Đức Hồng Y Thuận
Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho
Chương Tŕnh
Phát Thanh Tin
Mừng Sự Sống 532
Thứ Sáu
19/11/2010
Là người
Công giáo Việt
Nam, cho dù chưa
từng
được
trực
diện
hạnh
ngộ
với
Đức
Hồng
Y Phanxicô
Xavier Nguyễn
Văn
Thuận,
chúng ta
đều
nghe thấy
tiếng
tăm
lừng
lẫy
về
ngài, thậm
chí cảm
thấy
nhờ
ngài mà
được
vinh dự
trước
Giáo Hội
hoàn vũ
nữa.
Như
Đức
Cha Khảm
đă
chia sẻ
cảm
nhận
trong bài giảng
cho Thánh Lễ
Tạ
Ơn
tại
Vương
Cung Thánh
Đường
Sài G̣n vào
đúng
ngày Giáo Hội
ở
Rôma mở
án phong chân phước
cho ngài ngày
22/10/2010.
·
“Đức
Cố
Hông Y Phanxicô
là niềm
vinh dự
của
toàn thế
giới,
cách riêng
đối
với
Giáo hội
và
đất
nước
Việt
Nam. Niềm
vinh dự
ấy
đặc
biệt
hơn
khi Giáo Hội
mở
án phong chân phước
cho Ngài… Trên
thê giới
này có rất
nhiều
người
ngưỡng
mộ
Đức
Cố
Hồng
Y của
chúng ta. Nhưng
tại
sao người
ta lại
ngưỡng
mộ
Ngài? Người
ta không ngưỡng
mộ
v́ tài năng
tri thức
của
Ngài, cho dù
Ngài rất
thông minh. Người
ta cũng
không ngưỡng
mộ
tài lănh
đạo
của
Ngài, cho dù
ngài là người
lănh
đạo
tài ba… Nhưng
người
ta ngưỡng
mộ
Đức
Cố
Hồng
Y của
chúng ta là v́ họ
nhận
ra
được
nơi
Ngài h́nh
ảnh
một
chứng
nhân của
niềm
hy vọng
và yêu thương…”
Để đi sâu vào
tiểu sử của ngài
hơn nữa, sau đây
là vài hàng vắn
tắt về Đức Cố
Hồng Y Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn
Thuận
(1928-2002),
được Đức Ông Khả
ở Rôma tóm lược
vào chính ngày
ngài qua đời
16/9/2002 và
được Đài Chân Lư
Á Châu Việt Ngữ
ở Manila Phi
Luật Tân phát
thanh cùng ngày.
“Đức Hồng Y
Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuận
đă qua đời lúc 6
giờ chiều ngày
16/09/2002,
hưởng thọ 74
tuổi. Lễ Nhập
Quan được cử
hành lúc 17 giờ
ngày 17/09/2002
(giờ Roma), sau
đó quan tài sẽ
được về quàn tại
Collegio san
Pietro apostolo
để giáo dân kính
viếng.
“Đức Hồng Y
Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuận
sinh ra tại Phú
Cam, thuộc Tổng
Giáo phận Huế,
Tỉnh Thừa Thiên,
Việt Nam, ngày
17 tháng 4 năm
1928. Gia đ́nh
Ngài có 8 anh
chị em: 3 trai
và 5 gái, mà
Ngài là con cả.
Ông Bà Cụ Cố
thân sinh của
Ngài là Cụ
Nguyễn Văn Ấm,
qua đời ngày 3
tháng 7 năm 1993
tại Sydney,
Australia, và Cụ
Bà Elisabeth Ngô
Đ́nh Thị Hiệp.
Bà là con gái
của Cụ Ngô Đ́nh
Khả. Bà Cụ Cố
hiện đang sống
tại Sydney,
Australia với
người con gái
Anna Hàm Tiếu và
thọ trên 100
tuổi.
“Đức Hồng Y
Thuận thuộc một
gia đ́nh có
truyền thống
Công giáo lâu
đời và tổ tiên
từng bị bách hại
v́ đạo từ năm
1698.
“Từ c̣n nhỏ, Cậu
Thuận được giáo
dục trong một
gia đ́nh đạo đức
và do bà mẹ
Elisabeth gương
mẫu thánh thiện.
Bà lo giáo dục
cậu khi c̣n nhỏ,
mỗi tối bà dạy
con những truỵện
Kinh thánh, kể
cho cậu nghe
lịch sử các
Thánh Tử đạo
Việt Nam, nhất
là về tổ tiên
của ḍng tộc,
giới thiệu cho
cậu gương Thánh
Nữ Têrêsa Hài
đồng Giêsu; dạy
con biết yêu
thương và tha
thứ cho mọi
người; bà cũng
dạy cậu hết ḷng
yêu mến Tổ Quốc
Việt Nam.
