Sống Thánh… Nên Thánh - Chứng Nhân Thời Đại
Mừng
Lễ Chư Thánh 1/11/2010 trong Năm Thánh Việt Nam
(24/11/2009-6/1/2011)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 529 Thứ Sáu
29/10/2010
Sống Thánh
Mở đầu Bài Giảng Trên Núi theo Thánh Kư Mathêu, một bài giảng về các
phúc đức trọn lành, Chúa Giêsu đă minh định ngay bản chất của thành
phần môn đệ của Người như thế này: “Các con là muối đất…
Các
con là ánh sáng thế gian” (Mt 5:13,14). Thế nhưng, muốn sống bản
chất muối đất và sáng soi của ḿnh, thành phần môn đệ của Người cần
phải sống theo những ǵ Người truyền dạy sau đó về các phúc đức trọn
lành, nhất là về đức ái trọn hảo, để có thể “nên trọn lành như Cha
trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5:48). Phải chăng đó là lư do Bài
Phúc Âm về Tám Mối Phúc Thật mở đầu Bài Giảng Trên Núi đă được Giáo
Hội chọn đọc cho Ngày Lễ Trọng Kính Chư Thánh 1/11 hằng năm!?
Quả
thực, đă là người ai cũng phải nên trọn lành như Thiên Chúa là Cha
trên trời, chứ không riêng ǵ Kitô hữu, thành phần môn đệ của Chúa
Kitô, bao gồm cả giáo dân lẫn giáo sĩ và giáo phẩm. Tại sao? Tại v́
mục đích duy nhất và tối hậu Thiên Chúa là Đấng Hóa Công đă dựng nên
loài người là để loài người được muôn đời hiệp thông thần linh với
Ngài trong cơi vĩnh hằng. Đó là lư do Ngài đă dựng nên con người
linh ư vạn vật theo h́nh ảnh thần linh và tương tự như thần linh,
nhờ đó con người mới có thể hiệp thông thần linh với Ngài. Như thế,
cũng có thể nói, ở một nghĩa nào đó, như Chúa Kitô và trong Người,
loài người, tự bản chất, ngay từ đầu, khi c̣n ở trong t́nh trạng
công cính nguyên thủy, “là h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh” (Col
1:15), là phản ánh vinh quang Thiên Chúa (cf. Heb 1:4).
V́
được dựng nên theo h́nh ảnh thần linh và tương tự như thần linh như
thế mà ngay từ ban đầu, tận thâm tâm của ḿnh, qua nữ nguyên tổ Evà,
con người đă có sẵn ước vọng “nên như Thiên Chúa” (Gen 3:5), một ước
vọng tự bản chất của nó chẳng những hoàn toàn vô tội mà c̣n rất hợp
với ư muốn của Thiên Chúa trong việc Ngài tạo dựng nên con người để
con người “nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành”, nhờ
đó được hiệp thông thần linh với Ngài. Tuy nhiên, trong việc chiếm
đạt ước vọng chính đáng, sâu xa và mănh liệt này của ḿnh, một ước
vọng nếu không có nơi ḿnh, đời sống con người sẽ trở thành bất định,
vô nghĩa và không hơn ǵ muông thú, con người đă bị thất sách, bị hớ,
ở chỗ tỏ ra “dục tốc bất đạt”, muốn đốt giai đoạn, tưởng tự ḿnh có
thể làm được, bằng cách, nghe theo cám dỗ của ma quỉ, giơ tay hái
trái từ cây biết lành biết dữ, bất chấp lệnh cấm của Chúa.
Dầu
sao, có thể nói, “nguyên tội” cũng là cái “test” giành cho Thiên
Chúa, như “trái cấm” là cái “test” giành cho con người. Không phải
hay sao, qua nguyên tội,
nói theo kiểu
loài người,
Thiên Chúa
đă
biết
được
rằng
loài
được
dựng
nên theo h́nh
ảnh
của
Ngài và tương
tự
như
Ngài quả
thực
muốn
nên giống
như
Ngài, và cái bộ
phận
được
gọi
là “ước
vọng
thần
linh” do Ngài khôn ngoan cài
đặt
nơi
con người
có lư trí suy xét và tự
do chọn
lựa
đă
hoàn toàn “work”. Thế
là Thiên Chúa
đă
bắt
tay ngay vào việc
đáp
ứng
ước
vọng
muốn
nên giống
như
Ngài này của
con người,
bằng
cách hứa
ban cho họ
một
Vị
Cứu
Tinh,
Đấng
là
Đường
qua Mầu
Nhiệm
Nhập
Thể
để
họ
có thể
thấy
Ngài và
đến
cùng Ngài (cf. Jn 14:6), là Sự
Thật
qua Mầu
Nhiệm
Tử
Giá
để
họ
được
thánh hóa trong chân lư
(cf. Jn 17:19), và là Sự
Sống
qua Mầu
Nhiệm
Phục
Sinh và Thăng
Thiên
để
họ
được
tràn
đầy
Thánh Thần
mà hiệp
thông thần
linh với
Ngài (cf Jn 20:22; Lk 24:49; Acts 1:5, 2:4).
