|
Thánh Lê Bảo Tịnh
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 533 Thứ Sáu
26/11/2010
Khi lănh nhận Phép Rửa tái sinh, theo Giáo Lư Công giáo, Kitô hữu chúng
ta lănh nhận cùng một lúc chẳng những thánh sủng mà c̣n cả 3 thần đức
tin cậy mến nữa.
Nhờ
Thánh Sủng
chúng ta
được
thông phần
vào bản
tính của
Thiên Chúa, sống
sự
sống
của
Thiên Chúa và nên con cái thừa
nhận
của
Ngài, và nhờ
3 thần
đức,
chúng ta thực
hiện
những
tác hành siêu nhiên, theo sự
sống
thần
linh, xứng
với
thân phận
làm con cái Thiên Chúa của
chúng ta.
Nếu
đức
tin là cây
đèn
chỉ
sáng lửa
đức
mến
nhờ
dầu
đức
cậy
thế
nào th́ hạt
giống
đức
tin
được
gieo vào tâm hồn
của
chúng ta qua Phép Rửa
cũng
chỉ
trở
thành một
cây
đức
ái sinh hoa kết
trái khi nẩy
mầm
và
đâm
rễ
đức
cậy
mà thôi.
Đó
là lư do nếu
đức
tin liên quan tới
Thánh Kinh, tức
liên quan tới
mạc
khải
thần
linh, và
đức
mến
liên quan tới
Thánh Thể,
tức
liên quan tới
hiệp
nhất
nên một,
th́
đức
cậy
liên quan tới
Thánh Giá, tức
liên quan tới
thử
thách
đau
khổ.
Và
đó
cũng
là lư do nhờ
cậy
trông mănh liệt
mà
đức
tin trở
nên bất
khuất
như
đức
ái.
V́
đức
cậy
liên quan tới
Thánh Giá,
đau
khổ
thử
thách như
thế,
mà
đau
khổ
thử
thách
được
Đức
Thánh Cha Biển
Đức
XVI coi là một
trong những
“khung cảnh”
cần
có
để
học
tập
cậy
trông hy vọng,
như
ngài nói
đến
trong
đoạn
36
ở
bức
thông
điệp
thứ
hai của
ngài như
sau:
·
“Như hành động,
đau khổ cũng thuộc về cuộc sống loài người chúng ta. Đau khổ một phần
xuất phát từ cái hạn hẹp của chúng ta, và một phần từ khối tội lỗi được
chất chồng qua gịng lịch sử, và tiếp tục không ngừng gia tăng cho tới
ngày nay. Chắc chắn là chúng ta cần phải làm những ǵ có thể để giảm bớt
khổ đau: để tránh bao nhiêu có thể t́nh trạng khổ đau của thành phần vô
tội; để giảm nhẹ đớn đau; để trợ giúp vào việc chế ngự nỗi khổ về tâm
thần. Đó là những trách nhiệm thuộc về cả đức công bằng lẫn
yêu thương, và chúng được
bao gồm trong số những đ̣i hỏi nồng cốt của đời sống Kitô giáo cũng như
của hết mọi cuộc sống đích thực của loài người. Việc chống lại sự đớn
đau về thể lư đă đạt được nhiều tiến bộ; tuy nhiên, những khổ đau của
thành phần vô tội và t́nh trạng khổ đau về tâm thần dường như gia tăng
trong các thập niên gần đây. Thật vậy, chúng ta cần phải làm tất cả
những ǵ có thể để chế ngự khổ đau, thế nhưng việc hoàn toàn loại trừ nó
khỏi thế giới này lại không phải là những ǵ ở trong tầm tay của chúng
ta. Điều này xẩy ra chỉ v́ chúng ta không thể thoát được cái hạn hẹp của
ḿnh và v́ không ai trong chúng ta có thể loại trừ quyền lực của sự dữ,
của tội lỗi, là những ǵ như chúng ta thường thấy luôn là nguồn mạch của
khổ đau. Chỉ duy có Thiên Chúa mới có thể làm điều ấy: chỉ có Vị Thiên
Chúa đă đích thân đi vào lịch sử bằng việc làm cho ḿnh thành người và
chịu khổ trong lịch sử. Chúng ta biết rằng Vị Thiên Chúa này hiện hữu,
và v́ thế, quyền lực ‘xóa tội trần gian’ (Jn 1:29) đang hiện diện trong
thế giới này. Nhờ tin tưởng vào sự hiện diện của quyền lực ấy mới xuất
hiện trong lịch sử niềm hy vọng chữa lành của thế giới. Tuy nhiên, nó là
niềm hy vọng chưa nên trọn; niềm hy vọng mang lại cho chúng ta ḷng can
đảm để đặt ḿnh vào phe của sự thiện, ngay cả trong những trường hợp
dường như vô vọng, với ư thức rằng, bao lâu c̣n quan tâm tới gịng lịch
sử ở bên ngoài th́ quyền lực của tội lỗi sẽ tiếp tục trở thành một sự
hiện diện kinh hăi”.