“Khi lớn lên Cậu
Thuận nhập Tiểu
chủng viện Anh
Ninh và sau đó
theo học triết
học và thần học
tại Đại chủng
viện Kim Long,
Huế. Thày Thuận
lănh chức linh
mục ngày 11
tháng 6 năm
1953. Sau khi
chịu chức linh
mục cha mới
Thuận được cử đi
làm Phó xứ Họ
Thánh Phanxicô
Xaviê, Huế, lúc
đó Cha sở là Cha
Darbon, quen gọi
là Cố Triết. Năm
1956 Ngài được
gửi sang theo
học Phân khoa
Giáo luật thuộc
Đại học Giáo
hoàng Urbaniana,
tại Rôma của Bộ
Truyền giáo từ
năm 1956-1959,
và đă đậu tiến
sĩ Giáo luật năm
1959, với kết
quả "maxima cum
laude" với đề
tài "Tuyên úy
quân đội trên
thế giới". Khi
học tại Rôma,
Cha Thuận đă
được cùng Đức
Cha Phêrô Maria
Ngô Đ́nh Thục
(Giám mục Vĩnh
Long) là Cậu
ruột vào triều
yết Đức Thánh
Cha Piô XII.
“Khi về nước,
Cha Thuận được
cử làm giáo sư,
rồi năm 1962
được cử làm giám
đốc Tiểu chủng
viện Hoan Thiện
từ năm 1959 đến
năm 1967 và làm
Tổng Đại Diện
Tổng Giáo phận
Huế từ năm
1964-1967.
“Ngày 13 tháng 4
năm 1967 Cha
Thuận được Đức
Thánh Cha Phaolô
VI bổ nhiệm làm
giám mục Việt
Nam tiên khởi
Giáo phận Nha
Trang thay thế
Đức Cha Paul
Raymond Piquet
Lợi M.E.P. (Đức
Cha Lợi, làm
giám mục Nha
Trang từ
1957-1967). Lễ
truyền chức Giám
Mục được cử hành
vào ngày 24
tháng 6 năm
1967, lễ Thánh
Gioan Tẩy Giả,
tại Huế, do Đức
Cha Angelo
Palmas, Khâm sứ
Ṭa Thánh tại
Việt Nam Lào và
Campuchia, chủ
phong. Khẩu hiệu
của Đức Tân giám
mục là "Vui Mừng
và Hy vọng" (Gaudium
et Spes), tên
của Hiến chế mục
vụ của Công đồng
chung Vaticanô
II.
“Ngày 10 tháng 7
năm 1967, Đức
Cha Thuận đă về
nhận Giáo phận
Nha Trang. Trong
8 năm làm giám
mục, Đức Cha đă
làm hết sức để
phát triển Giáo
phận Nha Trang,
trước khi thời
gian khốn khó
xẩy đến (xc. Năm
chiếc bánh và
hai con cá, tr.
26).
“Trọng tâm hoạt
động của Ngài là
huấn luyện nhân
sự, gia tăng
đại chủng sinh
từ 42 đến 147;
số tiểu chủng
sinh từ 200 đến
500 trong 4
chủng viện; tổ
chức các khóa tu
nghiệp cho các
linh mục trong 6
giáo phận nằm
trong 6 tỉnh
Miền Trung Việt
Nam; phát triển
và huấn luyện
các phong trào
thanh niên, giáo
dân, các hội
đoàn giáo xứ,
mục vụ, qua các
khóa như Phong
trào Công lư và
Ḥa b́nh,
Cursillos và
Focolare, Hướng
đạo; thành lập
Cộng đoàn La
vang, Tu hội Hy
Vọng.
“Để hướng dẫn
cộng đoàn giáo
phận Nha Trang,
Đức Cha Thuận đă
viết 6 thư luân
lưu:
(1) Tỉnh thức và
cầu nguyện
(1968)
(2) Vững mạnh
trong Đức tin,
Tiến lên trong
An b́nh (1969)
(3) Công lư và
Ḥa b́nh (1970)
(4) Sứ mạng Chúa
Kitô là sứ mạng
của chúng ta
(1971)
(5) Kỷ niệm 300
năm (1971)
(6) Năm Thánh
Canh tân và Ḥa
giải (1973).
“Trong khuôn khổ
Hội Đồng Giám
Mục Miền Nam
Việt Nam, Ngài
là Chủ Tịch Ủy
Ban Công Lư và
Ḥa B́nh, rồi
Chủ tịch Ủy Ban
Truyền thông xă
hội; Chủ tịch Ủy
Ban phát Triển
Việt Nam; đảm
trách hoạt động
của cơ quan lo
cho các người di
tản từ các vùng
chiến tranh về
vùng an toàn.
Ngài là một
trong những Giám
mục thành lập
Đài Phát thánh
Công giáo "Chân
Lư Á Châu"
(Veritas Asia,
Manila). Ngài đă
nhiều lần tham
dự các khóa họp
của Liên Hội
Đồng Giám mục Á
Châu (F.A.B.C.).
Ngài được chọn
làm cố vấn Hội
Đồng Ṭa Thánh
về Giáo dân từ
năm 1971-1975.
Và trong những
lần đi họp Hội
Đồng này, Ngài
đă có dịp gặp
Đức Giáo hoàng
đương kim Gioan
Phaolô II, lúc
đó là Tổng Giám
mục của Giáo
phận Cracovia
(Ba Lan), để học
hỏi các kinh
nghiệm mục vụ
trong những giai
đoạn khó khăn
dưới chế độ cộng
sản ở Ba Lan.