Bởi
thế,
về
lư tưởng
th́ nên thánh là nên trọn
lành như
Cha trên trời
là
Đấng
trọn
lành, nhưng
về
linh
đạo
th́ nên thánh là nên giống
“Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống”
(Mt 16:16), cho
đến
độ
đạt
đến
tầm
vóc thành toàn của
Chúa Kitô là
đầu
(cf. Eph 4:13,15), tức
đến
độ
“sự
sống
tôi
đang
sống
đây
không phải
là tôi sống
mà là Chúa Kitô sống
trong tôi” (Gal 2:20), nhờ
đó,
tôi hoàn toàn
được
Người
biến
đổi
hay
được
thực
sự
biến
đổi
trong Người,
ở
chỗ,
Chúa Kitô trở
thành “cái tôi” của
tôi và tôi trở
thành chứng
nhân trung thực
và sống
động
của
Người,
khiến
những
ai sống
quanh tôi, gần
tôi hay với
tôi
đều
cảm
thấy
được
ánh mắt
nhân hậu
của
Người
nơi
cái nh́n thông cảm
của
tôi, bàn tay d́u dắt
đỡ
nâng của
Người
nơi
những
nỗ
lực
ân cần
phục
vụ
chăm
sóc của
tôi, và cơn
khát núi sọ
của
Thánh Tâm Người
nơi
những
hy sinh tận
tuyệt
và chịu
đựng
khổ
đau
chất
ngất
của
tôi.
Thật
ra, về
cơ
cấu
thiêng liêng, th́ ngay khi vừa
lănh nhận
Bí Tích Rửa
Tội,
Kitô hữu
đă
là Thánh rồi,
tức
đă
được
thánh hóa,
đă
trở
nên thành phần
con cái thừa
nhận
của
Thiên Chúa trong Chúa Kitô,
đă
được
thông phần vào bản tính thần linh vô cùng trọn hảo của Thiên Chúa,
có chính Thánh Thần
của
Thiên Chúa Ngôi Cha và Thiên Chúa Ngôi Con ngự
trong ḿnh như
Đền
Thờ
của
Thiên Chúa Duy Nhất
Ba Ngôi. Bởi
vậy,
theo nguyên tắc
của đời sống siêu nhiên,
Kitô hữu
không “nên” thánh mà là “sống”
thánh, tức
sống
bản
chất
thánh của
ḿnh là con cái Thiên Chúa. Nói cách khác, Kitô hữu
“sống
thánh”
đó
là Kitô hữu
sống
trọn
t́nh con cái
đối
với
Thiên Chúa,
ở
chỗ,
như
Chúa Kitô, “vâng lời
cho
đến
chết
dù chết
trên thập
tự
giá” (Phil 2:8), nhờ
đó
được
Cha trên trời
công nhận
như
Ngài
đă
tuyên bố
về
Người
ở
Sông Jordan và trên Núi Tabor: “Đây
là Con yêu dấu
của
Ta, Ta hài ḷng về
Người”
(Mt 3:17; 17:5). Và chính v́ “sống
thánh” (sống
những
ǵ vốn
là bản
chất
của
ḿnh), hơn
là “nên thánh” (trở
nên những
ǵ ḿnh chưa
có) mà “sống
thánh” bất
khả
tách rời
với
“chứng
nhân”, như
đặc
tính chiếu
tỏa
bất
khả
tách rời
với
ánh sáng,
để
cả
hai việc
liên hệ
mật
thiết
bất
khả
phân ly này, “sống
thánh” và “chứng
nhân”,
được
ghép lại
làm nên thành ngữ
“sống
thánh chứng
nhân”.
