóa thành phần nghèo nhất trong các người nghèo.

 

5/9/1997: Khi Mẹ Têrêsa qua đời, tổng số Chị Em Thừa Sai Bác Ái là 3.914 ở 594 cộng đồng tại 123 quốc gia trên khắp thế giới.

 

19/10/2003: Khi Mẹ Têrêsa được phong chân phước, tất cả số nhà lên đến 710 ở 132 quốc gia. Theo niên giám 2003 của Ṭa Thánh ḍng này có 4.690 nữ tu kể cả tập sinh.

 

Theo chiều hướng Đức Tin Sống Thánh của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, trong bui Triu Kiến Chung Th Tư ngày 25/8/2010, “tôi xin anh chị em hăy làm quen hơn nữa với các Thánh, bắt đầu với những vị anh chị em được kêu gọi noi gương, bằng việc đọc về đời sống của các vị và những ǵ các vị viết…”, th́ chúng ta chẳng những chiêm ngưỡng gương các thánh mà c̣n t́m hiểu giáo huấn của các ngài nữa.

 

Sau đây là một số câu nói thời danh của Chân Phước Têrêsa Calcutta, bao gồm cả lời chia sẻ cảm nghiệm phục vụ của Mẹ, đáng chúng ta suy nghĩ và áp dụng thực hành để Sống Thánh Chứng Nhân như Mẹ.

 

·         Hăy làm những sự b́nh thường với một t́nh yêu phi thường”.

·         “Thiên Chúa đă tạo dựng nên chúng ta để yêu thương và được thương yêu, và đây là khởi đầu của việc cầu nguyện, đó là biết rằng Ngài yêu thương tôi, tôi được dựng nên cho những ǵ là cao cả”.

·          “Chúng ta không phải là những cán sự xă hội. Trước mắt một số người chúng ta đang làm việc xă hội, nhưng chúng ta cần phải là những con người chiêm niệm giữa ḷng thế giới”.

·         “Thánh thiện không phải là vấn đề hào nhoáng của một số người; thánh thiện chẳng qua chỉ là một nhiệm vụ đối với quí vị và đối với tôi mà thôi”.

·         “Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người. Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hăy chăm sóc 3 người kia; c̣n mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đă làm tất cả những ǵ t́nh yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ ấy lên giường và chị đă nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đă nắm lấy tay tôi nói lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét ḿnh trước chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói ǵ nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đă cho tôi c̣n hơn thế nữa. Chị đă cho tôi tấm ḷng ưu ái tri ân của chị. Và chị đă chết với một nụ cười trên khuôn mặt. Sau đó chúng tôi đă nhặt được một người đàn ông ở một cái cống rănh, một nửa thân ḿnh đă bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đă mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đă sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau khi chúng tôi đă lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi ḿnh mẩy của ông, tất cả những ǵ ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đă có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so sánh bất cứ sự ǵ. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất”.

 

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đă đến trong thế gian,

Chúa đă yêu thương chung Giáo Hội và môn đệ Chúa cho đến cùng,

tới độ Chúa đă tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lư,

nhờ đó họ được hiệp nhất nên một trong Chúa và Cha

để cho thế gian nhận biết Chúa đă được Cha sai.

Xin Nhựa Sống Thánh Linh của Chúa luôn sung sức trong chúng con

để cành nho chúng con có thể trổ sinh muôn vàn Hoa Trái Thần Linh cho Chúa

như Chân Phước Têrêsa Calcutta của Chúa.

 Amen.