Ngài cũng được
bổ nhiệm làm cố
vấn, rồi thành
viên của Bộ
Truyền giảng Tin
mừng cho các Dân
tộc; thành viên
của Bộ Phụng Tự
và Kỷ luật Bí
tích.
“Ngày 24 tháng 4
năm 1975, Đức
Thánh Cha Phaolô
VI đă bổ nhiệm
Ngài làm Giám
mục Phó với
quyền kế vị Tổng
Giáo phận Sàigon,
và thăng chức
Tổng Giám mục
hiệu ṭa Vadesi.
Nhưng nhà cầm
quyền cộng sản
thời đó không
chấp nhận cho
Ngài làm việc
tại Sàigon và đă
dùng bạo lực từ
Sàigon đưa Ngài
ra lại Nha Trang.
“Ngày 15 tháng 8
năm 1975, Lễ Đức
Mẹ Linh hồn và
xác lên trời
Ngài đă bị bắt
giải ra Nha
Trang, giam ở
Cây Vông, sau đó
là Nhà tù Nha
Trang, Phú
Khánh; nhà tù
Thủ Đức; rồi
được đưa ra Bắc
Việt. Ngài sống
trong lao tù 13
năm, trong đó 9
năm biệt giam,
trong các trại
giam Vĩnh quảng
(núi Vĩnh phú),
nhà giam của
Công an thành
phố Hà Nội, rồi
bị quản thúc tại
Giang xá. Trong
năm tù thứ nhất
1976, Ngài đă
viết cuốn "Đường
hy vọng". Cuốn
sách này được
Ngài coi là di
chúc tinh thần
của Ngài gửi tới
mọi người Công
giáo Việt Nam
trong và ngoài
nước. Sau khi
nghe những bài
giảng trong đó
có những chứng
tá về những năm
tù ngục của Đức
Hồng Y Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn
Thuận trong tuần
tĩnh tâm Mùa
Chay của Giáo
triều Rôma năm
2000, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô
II đă có cảm
nghĩ như sau
trong thư gửi
cho Đức Hồng Y,
ngày 18-3-2000:
"Tôi đă ước mong
rằng trong năm
Đại toàn xá này,
có một chỗ đặc
biệt được dành
cho chứng tá của
những người ‘đă
chịu đau khổ v́
đức tin, đă trả
bằng máu sự gắn
bó của họ đối
với Chúa Kitô và
Giáo hội, hoặc
chịu đựng những
năm thật dài
cảnh tù ngục và
thiếu thốn đủ
loại’ ?" (Tông
sắc Mầu nhiệm
nhập thể số 13)
(Chứng nhân hy
vọng, tr. 8).
“Ngày 21 tháng
11 năm 1988, lễ
Đức Mẹ dâng ḿnh
trong Đền thánh,
Ngài được thả tự
do và được đưa
về cư trú tại
Ṭa Tổng Giám
Mục Hà Nội,
nhưng không được
phép thi hành
công việc mục
vụ. Sau đó Ngài
được phép đi
thăm Ông Bà Cố
tại Sydney,
Australia, đi
Rôma triều yết
Đức Thánh Cha,
rồi trở về Hà
Nội. Năm 1991
Ngài được phép
ra nước ngoài
chữa bệnh và sau
đó không được
phép trở về Việt
Nam. Từ đây Ngài
sống cuộc đời
lưu vong, nhưng
Ngài luôn hiện
diện với Giáo
hội tại Việt Nam
và quê hương
Việt Nam. Ngài
luôn lo lắng
giúp đỡ các công
tác xă hội, như
các trại phong
cùi, các công
tác bác ái từ
thiện, các công
tŕnh nghiên cứu
và phổ biến văn
hóa Việt Nam và
Văn hóa Công
giáo Việt Nam,
việc trùng tu và
xây cất các
thánh đường,
việc huấn luyện
các chủng sinh
và giáo dân,
theo khả năng
Ngài có thể.
Trước mọi đau
khổ và bách hại
bản thân và Giáo
hội, Ngài luôn
sống và rao
giảng sự tha thứ
và ḥa giải.
“Trong thời gian
ở ngoại quốc,
Ngài đă được mời
đi giảng và
thuyết tŕnh ở
nhiều nơi và cho
nhiều giới khác
nhau, như tại
nhà thờ chính
ṭa Paris trong
một Mùa Chay,
hoặc nói truyện
tại các Đại học
Công giáo trên
thế giới; tại
Mễ tây cơ vào
tháng 5 năm 1998
cho hơn 50,000
giới trẻ. Ngày
11 tháng 5 năm
1996, Ngài lănh
bằng tiến sĩ
danh dự tại Đại
học Ḍng Tên ở
New Orleans, LA,
Hoa Kỳ. Bộ
Truyền giáo cũng
ủy thác cho Ngài
thi hành các
cuộc thăm viếng
và kiểm tra các
chủng viện tại
một số nước ở
Phi Châu.