Nên Thánh
Tuy
nhiên, trên thực tế, dù được thánh hóa nhờ Bí Tích Rửa Tội, nhưng
con người lănh nhận Phép Rửa, cho dù bấy giờ được tha hết mọi tội
lỗi (bao gồm cả nguyên tội lẫn tư tội) cùng với hết mọi h́nh phạt từ
đấy mà ra, vẫn c̣n nguyên mầm mống nguyên tội trong ḿnh, tức vẫn
c̣n đam mê nhục dục, c̣n đủ các tính mê nết xấu, c̣n tăm tối trong
trí khôn, yếu nhược trong ư chí, c̣n phải chịu đau khổ và cuối cùng
bị chết đi. Bởi đó, Kitô hữu vẫn phải chiến đấu với con người tự
nhiên mang bản tính đă bị băng hoại để có thể bảo tŕ Thánh Sủng là
hạt giống thần linh được gieo vào tâm hồn ḿnh từ khi lănh nhận Phép
Rửa. Kinh nghiệm sống đạo cho thấy, Kitô hữu không thể nào trung
thành cho tới cùng, trung thành một cách liên lỉ, với các tác động
thần linh của Thiên Chúa, với lề luật của Chúa, với tinh thần trọn
lành của Phúc Âm, ngoại trừ một ḿnh Mẹ Maria đầy ơn phúc.
Bởi
vậy, một khi Kitô hữu luôn phải “hoán cải” trở về cùng Chúa như thế,
th́ thay v́ họ “sống thánh” là họ “nên thánh”, một tiến tŕnh phát
triển của một
hạt cải nhỏ bé nhất cho đến độ thành một cây vĩ đại có thể làm chỗ
cho chim trời là các linh hồn trú ẩn (cf. Mt 13:31-32), một hạt cải
đức tin được gieo vào tâm hồn Kitô hữu từ khi họ lănh nhận Phép Rửa
cần phải được nẩy mầm và triển nở ở một mảnh đất tốt là cơi ḷng của
họ, qua những cảm nghiệm thần linh tích cực nơi họ, khi họ tỏ ra cởi
mở và đáp ứng
các
tác động
thần linh của “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24).
Thực
vậy, theo truyền thống tu đức Kitô Giáo, nhất là từ thế kỷ 16 có thể
nói là thời kỳ chính thức mở màn cho khoa tu đức học, thời điểm của
các vị thánh Tây Ban Nha chuyên về thần bí, như Thánh Ignatiô sáng
lập Ḍng Tên, cùng với hai Vị Thánh cải cách Ḍng Kín Cát Minh là
Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá, tu đức được chia làm 3 bậc hay 3
thời kỳ, được gọi là khởi sinh, tiến sinh và hiệp sinh.
Ba
giai đoạn tu đức hay linh đạo tam cấp Kitô Giáo có thể được t́m thấy
nền tảng Thánh Kinh của ḿnh nơi Tân Ước, điển h́nh là nơi Thư Thứ
Nhất của Thánh Phêrô, một văn kiện được Giáo Hội chọn đọc trong và
cho Tuần Bát Nhật Phục Sinh liên quan đến đời sống thánh thiện của
Kitô hữu, thành phần đă được lănh nhận Phép Rửa tái sinh nhờ hạt
giống bất hoại Lời Chúa (x 1Pt 1:23).
Có
thể nói câu sau 22 ở đoạn 1 bức thư này gồm tóm linh đạo tam cấp này
của Kitô Giáo: “Anh em đă thanh tẩy ḿnh (khởi sinh) bằng
việc tuân phục chân lư (tiến sinh) để yêu thương anh em ḿnh
cách chân thực (hiệp sinh)”.
Những câu ở đầu đoạn 2 của bức thư này đă diễn tả rơ ràng hơn về câu
trên và về ba giai đoạn tu đức Kitô Giáo như sau:
Giai
đoạn khởi sinh: “Vậy anh em hăy trút bỏ hết mọi sự xấu xa
tội lỗi, hết những ǵ là gian dối lừa đảo; khoe khoang tự phụ, ghen
tương tị hiềm, cùng với mọi thứ gièm pha chê bai. Anh em hăy háo hức
sữa bú như những trẻ sơ sinh – thứ sữa tinh tuyền làm cho anh em lớn
lên trong ơn cứu độ…” (2:1-2).
Đúng
thế, ở giai đoạn tu đức khởi sinh, Kitô hữu cần phải thanh tẩy, bỏ
ḿnh, nhất là tội lỗi, và họ có thể hăng say làm việc này nhờ ơn an
ủi của Chúa như “sữa” ngọt thần linh hợp với tŕnh độ c̣n non dại
trên đường thiêng liêng của họ.
Giai
đoạn tiến sinh: “Anh em hăy đến với Người là tảng đá sống bị con
người loại bỏ nhưng lại được Thiên Chúa chấp nhận và quí hóa. Cả anh
em nữa cũng là những tảng đá sống, được xây lên như lâu đài thiêng
liêng, thành một thiên chức tư tế thánh hảo, dâng hiến các hy tế
thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận qua Chúa Giêsu Kitô” (2:4-5).