Cũng
trong thông
điệp
thứ
hai này của
vị
Giáo Hoàng thần
học
gia Biển
Đức
XVI, tựa
đề
Niềm
Hy Vọng
Cứu
Độ
– Spe Salvi, một
văn
kiện
có giá trị
giáo huấn
cao nhất
của
vị
Mục
Tử
Tối
Cao kế
vị
Thánh Phêrô
đại
diện
Chúa Kitô
chăn
dắt
Giáo Hội
Công giáo hoàn vũ,
Giáo Hội
Việt
Nam chúng ta hân hạnh
có hai trong 3 vị
được
nêu gương,
đó
là
Đức
Hồng
Y Phanxicô Xavier Nguyễn
Văn
Thuận,
ở
đoạn
32 và 34, và Thánh Tử
Đạo
Phaolô Lê Bảo
Tịnh,
ở
đoạn
37, v́
đời
sống
và văn
từ
của
các ngài
liên quan tới
đề
tài về
niềm
hy vọng
Kitô giáo
được
Đức
Thánh Cha tŕnh bày và huấn
dụ
theo giáo huấn
thời
đại
của
ngài.
Về
Thánh Phaolô Lê Bảo
Tịnh,
Đức
Thánh Cha
đă
viết
như
sau:
·
“Chúng ta hăy trở về với đề tài của chúng ta. Chúng ta có thể cố gắng
hạn chế khổ đau, chiến đấu chống lại nó, thế nhưng chúng ta không thể
nào loại trừ nó. Khi chúng ta cố gắng tránh né đau khổ bằng việc rút lui
khỏi bất cứ những ǵ gây thương tổn, khi chúng ta cố gắng tự châm chước
cho ḿnh nỗ lực và sự đớn đau trong việc t́m kiếm chân lư, yêu thương và
sự thiện hảo, là chúng ta trôi dạt vào một đời sống trống rỗng, ở đó có
thể không có đớn đau, nhưng cái cảm giác tăm tối của những ǵ là vô
nghĩa và bỏ rơi lại càng to lớn hơn thế nữa. Không phải việc chúng ta
tránh sang một bên hay đào tẩu khỏi khổ đau là chúng ta được chữa lành,
trái lại, bằng việc chúng ta chấp nhận đau khổ, nhờ nó mà trưởng thành
và t́m được ư nghĩa bằng mối hiệp nhất với Chúa Kitô, Đấng chịu đựng khổ
đau bằng một t́nh yêu vô biên.
“Theo chiều hướng ấy, tôi muốn trích một đoạn từ bức thư được viết bởi
vị tử đạo Việt Nam Phaolô Lê Bảo Tịnh (+ 1857) để dẫn chứng cho việc
biến đổi khổ đau này bằng quyền lực của niềm hy vọng xuất phát từ đức
tin.
“’Tôi là Phaolô, bị xích xiềng v́ danh Chúa Kitô, muốn thuật lại cho anh
em biết về những thử thách hằng ngày vây quanh tôi, nhờ đó anh em có thể
bùng cháy t́nh yêu mến Thiên Chúa và hợp cùng tôi ca khen chúc tụng Ngài,
v́ t́nh Ngài xót thương cho đến muôn đời (Ps 136 [135]). Ngục tù ở đây
là h́nh ảnh thực sự của Hỏa Ngục đời đời: những thứ hành hạ dữ dội đủ
mọi loại – gông cùm, giây sắt, khóa tay – cùng với hận thù, báo oán, vu
khống, tục ngôn, căi cọ, hành ác, chửi thề, nguyền rủa, cũng như khổ ải
và buồn thương. Thế nhưng Vị Thiên Chúa, Đấng đă giải thoát 3 trẻ khỏi
ḷ lửa luôn ở cùng tôi; Ngài đă giải thoát tôi khỏi những nỗi thống khổ
này và làm cho chúng nên ngọt ngào, v́ t́nh thương của Ngài muôn đời
muôn kiếp. Giữa những cực h́nh ấy, những thứ cực h́nh thường làm cho kẻ
khác khiếp sợ, th́ nhờ ơn Chúa, tôi lại cảm thấy tràn đầy hân hoan và
vui sướng, v́ tôi không lẻ loi một ḿnh – Chúa Kitô ở với tôi… Làm sao
tôi có thể hằng ngày chịu đựng được cảnh thấy các vị hoàng đế, các quan
chức, và thành phần hầu cận của họ lộng ngôn phạm đến thánh danh của
Chúa, Ôi Chúa, Đấng ngự trên Thần Cherubim và Seraphim? (cf. Ps 80:1
[79:2]). Ḱa, đám dân ngoại đạo chà đạp Thánh Giá của Chúa dưới chân!