“Ngài cũng nhận
được những huy
chương để đề cao
cuộc sống chứng
tá, hoạt động
kiến tạo ḥa
b́nh của Ngài.
Ngày 9 tháng 6
năm 1999, Chính
Phủ Pháp đă trao
tặng Ngài huy
chương
"Commandeur de
l'Ordre National
du Mérite" (tại
Ṭa Đại sứ Pháp
bên cạnh Ṭa
thánh). Ngày 12
tháng 12 năm
2000, tại Ṭa
Thị chính Rôma,
Hội "Cùng nhau
xây dựng ḥa
b́nh" đă trao
tặng huy chương
cho Ngài. Tại
Torino, ngày 20
tháng 10 năm
2001, Ngài lănh
giải ḥa b́nh do
tổ chức SERMIG -
hiệp hội truyền
giáo của giới
trẻ. Sau cùng,
ngày 9 tháng 12
năm 2001, Trung
tâm Nghiên cứu
G. Donati đă
trao tặng Ngài
giải thưởng ḥa
b́nh năm 2001.
“Ngày 24 tháng
11 năm 1994 Đức
Thánh Cha đă bổ
nhiệm Ngài làm
Phó Chủ tịch Hội
Đồng Ṭa Thánh
"Công lư và Ḥa
B́nh" và sau đó
vào ngày 24
tháng 6 năm
1998, Ngài được
bổ nhiệm làm chủ
tịch Hội đồng
này, thay thế
Đức Hồng Y Roger
Etchegaray, nghỉ
hưu. Ngài giữ
chức vụ Chủ tịch
cho tới khi qua
đời.
“Đặc biệt Mùa
Chay năm 2000,
Ngài được Đức
Thánh Cha Gioan
Phaolô II mời
giảng cấm pḥng
Mùa Chay cho các
viên chức tại
Giáo triều Rôma,
bắt đầu thiên
niên kỷ thứ III.
Đức Thánh Cha
noí với Đức Hồng
Y Thuận: "Năm
đầu tiên của
Ngàn Năm thứ ba,
một người Việt
Nam sẽ giảng
tuần Tĩnh tâm
cho Giáo Triều
Rôma". Rồi Đức
Thánh Cha nói
tiếp: "Hăy kể
lại cho chúng
tôi những chứng
tá của Đức Cha".
Trong dịp này,
sau khi được Đức
Thánh Cha tiếp
riêng và tặng
một chén lễ, Đức
Hồng Y Thuận đă
nói như sau:
"Cách đây 24
năm, khi cử hành
Thánh lễ với 3
giọt rượu và một
giọt nước trong
ḷng bàn tay,
tôi không bao
giờ tưởng tượng,
ngày hôm nay Đức
Thánh Cha tặng
tôi một chén lễ
mạ vàng... Thiên
Chúa thật cao cả
và T́nh thương
của Ngài cũng
cao cả" (Chứng
nhân hy vọng,
tr. 12.13).
“Ngày 21 tháng 2
năm 2001 trong
cuộc họp mật
viện các Hồng Y,
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II
đă trao mũ Hồng
Y cho Ngài và
đặt Ngài làm
Hồng Y Phó tế,
hiệu ṭa Nhà thờ
Santa Maria
della Scala (Đức
Mẹ tại các bậc
thang). Nhà thờ
này do các Cha
ḍng Đức Mẹ Núi
Carmelo coi sóc,
nằm tại vùng
Trastevere,
Rôma.
“Sau thời gian
bị cầm tù, Ngài
đă bị giải phẫu
7 lần, trong đó
có ba lần suưt
chết v́ nhiễm
trùng. Lần giải
phẫu áp chót vào
ngày 17 tháng 4
năm 2001 tại một
bệnh viện ở
Boston, Hoa Kỳ
và cuộc giải
phẫu cuối cùng
vào ngày 8 tháng
5 năm 2002 tại
Trung tâm nghiên
cứu về ung thư,
Milano (Bắc
Italia). Ngài
trở bệnh nặng từ
đầu tháng 6 năm
2002 và được đưa
vào cấp cứu tại
Bệnh Viện
Agostino Gemelli
thuộc Đại học
Công giáo Thánh
Tâm, Rôma. Sau
đó được đưa về
Bệnh viện Piô XI
để tiếp tục điều
trị. Ngài đă qua
đời lúc 18 giờ
ngày 16 tháng 9
năm 2002 tại
Rôma”.
Khi ngài qua
đời, Thánh Lễ an
táng của ngài đă
được cử hành tại
Đền Thờ Thánh
Phêrô do chính
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II
chủ tế và giảng
thuyết, một
đặc ân và vinh
dự chưa có một
đấng bậc Việt
Nam nào được
trong lịch sử
Giáo Hội ở Việt
Nam, có thể
chẳng những là
vô tiền mà c̣n
khoáng hậu nữa.
Thật vậy, thánh
lễ an táng Đức
Hồng
Y
Thuận đă được cử
hành tại Đền Thờ
Thánh Phêrô lúc
6 giờ 30 chiều
20/9/2002.