Thật
vậy, ở giai đoạn tu đức tiến sinh này, Kitô hữu, nhờ bỏ sữa là ơn an
ủi ban đầu, trở nên cứng cát từ từ như những tảng đá, và có thể tỏ
ra những tác hành trưởng thành trên đường thánh đức là tính chất
thích hợp với và của vai tṛ tư tế.
Giai
đoạn hiệp sinh: “Anh em là ‘một chủng tộc được tuyển chọn, một
hàng tư tế vương giả, một quốc gia thánh hảo, một dân được Người
nhận làm của riêng ḿnh để loan truyền các công cuộc hiển vinh’ của
Đấng đă kêu gọi anh em từ chốn tối tăm tiến vào ánh sáng lạ lùng của
Người. Trước kia anh em không phải là dân của Người, nhưng nay anh
em là dân Người; trước đây anh em không được xót thương, giờ đây
anh em đă được thương xót” (2:9).
Phải, chỉ con người tiến lên tới bậc trọn lành mới có thể “loan
truyền các công cuộc hiển vinh” của Chúa, và mới thực sự có được
cảm nghiệm thần linh về Ḷng Thương Xót Chúa, như Mẹ Maria trong Ca
Vịnh Ngợi Khen: “V́ Chúa đă thương đến phận tỳ nữ của Ngài” (Lk
1:48).
Tu
đức Kitô Giáo quả thực là một tiến tŕnh tiến “từ chốn tối tăm
tiến vào ánh sáng lạ lùng của Người”. Tiến tŕnh tu đức ba giai
đoạn c̣n được sáng tỏ trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 13-17: trước
hết các vị như thành phần tôi tớ được rửa chân (giai đoạn thánh tẩy
khởi sinh – đoạn 13), rồi sau đó các vị như thành phần bạn hữu được
nghe Người tâm sự (giai đoạn nội tâm tiến sinh – đoạn 14-16), và
cuối cùng các vị như thành phần chứng nhân được thánh hiến trong
chân lư và hiệp thông thần linh (giai đoạn cảm nghiệm hiệp sinh –
đoạn 17).
Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong cuốn “Hồi Niệm Và Căn
Tính”, (tác phẩm cuối cùng về luân lư thời đại của ngài, xuất
bản hôm 22/2/2005, trước khi ngài qua đời 1 tháng rưỡi, ở chương 6:
‘Redemption: Victory Given As A Task To Man’, trang 28-31),
đă tóm lược tiến tŕnh tu đức ba bậc hay ba giai đoạn này rất đầy đủ
và mạch lạc, như ngài chia sẻ kinh nghiệm sống tu đức của bản thân
ngài, như sau:
·
“Tiếng
gọi ‘Hăy theo Thày!’ là một lời mời gọi hăy bắt đầu theo con đường
được quyền lực nội tại của mầu nhiệm Cứu Chuộc dẫn chúng ta đi. Đây
là đường lối được phác họa bởi một thứ giáo huấn về 3 bậc liên quan
tới việc ‘theo Chúa Kitô’, thứ giáo huấn rất thường được thấy nơi
các văn bản về đời sống nội tâm cũng như về cảm nghiệm thần bí. Ba
bậc này đôi khi được gọi là ‘giai đoạn’. Chúng ta nói đến giai đoạn
thanh tẩy, giai đoạn sáng tỏ và giai đoạn kết hợp. Thực ra những
giai đoạn này không phải là ba giai đoạn chuyên biệt, mà là 3 khía
cạnh của cùng một đường lối được Chúa Kitô kêu gọi mọi người theo,
như Người có lần đă kêu gọi người thanh niên trong Phúc Âm vậy.
“Khi con người trẻ ấy hỏi: ‘Thưa Thày, tôi phải làm lành ra sao để
được hưởng sự sống đời đời?’ Chúa Kitô đă trả lời anh ta: ‘Nếu anh
muốn hưởng sự sống th́ hăy tuân giữ các giới răn’ (Mt 19:16-17 và
sau đó). Thế rồi khi con người trẻ này tiếp tục hỏi: ‘Giới răn nào?’