Đâu là vinh quang của Chúa? Khi con trông thấy tất cả những điều ấy, v́
t́nh con thiết tha yêu mến Chúa, con thà bị xâu xé tứ chi và chết đi như
một nhân chứng cho t́nh yêu của Chúa. Ôi Chúa, xin hăy tỏ quyền năng của
Chúa ra, xin hăy cứu con, hăy nâng đỡ con, để trong nỗi hèn yếu của con,
quyền năng của Chúa được tỏ hiện và được hiển vinh trước các quốc gia…
Anh em thân mến, khi anh em nghe thấy tất cả những điều ấy chớ ǵ anh em
hăy hân hoan dâng lời tạ ơn khôn cùng lên Thiên Chúa là Đấng hết mọi sự
tốt lành xuất phát; xin hăy cùng tôi ca ngợi Chúa, v́ t́nh Ngài xót
thương cho tới muôn đời… Tôi viết cho anh em những điều này để đức tin
của anh em và của tôi được liên kết. Ở giữa cơn băo tố này, tôi tung cái
neo của tôi về phía ngai ṭa của Thiên Chúa, cái neo này là niềm hy vọng
sống động trong cơi ḷng của tôi” (28).
“Đây là một bức thư từ ‘Hỏa Ngục’. Nó cho thấy hết tất cả những ǵ là
rùng rợn của một trại tập trung, nơi những cực h́nh do các tay tàn bạo
giáng xuống thành phần nạn nhân của ḿnh, được kèm theo cả sự bùng nổ
của sự dữ nơi chính thành phần nạn nhân, đến độ về phần ḿnh thành phần
nạn nhân này trở thành những thứ dụng cụ một lần nữa cho cái bạo tàn của
những kẻ bách hại họ. Đó thực là một bức thư từ Hỏa Ngục, thế nhưng nó
cũng tỏ cho thấy sự thật của bài Thánh Vịnh là ‘Nếu tôi lên trời th́
Ngài ở đó; nếu tôi xuống ḷng đất Ngài cũng ở đó… Nếu tôi nói ‘bóng tối
thật sự sẽ bao phủ tôi và đêm tối sẽ là ánh sáng của tôi’ – th́ đối với
Ngài chính tối tăm lại không tăm tối, và đêm lại chiếu sáng như ban ngày;
tối tăm và ánh sáng như nhau’ (Ps 139 [138]:8-12; cf. also Ps 23
[22]:4). Chúa Kitô đă xuống ‘Hỏa Ngục’ và v́ thế gần với những ai bị
quăng vào đó, biến đổi tối tăm của họ thành ánh sáng. Đau khổ và cực
h́nh vẫn là những ǵ kinh khiếp và không thể nào chịu đựng cho nổi. Tuy
nhiên, ánh sao của niềm hy vọng đă mọc lên – cái neo của cơi ḷng vươn
lên tới chính ngai ṭa của Thiên Chúa. Thay v́ sự dữ bung tỏa nơi con
người, th́ ánh sáng lại chiếu tỏa rạng ngời: khổ đau – không ngừng là
đau khổ – bất chấp mọi sự, trở thành một bản thánh ca chúc tụng”.
Giờ
đây,
nhân dịp
mừng
kính Lễ
Các Thánh Tử
Đạo
trên
Đất
Việt
trong Năm
Thánh Việt
Nam 2010, chúng ta hăy cùng với
soạn
giả
Hiếu
Trung Ḍng
Đaminh
ôn lại
tiểu
sử
của
vị
thánh có bức
thư
viết
từ
hỏa
ngục
này của
chúng ta, vị
được
diễm
phúc minh chứng
đức
tin của
ḿnh vào ngày 6/4 năm
1857, hưởng
thọ
64 tuổi.