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II
đă đi từ nhà
nghỉ mát của
Ngài ở Castel
Gandolfo về chủ
tế Thánh Lễ này,
và trong bài
giảng nói tổng
quan về
đời sống “chứng
nhân hy vọng”
của ngài.
Ngoài ra, Đức
Hồng
Y Thuận
c̣n
được
một
vinh dự
đặc
biệt
khác nữa,
đó
là
được
vị
Giáo Hoàng thần
học
gia Biển
Đức
XVI
đưa
vào bức
Thông
Điệp
thứ
hai của
ḿnh, một
văn
kiện
có giá trị
giáo huấn
bậc
nhất
của
giáo hoàng,
đó
là Bức
Thông Điệp
tựa
đề
Niềm
Hy Vọng
Cứu
Độ
– Spe Salvi, ban
hành ngày
30/11/2007.
Trong bức
thông
điệp
về
niềm
hy vọng
Kitô giáo này,
Đức
Thánh Cha Biển
Đức
XVI
đă
nêu gương
3 vị,
trong
đó
có 2 vị
Việt
Nam,
đó
là
Đức
Hồng
Y Nguyễn
Văn
Thuận
(đoạn
32 và 34) và Thánh
Tử
Đạo
Lê Bảo
Tịnh
(đoạn
37), cả hai đều
liên quan tới
cuộc sống “chứng
nhân hy vọng”
của các vị.
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II
về đời sống
“chứng nhân hy
vọng” của
Đức
Hồng
Y Thuận:
·
‘‘Niềm hy
vọng của họ tràn
đầy những ǵ là
bất tử’ (Wis
3:4). Những lời
lẽ an ủi này của
Sách Khôn Ngoan
mời gọi chúng ta,
theo chiều hướng
của niềm hy vọng,
hiến dâng các
lời nguyện cầu
của chúng ta cho
linh hồn của cố
Hồng Y Phanxicô
Xavier Nguyễn
Văn Thuận, vị đă
sống cả cuộc đời
dưới lá cờ hy
vọng.
Chắc chắc là cái
chết của ngài đă
làm buồn thương
cho tất cả những
ai biết ngài và
yêu mến ngài: họ
hang thân quyến
của ngài, nhất
là người mẹ của
ngài, vị tôi
muốn lập lại nỗi
bày tỏ gắn bó
mến thương của
tôi. Tôi nghĩ
đến Giáo Hội
thân yêu ở Việt
Nam, một Giáo
Hội đă sinh ra
ngài trong đức
tin; và tôi cũng
nghĩ đến tất cả
nhân dân Việt
Nam, những con
người được Đức
Hồng Ư đáng kính
minh nhiên tưởng
nhớ đến trong di
chúc thinêg
liêng của ngài,
bày tỏ ḷng ngài
luôn luôn yêu
thương quí mến
họ. Ṭa Thánh
thương tiếc Đức
Hồng Y Nguyễn
Văn Thuận; ngài
đă sống những
năm cuối đời
phục vụ Ṭa
Thánh, với vai
tṛ Phó Chủ Tịch
rồi Chủ Tịch Hội
Đồng Giáo Hoàng
về Công Lư và
Ḥa B́nh.
Thậm chí vào lúc
này đây, với
ḷng cảm mến sâu
xa, ngài dường
như muốn ngỏ
cùng mọi người
lời mời gọi hy
vọng. Khi tôi
xin ngài chia sẻ
suy niệm cho
Tuần Pḥng của
Giáo Triều Rôma
năm 2000, ngài
đă chọn đề tài
là “Chứng nhân
Hy vọng”. Giờ
đây, v́ Chúa đă
thử thách ngài
như ‘vàng được
nung nấu’ và đă
chấp nhận ngài
‘như hy tế toàn
thiêu’, chúng ta
thực sự có thể
nói rằng ‘niềm
hy vọng của ngài
tràn đầy những
ǵ là bất tử’
(cf. Wis 3:4).
Đời sống và sự
phục sinh của
tất cả những ai
tin tưởng nơi
Chúa Kitô th́
tràn đầy Người.
2. Hăy hy
vọng nơi Thiên
Chúa! Bằng lời
mời gọi hăy tin
tưởng vào Chúa
ấy, vị Hồng Y
yêu dấu này đă
bắt đầu những
bài suy niệm cho
Tuần Pḥng.
Những lời huấn
dụ của ngài vẫn
c̣n ghi sâu
trong tâm trí
của tôi, v́ cái
sâu xa của những
ǵ ngài chia sẻ,
với đầy những
hồi niệm riêng
tư liên tục; hầu
hết liên quan
tới 13 năm ngài
ở trong tù.
Ngài đă nói với
chúng ta rằng
chính ở trong tù
mà ngài đă hiểu
được rằng nền
tảng của đời
sống Kitô giáo
là ‘chọn một
ḿnh Thiên Chúa’,
hoàn toàn phó
ḿnh vào bàn tay
từ phụ của Chúa.
Theo chiều hướng
cảm nghiệm của
ḿnh, ngài nói
thêm rằng chúng
ta được kêu gọi
để loan báo
‘Phúc Âm hy
vọng’ cho hết
mọi người; và
ngài nhấn mạnh
rằng, chỉ bằng
tất cả hy sinh
của ḿnh chúng
ta mới có thể
hoàn tonà hiện
thực được ơn gọi
này mà thôi,
thậm chí ở giữa
những thử thánh
dữ dội nhất.