Chúa Kitô liền nhắc nhở anh ta về những giới luật chính yếu trong
Bản Thập Giới, nhất là những giới luật được gọi là ở ‘bia đá thứ hai’
liên quan tới các mối liên hệ với tha nhân. Dĩ nhiên, theo giáo huấn
của Chúa Kitô th́ tất cả mọi giới luật đều được tóm gọn thành giới
luật mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như bản thân
ḿnh. Người đă minh nhiên nói như thế với một vị tiến sĩ luật để đáp
lại câu hỏi của ông (x Mt 23:34-40; Mk 12:28-31). Việc tuân giữ các
giới luật, hiểu đúng ra, là những ǵ đồng nghĩa với giai đoạn thanh
tẩy: nó nhắm tới chỗ chế ngự tội lỗi, chế ngự sự dữ luân lư dưới các
mặt nạ khác nhau của nó. Việc tuân giữ giới luật này từ từ dẫn đến
chỗ thanh tẩy nội tâm.
“Nó cũng giúp chúng ta có thể khám phá ra những giá trị. Bởi thế
chúng ta cho rằng giai đoạn thanh tẩy này, theo thứ tự, dẫn đến giai
đoạn sáng tỏ. Các giá trị là các những thứ ánh sáng chiếu soi cuộc
sống, và khi chúng ta áp dụng chúng vào đời sống của ḿnh, chúng
chiếu tỏa rạng ngời hơn nữa về phía chân trời. Bởi thế, song song
với việc tuân giữ các giới luật – việc tuân giữ mang ư nghĩa thanh
tẩy thực sự – chúng ta phát triển các nhân đức. Chẳng hạn, trong
việc giữ giới luật ‘Chớ giết người!’, chúng ta khám phá ra giá trị
của sự sống dưới các khía cạnh khác nhau, và chúng ta tỏ ra biết sâu
xa tôn trọng nó hơn bao giờ hết. Trong việc tuân giữ giới luật ‘Chớ
muốn vợ chồng người!’, chúng ta chiếm được nhân đức trong sạch,
nghĩa là chúng ta ư thức hơn bao giờ hết vẻ đẹp nhưng không của thân
thể con người, của nam tính và nữ tính. Cái vẻ đẹp trời ban này trở
thành ánh sáng cho các tác động của chúng ta. Trong việc tuân giữ
giới luật ‘Chớ làm chứng dối!’, chúng ta tỏ ra nhân đức chân thực.
Nhân đức này chẳng những loại trừ đi tất cả những ǵ là dối trá điêu
ngoa và giả h́nh giả tạo khỏi đời sống chúng ta, mà c̣n phát triển
trong chúng ta một thứ ‘trực giác về sự thật’ để hướng dẫn tất cả
mọi hành động của chúng ta nữa. Và khi sống trong sự thật như thế,
chúng ta chiếm được cho nhân tính của ḿnh một t́nh trạng chân thực
bẩm sinh.
“Vậy bậc sáng tỏ trong đời sống nội tâm dần dần hiện lên từ bậc
thanh tẩy. Qua thời gian, nếu chúng ta kiên tŕ theo Chúa Kitô là
Thày của chúng ta, chúng ta cảm thấy càng ngày càng ít nặng nề với
cuộc chiến đấu chống trả tội lỗi, và chúng ta càng ngày càng hoan
hưởng thứ ánh sáng thần linh thấm nhập tất cả mọi tạo sinh. Điều này
hết sức hệ trọng v́ nó giúp chúng ta có thể thoát khỏi t́nh trạng
nội tâm liên lỉ hướng chiều về dịp tội – cho dù khi c̣n sống trên
thế gian này cái dịp tội ấy bao giờ cũng có ở một mức độ nào đó –
nhờ đó chúng ta tác hành một cách tự do thoải mái hơn trong tất cả
thế giới tạo sinh. T́nh trạng tự do ấy và tính cách thanh thản ấy
cũng là đặc tính của mối liên hệ của chúng ta với các con người khác,
bao gồm cả những người khác phái tính. Ánh sáng nội tâm chiếu soi
các hành động của chúng ta và cho chúng ta thấy tất cả những ǵ là
thiện hảo nơi thế giới tạo sinh đều xuất phát từ bàn tay Thiên Chúa.
Như thế, giai đoạn thanh tẩy rồi sau đó là giai đoạn sáng tỏ trở
thành một đường lối dẫn tới chỗ được gọi là giai đoạn kết hợp. Đây
là bậc cuối cùng của cuộc hành tŕnh nội tâm, lúc mà linh hồn cảm
nghiệm được mối hiệp nhất đặc biệt với Thiên Chúa. Mối hiệp nhất này
được hiện thực nơi việc chiêm niệm Hữu Thể thần linh cũng như nơi
cảm nghiệm yêu thương xuất phát từ nó mỗi ngày một mănh liệt. Nhờ
thế, một cách nào đó, chúng ta tiên hưởng những ǵ được giành cho
chúng ta trong cơi vĩnh hằng, vượt trên cái chết và nấm mộ. Chúa
Kitô, Bậc Thày đệ nhất của đời sống thiêng liêng, cùng với tất cả
những ai được đào luyện nơi học đường của Người, dạy rằng, ngay cả ở
trên đời này, chúng ta cũng có thể tiến tới con đường hiệp nhất với
Thiên Chúa.