Từ Ẩn Sĩ Đến Tử Đạo
Khởi đầu
là vị ẩn tu, kết thúc là vị tử đạo. Hai h́nh ảnh như có vẻ khác biệt
nhau. Nhưng đối với Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, điều quan trọng đâu có
phải là h́nh ảnh, là lối sống, mà chính là Niềm Tin: Thiên Chúa là tất
cả. Lối sống có thể thay đổi, nhưng niềm tin mới là nền tảng chính yếu.
Chính niềm tin đó đă dẫn dắt cuộc đời Phaolô Tịnh, từ một vị ẩn sĩ trở
thành một vị linh mục nhiệt thành truyền giáo, một giáo sư tận tụy và
sau cùng đến phúc tử đạo vinh quang.
Rừng Vắng và Sứ Mạng
Phaolô Lê Bảo Tịnh sinh năm 1793 tại xă Trinh Hà, huyện Hoàng Hóa, phủ
Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, là con thứ ba trong một gia đ́nh Công giáo.
Năm 12 tuổi, cậu vào ở với cha Duệ xứ Bạch Bát. Sau ba năm, cậu được cha
gởi đi học tại chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định). Trong chủng viện, cậu là
một chủng sinh gương mẫu. Trí khôn b́nh thường, nhưng cậu hơn hẳn anh em
về sự chăm chỉ, về tinh thần đạo đức hăm ḿnh, cậu ăn chay các ngày thứ
Sáu, đánh tội và nằm đất. Khuynh hướng sống khổ hạnh đó là bước đầu dẫn
đến ư định ẩn tu của thầy Tịnh.
Có thể nói Lê Bảo Tịnh là một con người triệt để. Thầy đă cương quyết
hiến dâng cuộc đời cho Chúa. Thầy đă chọn Chúa, và muốn thể hiện điều ấy
cách trọn vẹn. Chính v́ thế, thầy tích trữ cơm khô, âm thầm rời bỏ chủng
viện vào sâu trong rừng vắng để có dịp cầu nguyện và kết hiệp mật thiết
với Thiên Chúa bằng đời sống khắc khổ trong cô tịch.
Thế nhưng, đâu phải ai cũng có quyền sống đạo đức theo ư riêng. Thiên
Chúa mời gọi con người cộng tác vào công tŕnh cứu chuộc của Ngài, th́
chính Ngài sẽ xếp đặt công việc cho họ. Chính v́ vậy, Đức cha Longer Gia
đă chỉ thị cho các cha trong địa phận:
·
“Nếu
thầy Tịnh đến xưng tội, không linh mục nào được quyền giải tội, phải bảo
thầy đến gặp Đức cha ngay”.
Và vị ẩn
sĩ đạo đức ấy đă t́m ra ư Chúa qua vị Giám mục. Một năm trời quen với
rừng sâu, giờ đây thầy phải từ giă để đón nhận những hy sinh mới, những
công tác mà Giáo Hội đang cần đến thầy.
Vị Tông Đồ Đất Lào
Để chuẩn bị cho những công tác lớn lao hơn, Đức cha cho thầy Tịnh về
tiếp tục học thần học, lănh các chức nhỏ, đồng thời tiếp tục dạy học.
Đức cha Havard Du, kế vị Đức cha Gia, cử thầy sang Macao để nhận những
khoản trợ cấp cho địa phận. Hai chuyến đi trong hai năm, đồng thời cũng
là hai lần thoát chết khỏi tay cướp biển và giông tố.
Năm 1837, Đức cha đề ra chương tŕnh truyền giáo tại Lào, thầy Tịnh đă
hăng hái lên đường. Sau một năm hoạt động, thấy việc tông đồ tiến triển
tốt đẹp, thầy trở về địa phận xin Đức cha phái thêm người đi truyền
giáo. Thế nhưng t́nh h́nh trong nước đă thay đổi. Thi hành lệnh vua,
quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lúc đó ra lệnh cấm đạo gắt gao. Cha Mai
Năm, ông Trùm Đích, ông Lư Mỹ bị bắt và tử đạo, chủng viện Vĩnh Trị phải
đóng cửa, Đức cha Du phải ẩn lánh và qua đời ngày 5.7.1838. Đức cha Cao
chịu tử đạo không kịp lănh nhiệm vụ. V́ vậy đoàn truyền giáo ở Lào phải
về nước, chuẩn bị nhận công tác mới.