Ngài nói ‘Việc
trân quí từng
khổ đau như là
một trong vô vàn
gương mặt của
Chúa Giêsu, và
việc liên kết
khổ đau của
chúng ta với
Người nghĩa là
tham dự vào năng
lực của t́nh yêu
đau khổ của
Người. Nghĩa là
tham dự vào ánh
sáng của Người,
vào mănh lực của
Người, vào b́nh
an của Người,
nghĩa là tái
nhận thức trong
chúng ta một sự
hiện diện mới mẻ
và phong phú của
Thiên Chúa’
(Testimony of
Hope, Rome 2001,
pp. 93-94).
3. Chúng ta
có thể ngẫm nghĩ
rằng ngài có
được sự nhẫn nại
và ḷng can đảm
khiến ngài khác
thường như thế.
Về vấn đề này,
ngài đă tiết lộ
cho biết rằng ơn
gọi linh mục của
ngài là những ǵ
liên kết một
cách huyền nhiệm
nhưng thực sự
với máu của các
vị tử đạo đă
chết trong thế
kỷ trước đó khi
các vị rao giảng
Phúc Âm ở Việt
Nam. Ngài nhận
định rằng, ‘Các
vị tử đạo đă dạy
chúng ta hăy
thưa ‘vâng’: một
tiếng ‘xin vâng’
vô điều kiện hay
vô giới hạn
trong việc mến
yêu Chúa; thế
nhưng cũng là
một tiếng
‘không’ dứt
khoát với hư ảo,
với trung lập,
với bất chính –
có lẽ được biện
minh bằng mục
đích để cứu lấy
sự sống của
ḿnh’ (ibid., p.
107). Ngài nói
thêm rằng đó
không phải là
vấn đề anh hùng
mà là vấn đề
trung thành,
được triển phát
bằng việc nh́n
lên Chúa Giêsu
là mô phạm của
hết mọi chứng
nhân và vị tử
đạo. Đó là một
di sản cần phải
chấp nhận hằng
ngày nơi một đời
sống đầy yêu
thương và hiền
lành.
4. Trong lời
từ biệt cuối
cùng của chúng
ta với con người
hùng gieo tin
mừng Phúc Âm của
Chúa Kitô này,
chúng ta hăy tạ
ơn Chúa đă ban
cho chúng ta,
nơi ngài, một
tấm gương sáng
ngời về ḷng
trung thành Kitô
giáo cho đến độ
tử đạo. Ngài đă
tự nhủ một cách
hết sức chân
thành rằng:
‘Trong cùng tận
khổ đau của ḿnh…
tôi không bao
giờ xua đuổi ai
ra khỏi ḷng tôi’
(ibid., p. 94).
Bí mật của ĐHY
là chính niềm
tin tưởng bất
khuất của ḿnh
nơi Thiên Chúa,
một niềm tin
tưởng được nuôi
dưỡng bằng lời
nguyện cầu và
chịu khổ v́ yêu.
ĐHY cử hành
Thánh Lễ hằng
ngày trong tù
với 3 giọt rượu
và 1 giọt nước
trong ḷng bàn
tay của ḿnh. Đó
là bàn thờ, là
vương cung thánh
đường của ngài.
Ḿnh Chúa Kitô
là ‘linh dược’
của ngài.
Ngài đă đầy cảm
xúc kể lại rằng:
Mỗi lần tôi dâng
Lễ, tôi lại có
dịp để giang đôi
bàn tay của tôi
và đóng đanh
ḿnh vào thập
giá với Chúa
Giêsu, cùng
Người uống chén
đắng. Hằng ngày,
khi đọc lời
truyền phép, tôi
khẳng định với
tất cả tấm ḷng
và linh hồn tôi
một giao ước mới,
một giao ước đời
đời giữa Chúa
Giêsu và tôi nơi
máu của Người
ḥa với máu của
tôi”
(ibid., p. 131).
5. ‘Đối với
tôi sống là Chúa
Kitô’ (Phil
1 :21). Trung
thành cho đến
cùng, ngài đă giữ
được b́nh tâm và
niềm vui ngay cả
trong thời gian
dài dẳng và đớn
đau trong bệnh
viện.
Vào những ngày
cuối cùng, khi
không c̣n nói
được nữa, ngài
đă nh́n thẳng
lên cây thập giá
trước mắt. Ngài
cầu nguyện trong
thinh lặng, khi
mà cuộc hy tế
cùng tận của
ngài lên đến
tuyệt đỉnh, tôn
vinh cuộc đời
được đánh dấu
bằng việc hào
hùng nên giống
Chúa Kitô trên
thập giá. Thật
là đúng khi áp
dụng vào ngài
những lời Chúa
Giêsu tuyên bố
hướng tới cuộc
Khổ Nạn sắp sửa
xẩy ra của Người:
‘Trừ phi hạt lúa
miến rơi xuống
đất chết đi bằng
không nó c̣n
nguyên như thế;
nhưng nếu nó
chết đi nó mới
sinh nhiều hoa
trái’ (Jn
12:24).