“Hiến chế tín lư ‘Ánh Sáng Muôn Dân’ đă viết: ‘Chúa Kitô đă vâng lời
cho đến chết, và v́ thế được Cha tôn vinh’ (x Phil 2:8-9), đă tiến
vào vinh quang của vương quốc Người. Tất cả mọi sự đều phải lụy
thuộc vào Người cho đến khi Người qui phục bản thân ḿnh cùng với
tất cả mọi tạo sinh cho Cha, để Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự (x
1Cor 15:27-28)’. Hiển nhiên là Công Đồng nói tới một tầm vóc rất
rộng lớn, khi làm sáng tỏ ư nghĩa về việc tham dự vào sứ vụ vương
giả của Chúa Kitô. Tuy nhiên, những lời ấy đồng thời cũng giúp cho
chúng ta hiểu làm thể nào để đạt được mối hiệp nhất với Thiên Chúa
trên trần gian này. Nếu con đường vương giả, được Chúa Kitô phác
định, cuối cùng dẫn tới t́nh trạng ‘Thiên Chúa là tất cả trong mọi
sự’, th́ việc hiệp nhất với Thiên Chúa là những ǵ có thể cảm nghiệm
được trên trái đất này cũng cùng một cách thức như thế. Chúng ta có
thể thấy Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, chúng ta có thể thông đạt
với Ngài trong và qua tất cả mọi sự. Các tạo vật không c̣n là những
ǵ nguy hiểm đối với chúng ta như chúng đă từng là như thế, đặc biệt
khi chúng ta c̣n ở bậc thanh tẩy của cuộc chúng ta hành tŕnh. Tạo
vật, và đặc biệt là những người khác, chẳng những phục hồi được ánh
sáng thực sự của ḿnh là những ǵ được Thiên Chúa Hóa Công ban cho,
mà c̣n, có thể nói, dẫn chúng ta đến với chính Thiên Chúa, như cách
Ngài muốn tỏ ḿnh Ngài ra cho chúng ta, như một Người Cha, một Đấng
Cứu Thế và một Người Bạn T́nh”.
Chứng Nhân Thời Đại
Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, trong chuyến tông du Hiệp Vương Quốc
(16-19/9/2010) ở đoạn kết của bài diễn từ tối ngày Thứ Bảy 18/9/2010
của ḿnh ở Hyde Park – London về
các khía cạnh chính yếu của Đức Hồng Y Newman, đă nêu lên một nhận
định như sau:
·
“Chúng ta biết rằng ở vào những lúc khủng hoảng và biến động Thiên
Chúa đă từng gửi đến những vị đại thánh và tiên tri để canh tân Giáo
Hội và xă hội Kitô giáo; chúng ta tin tưởng vào sự quan pḥng của
Ngài và chúng ta xin Ngài tiếp tục hướng dẫn…”
Phải
chăng
đó
là lư do chúng ta thấy h́nh ảnh của những vị thánh nhân ở vào những
thời điểm có thể nói là Thời Điểm Maria, cũng là thời điểm của Ḷng
Thương Xót Chúa, như Chị Thánh Faustina được Chúa Giêsu cho biết là
để dọn đường cho lần đến cuối cùng của Người:
·
“Con
phải nói cho thế giới về t́nh thương cao cả của Người và sửa soạn
thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng
Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh”
(Nhật Kư, đoạn 635 và xem cả 848),
Thời điểm
“không biết khi Con Người đến có c̣n thấy đức tin trên thế gian
này nữa hay chăng” (Lk 18:8), thời điểm mà “v́ sự dữ gia tăng
mà ḷng mến nơi hầu hết đă trở nên nguội lạnh” (Mt 24:12), như
chúng ta hiển nhiên thấy đang diễn ra trong một thế giới càng văn
minh con người càng bạo loạn ngày nay, nhất là từ đầu thế kỷ 20, với
hai trận thế chiến và 2 chủ nghĩa độc đoán vô cùng bạo tàn dă man (là
Cộng sản và Nazi) chưa từng thấy trong lịch sử loài người, h́nh ảnh
những vị thánh v́ thế, như được Đấng Quan Pḥng thần linh báo trước
càng giống Mẹ Maria trong vai tṛ đồng công cứu chuộc của Mẹ, những
tiên báo có thể được thấy
qua
tác phẩm Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của Thánh Long Mộng Phố
(Louis Montfort), qua Bí Mật La Salette và qua Bí Mật Fatima.