Chỉ bằng việc hy
hiến bản thân
ḿnh Kitô hữu
mới góp phần vào
việc cứu độ thế
gian. Đối với
Người Anh Em
Hồng Y khả kính
của chúng ta đây
là thế. Ngài đă
rời bỏ chúng ta,
nhưng gương sáng
của ngài vẫn c̣n
đó. Đức tin bảo
đảm với chúng ta
rằng ngài không
chết nhưng đă
tiến vào một
ngày sống vĩnh
hằng không c̣n
đêm tối.
Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI về
đời sống “chứng
nhân hy vọng”
của
Đức
Hồng
Y Thuận:
·
“Khung cảnh
thiết yếu đầu
tiên để học hy
vọng đó là cầu
nguyện. Khi
không có ai lắng
nghe tôi nữa th́
Thiên Chúa vẫn
lắng nghe tôi.
Khi tôi không
c̣n nói với bất
cứ một ai hay
không thể kêu
gọi bất cứ người
nào, tôi vẫn có
thể nói với
Thiên Chúa. Khi
không c̣n một
người nào giúp
tôi giải quyết
nhu cầu hay niềm
mong đợi vượt
khả năng trần
gian đối với
niềm hy vọng th́
Ngài là Đấng có
thể trợ giúp tôi
(25). Khi tôi
ch́m ngập trong
t́nh trạng hoàn
toàn cô quạnh…;
nếu tôi biết cầu
nguyện tôi sẽ
không hoàn toàn
lẻ loi. Cố Hồng
Y Nguyễn Văn
Thuận, một tù
nhân 13 năm, 9
năm sống trong
nơi biệt giam,
đă để lại cho
chúng ta một
cuốn sách nhỏ
quí giá: Những
Lời Cầu Nguyện
của Niềm Hy Vọng.
Trong 13 năm
trong tù, ở một
t́nh trạng dường
như hoàn toàn vô
vọng, sự kiện mà
ngài có thể nghe
và nói cùng
Thiên Chúa đối
với ngài đă trở
thành một quyền
lực hy vọng gia
tăng, một quyền
lực giúp ngài,
sau khi được thả
ra, có thể trở
thành một chứng
nhân của niềm hy
vọng cho dân
chúng khắp nơi
trên thế giới –
niềm hy vọng cao
cả không tàn
phai ngay cả
trong những đêm
tăm tối cô quạnh”.
(Thông Điệp
Spe Salvi, đoạn
32)
“Để
phát triển khả
năng thanh tẩy
này cho việc cầu
nguyện, một đàng
cần phải có một
cái ǵ đó rất
riêng tư, một
cuộc gặp gỡ giữa
bản thân sâu xa
của tôi với
Thiên Chúa, Vị
Thiên Chúa hằng
sống. Đàng khác,
cần phải được
liên lỉ hướng
dẫn và soi dẫn
bởi các kinh
nguyện cao cả
của Giáo Hội
cũng như của các
vị thánh, bởi
kinh phụng vụ,
những kinh
nguyện Chúa luôn
dạy chúng ta làm
sao để cầu
nguyện một cách
xứng hợp. Đức
Hồng Y Nguyễn
Văn Thuận, trong
cuốn sách về
linh thao của
ḿnh, đă nói với
chúng ta rằng
trong đời sống
của ngài, có
những giai đoạn
dài ngài không
thể cầu nguyện
và ngài cứ theo
các bản kinh
nguyện của Giáo
Hội như Kinh Lạy
Cha, Kinh Kính
Mừng và các kinh
phụng vụ (27).
Việc cầu nguyện
bao giờ cũng cần
phải bao gồm
việc ḥa trộn
kinh nguyện
chung và riêng
này. Đó là cách
thức chúng ta có
thể nói với
Thiên Chúa và
cách Thiên Chúa
nói với chúng ta.
Nhờ đó chúng ta
trải qua những
thứ thanh tẩy để
chúng ta trở nên
cởi mở với Thiên
Chúa và chúng ta
trở thành các
thừa tác viên
của niềm hy vọng
cho người khác.
Niềm hy vọng
theo cảm quan
Kitô giáo bao
giờ cũng là niềm
hy vọng cho cả
kẻ khác nữa. Nó
là một niềm hy
vọng chủ động,
niềm hy vọng
chúng ta cố gắng
để ngăn cản
những ǵ tiến
đến ‘cùng đích
sai lạc’. Niềm
hy vọng chủ động
này c̣n có nghĩa
là chúng ta giữ
cho thế giới
hướng về Thiên
Chúa. Chỉ có thế
nó mới tiếp tục
là một niềm hy
vọng thực sự của
nhân loại”.