H́nh ảnh
những vị thánh trong Thời Điểm Maria nơi tác phẩm Thành Thực Sùng
Kính Mẹ Maria (năm 1716) của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort):
·
“Quyền
năng của Mẹ trên các thần dữ đặc biệt sẽ tỏ ra vào những thời buổi
sau này, khi mà Satan sẽ ŕnh cắn gót chân Mẹ, tức là cắn thành phần
tôi tớ khiên hạ của Mẹ và con cái bần cùng của Mẹ, thành phần Mẹ sẽ
làm dậy lên để chống lại hắn. Trước mắt của thế gian th́ họ chỉ là
những ǵ nhỏ mọn và bần cùng, và giống như gót chân, thấp hèn trước
mắt thế của tất cả mọi người, bị giầy xéo và chà đạp như gót chân
đối với các phần thể khác trong thân thể vậy. Thế nhưng, bù lại,
chính v́ thế mà họ sẽ được trở nên phong phú trong ân sủng của Thiên
Chúa là những ǵ Mẹ Maria sẽ dồi dào tuôn đổ xuống trên họ. Họ sẽ
nên cao cả và được tôn vinh trong thánh đức trước nhan Thiên Chúa.
Họ sẽ trổi vượt trên tất cả mọi tạo vật bởi ḷng nhiệt thành cao cả
của họ, và họ sẽ được ơn trợ giúp thần linh nâng đỡ đến nỗi, liên
kết với Mẹ Maria, họ sẽ đạp nát đầu Satan bằng gót chân của họ, tức
là bằng ḷng khiêm hạ của họ, để mang chiến thắng về cho Chúa Giêsu
Kitô”. (đoạn 54)
Sau hết, chúng ta biết rằng họ sẽ là thành phần môn đệ đích thực của
Chúa Giêsu Kitô, noi gương bắt chước đức khó nghèo của Người, ḷng
khiêm hạ của Người, việc khinh chê thế gian của Người và ḷng yêu
thương của Người. Họ sẽ vạch ra cho thấy con đường hẹp dẫn đến tới
Thiên Chúa, theo một sự thật tinh tuyền hợp với Phúc Âm thánh, chứ
không theo những thứ châm ngôn của thế gian. Tâm hồn của họ sẽ không
bị xao xuyến, hay tỏ ra thiên vị ai; họ sẽ không cần đến, không lắng
nghe hay không tỏ ra hăi sợ bất cứ một ai, dù có quyền lực đến đâu
đi nữa. Miệng họ sẽ ngậm thanh gươm hai lưỡi lời Chúa, và vai họ vác
cây Thập Tự Giá đẫm máu. Tay phải họ cầm tượng chuộc tội, tay trái
cầm chuỗi hạt mân côi, ḷng họ khắc danh thánh Giêsu Maria. Hành vi
cử chỉ của họ phản ảnh tính chất đơn sơ và tự hiến của Chúa Giêsu.
Những con người cao cả này là thành phần phải đến. Theo ư muốn của
Thiên Chúa, Mẹ Maria là vị trang bị cho họ để bao trùm vương quốc
của Ngài trên thành phần vô đạo, thành phần tôn thờ ngẫu tượng. Thế
nhưng điều này sẽ xẩy ra khi nào và cách nào đây? Chỉ có một ḿnh
Thiên Chúa biết mà thôi. Về phần ḿnh, chúng ta cần phải âm thầm và
nguyện cầu mong đợi và chờ đợi nó xẩy ra: ‘Tôi đă mong mỏi đợi chờ’”.
(đoạn 59)
H́nh ảnh
những vị thánh trong Thời Điểm Maria nơi Bí Mật La Salette (năm
1846):
·
“Mẹ khẩn
thiết kêu gọi trái đất. Mẹ kêu gọi những môn đệ đích thực của Thiên
Chúa hằng sống là Đấng ngự trên Trời; Mẹ kêu gọi những môn đồ của
Chúa Kitô làm người, Vị Cứu Tinh chân thật duy nhất của con người;
Mẹ kêu gọi con cái của Mẹ, những tín hữu đích thực, những người đă
hiến ḿnh cho Mẹ để Mẹ dẫn dắt họ đến cùng Con Thần Linh của Mẹ,
những người mà Mẹ bồng trên tay, nói cách khác, những người sống
theo tinh thần của Mẹ. Sau hết, Mẹ kêu gọi Những Tông Đồ Cuối Thời,
những môn đệ trung kiên của Chúa Giêsu Kitô, những người sống trong
sự khinh chê thế gian và chính ḿnh, trong nghèo khó và khiêm hạ,
trong lănh đạm và thầm lặng, trong nguyện cầu và khổ chế, trong tinh
tuyền và thần hiệp, trong khổ đau và ẩn khuất trước mắt thế gian.
Đây là lúc họ xuất thân làm cho thế gian tràn đầy ánh sáng. Hăy đi
mà tỏ ḿnh ra là các con cái dễ thương nhất của Mẹ. Mẹ ở bên các con
và ở trong các con, nếu Đức Tin của các con là ánh sáng soi cho các
con trong những ngày bất hạnh này. Chớ ǵ ḷng nhiệt thành của các
con làm cho các con đói khát vinh quang và vinh dự của Chúa Giêsu
Kitô. Hăy chiến đấu, hỡi các con cái của ánh sáng, các con là thành
phần ít ỏi. V́ đây là thời điểm của mọi thời điểm, tận cùng của mọi
cùng tận”.
H́nh ảnh
những vị thánh trong Thời Điểm Maria nơi Bí Mật Fatima (năm 1917):
·
“Sau hai phần con đă diễn tả, th́ ở bên trái của Đức Mẹ và cao hơn
một chút, chúng con thấy có một vị Thiên Thần cầm một lưỡi gươm cháy
lửa nơi tay trái; thanh gươm chớp chớp phát ra những ngọn lửa như
muốn thiêu đốt thế giới; tuy nhiên, những ngọn lửa ấy đă bị tắt mất
trước ánh quang sáng ngời từ bàn tay phải của Đức Mẹ phát ra chiếu
về phía vị Thiên Thần, bởi thế, lấy bàn tay phải của ḿnh mà chỉ
xuống trái đất, vị Thiên Thần đă kêu lớn tiếng rằng: ‘Hăy ăn năn đền
tội, hăy ăn năn đền tội, hăy ăn năn đền tội!’. Rồi chúng con thấy
một vị Giám Mục mặc Áo Trắng, ‘mà chúng con có cảm nhận đó là Đức
Thánh Cha’, trong một vùng sáng mênh mông là Thiên Chúa, ‘giống như
người ta thấy ḿnh đi ngang qua trước một tấm gương soi’. Các vị
Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ khác đang tiến lên một ngọn núi dốc
đứng, trên đỉnh có một cây Thập Giá lớn, được làm bằng những thân
cây nứt nẻ như loại thân cây điên điển c̣n vỏ; trước khi tiến lên
tới đỉnh núi, Đức Thánh Cha đă băng qua một thành phố lớn, một nửa
đă bị tàn rụi, c̣n một nửa kia th́ đang run rẩy loạng quạng lê bước
với đầy những đớn đau và buồn khổ, Ngài cầu nguyện cho các linh hồn
của những thi thể Ngài gặp thấy trên quăng đường đi; tiến tới đỉnh
núi rồi th́ khi đang qú ở dưới chân cây Thập Giá lớn, Ngài đă bị ám
sát bởi một nhóm lính bắn tới bằng các viên đạn và mũi tên, cũng lần
lượt bị sát hại như thế có cả các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam
nữ cùng với thành phần giáo dân ở các tầng lớp và vai tṛ khác nhau.
Dưới hai cánh Thập Giá có hai Thiên Thần, mỗi vị cầm trong tay ḿnh
một b́nh nước thánh bằng pha lê để chứa đựng máu của các vị Tử Đạo
và hai vị dùng máu ấy vẩy trên những linh hồn đang t́m đường đến
cùng Thiên Chúa”.
Lạy
Chúa Giêsu Kitô, Chúa là h́nh ảnh Thiên Chúa vô h́nh,
Là
phản ánh vinh quang Cha và là hiện thân đích thực của bản thể Cha,
đến
độ “ai thấy Thày là thấy Cha”.
Chúa
đă kêu gọi chúng con “hăy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng
trọn lành”,
Hăy
“hiền lành và khiêm nhượng trong ḷng” như Chúa.
Xin
hăy thánh hóa chúng con trong chân lư
Và
xin hăy hoàn toàn và vĩnh viễn chiếm đoạt Kitô hữu chúng con là môn
đệ Chúa,
để
chúng con có thể trở thành chứng nhân trung thực và sống động cho
Chúa,
như
Mẹ Maria đầy ơn phúc, một Người Mẹ đă nên một với Con và giống Con
hơn hết,
đến
độ, Mẹ như mặc mặt trời và rực rỡ như vầng dương.
Amen.