(Thông Điệp Spe
Salvi, đoạn 34)
Nếu Đức Hồng Y
Nguyễn Văn Thuận
sống chết với
niềm hy vọng như
thế, mà niềm hy
vọng mănh liệt
nhất chỉ được
bộc lộ khi cảm
thấy ḿnh bị bỏ
rơi. Trong Tuần
Pḥng của Giáo
Triều Rôma từ
ngày
12 đến 18 tháng
3 Đại Năm Thánh
2000, ở
bài suy niệm thứ
10 về
đề
tài Lạy Cha,
Lạy Cha, Sao Cha
Bỏ Con? - Bị
Chúa bỏ rơi,
ngài đă chia sẻ
cảm nghiệm về
niềm hy vọng
trong tuyệt vọng
tiêu biểu
của ḿnh như sau:
·
"’Lần đầu tiên
tôi phải tự bào
chữa trước ṭa,
th́ chẳng có ai
bênh vực tôi.
Mọi người đă bỏ
mặc tôi (...)
Nhưng có Chúa ở
với tôi và ban
sức mạnh cho tôi:
để rồi, cả trong
hoàn cảnh đó,
tôi có thể rao
giảng sứ điệp
của Chúa’ (2Tm
4,16-17).
“Những lời này
của Thánh Phaolô
phản ảnh kinh
nghiệm của chính
tôi trong những
năm cam go của
cảnh tù đày.
Không phải v́
các giáo hữu và
linh mục của tôi
đă bỏ rơi tôi.
Nhưng không ai
có thể làm ǵ
được cho tôi.
Tôi hoàn toàn bị
cô lập và cảm
nghiệm t́nh
trạng bị bỏ rơi.
Nhưng "Chúa ở
cùng tôi"; v́
thế, cả khi Ngài
ẩn mặt, Chúa Cha
vẫn không bỏ rơi
chúng ta.
“Nhà tù nơi tôi
bị giam trong
những tháng đầu
tiên tọa lạc tại
khu vực có nhiều
tín hữu Công
giáo nhất trong
thành phố Nha
Trang, nơi tôi
đă làm giám mục
trong 8 năm.
“Từ pḥng giam,
sáng tối tôi đều
nghe tiếng
chuông nhà thờ
chính ṭa ngân
vang, và suốt
ngày, tôi nghe
những tiếng
chuông của bao
nhiêu giáo xứ và
nhà ḍng. Tôi
ước mong được
dời đi thật xa,
lên miền núi để
khỏi phải nghe
những tiếng
chuông ấy.
“Ban đêm, trong
cái thinh lặng
của thành phố,
tôi nghe lại
tiếng sóng Thái
B́nh Dương mà
tôi đă từng nghe
thấy từ cửa văn
pḥng ṭa giám
mục của tôi.
Không ai biết
tôi ở đâu, mặc
dù nhà tù chỉ
cách nhà tôi vài
cây số. Tôi sống
trong t́nh trạng
thật vô lư!
“Tối ngày 1
tháng 12 năm
1976, như tôi đă
kể, người ta đưa
tôi từ nhà tù
Thủ Đức xuống
tàu Hải Pḥng.
Tối hôm ấy,
trong khi chờ
đợi, họ bắt
chúng tôi ngồi
xuống đất. Xa xa,
cách đó 3 cây số,
tôi thấy ánh
điện của thành
phố Saig̣n,
trung tâm của
giáo phận mà tôi
đă được bổ nhiệm
làm Giám Mục Phó
ngày 24 tháng 4
năm 1975. Tôi
biết rằng ḿnh
sắp bị đưa đi xa
khỏi nơi này.
Đau khổ ấy làm
tôi rùng ḿnh.
Tôi nghĩ đến
Thánh Phaolô
Tông Đồ lúc giă
từ các kỳ mục
thành Êphêsô tại
Milêtô, khi biết
rằng sẽ không
bao giờ c̣n được
nh́n lại họ nữa.
C̣n tôi th́
không được giă
từ những người
thân của tôi.
Tôi cũng không
thể an ủi hoặc
để lại cho họ
lời khuyên nào.
Trong thâm tâm,
tôi giă từ họ,
nhất là Đức Tổng
Giám Mục cao
niên Phaolô
Nguyễn Văn B́nh
tốt lành của tôi.
Tâm hồn tôi đau
đớn, khi nghĩ
ḿnh sẽ không
bao giờ c̣n được
nh́n lại họ nữa.
Cho đến nay, tôi
vẫn chưa gặp lại
họ.
“Tôi cảm thấy
niềm đau khổ mục
tử sâu xa trong
tất cả những
điều đó, nhưng
tôi có thể làm
chứng rằng Chúa
Cha không hề bỏ
rơi tôi và Ngài
đă ban sức mạnh
cho tôi”.
Lạy Chúa Giêsu
Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống
đă đến trong thế
gian,
Chúa đă yêu
thương chung
Giáo Hội và môn
đệ Chúa cho đến
cùng,
tới độ Chúa đă
tự hiến để họ
được thánh hóa
trong chân lư,
nhờ đó họ được
hiệp nhất nên
một trong Chúa
và Cha
để cho thế gian
nhận biết Chúa
đă được Cha sai.
Xin Nhựa Sống
Thánh Linh của
Chúa luôn sung
sức trong chúng
con
để cành nho
chúng con có thể
trổ sinh muôn
vàn Hoa Trái
Thần Linh cho
Chúa. Amen.