Vào Tù Lần Thứ Nhất và Lưu Đày
Đức cha Retord Liêu, người kế vị Đức cha Du, cử thầy Tịnh đi dạy giáo lư
tân ṭng tại làng Thạch Tổ, xứ Bích Tŕ, tỉnh Hà Nam. Cuối năm 1841, lư
trưởng làng Thạch Tổ đă ŕnh bắt được thầy Tịnh. Giáo hữu đem tiền nộp
quan mong chuộc được thầy, nhưng thầy tỏ ra khí khái nói với quan:
·
“Nếu chỉ
v́ có tiền mà tha, th́ tôi không muốn”.
Thế là
thầy Tịnh bị giải về tuần phủ Hà Nam, rồi lên Hà Nội. ở đâu con người ấy
tuy mảnh khảnh y phục thô sơ, luôn đi chân đất, cổ đeo gông, nhưng tâm
hồn th́ chính trực và cương quyết. Các vị quan hùng hổ đă không thể nào
khuất phục nổi. Họ chỉ c̣n cách là đệ án về kinh xin trảm quyết. Nhưng
rất may, khi vua Thiệu Trị lên ngôi, bầu khí ác cảm với đạo đă giảm đi.
Sáu lần quan đệ án vào kinh, cả sáu lần không được chấp thuận, để đến
lần thứ bảy chuyển thành án lưu đày chung thân ở Phú Yên (B́nh Định).
Trên đường lưu đày, người tù có thân h́nh mảnh mai nhưng tâm hồn cương
nghị ấy luôn luôn chứng tỏ ḷng trung thành quả cảm với chân lư đức tin
ḿnh đang theo. Thầy đă mănh liệt phản đối khi người ta gọi “Giatô tả
đạo”, đồng thời giải thích với mọi người về tôn giáo của ḿnh.
Thời gian phát lưu không lâu th́ vua Thiệu Trị băng hà (4.11.1847). Vua
Tự Đức lên kế ngôi và ban ân xá, giải phóng tù nhân. Trở về địa phận
trong niềm vui khôn xiết của nhiều người, thầy Tịnh vâng lời Đức cha
lănh chức linh mục, khi đă 56 tuổi. Khoảng một năm sau, vị tân linh mục
được giữ chức Giám đốc kiêm giáo sư chủng viện Vĩnh Trị. Nhờ trước đây
đă từng là ân nhân chữa bệnh đau mắt cho quan Tổng đốc Nam Định Nguyễn
Đ́nh Hưng, nên cha Giám đốc đă xin được giấy phép cho chủng viện được
hoạt động một cách bán công khai, dưới h́nh thức một trường dạy chữ Nho
và thuốc.
Chân Dung Cha Phaolô Tịnh
Thoạt nh́n, người ta chỉ có thể nhận thấy Phaolô Tịnh là một linh mục có
thân h́nh dong dỏng cao, gầy guộc, dáng vẻ đạo mạo, khắc khổ. Nhưng chỉ
những ai gặp gỡ cha mới nhận ra đó là vị linh mục đầy ḷng nhân ái, giản
dị, khôn ngoan từng trải. Có lẽ những bước thăng trầm đây đó cùng với số
tuổi khá cao khi lănh chức linh mục, đă ảnh hưởng nhiều tới cuộc đời
tông đồ của cha. Ngài tận dụng thời giờ thật khít khao, cốt sao đạt được
ích lợi tối đa. Trong những năm tháng đảm nhiệm chủng viện Vĩnh Trị với
bao công việc, thế mà cha Giám đốc vẫn thu xếp được thời giờ để viết
lách. Ta có thể kể những tác phẩm của cha:
·
Phúc Âm
dẫn giải.
·
Giáo lư
đại cương.
·
Lục vấn
lương tâm.
·
Những
lời khuyên thực hành để giúp xa lánh tội trọng và dọn ḿnh chết lành.
Trong
khi hướng dẫn chủng sinh, cha thường khuyên các thầy tuân giữ kỷ luật,
v́ chính cha đă từng có kinh nghiệm sâu sắc: Kỷ luật là ân nhân giúp thể
hiện ḷng mến Chúa, nâng đỡ đời tu. Đàng khác, cha c̣n chú tâm huấn
luyện chủng sinh về đời sống cầu nguyện. Theo cha, một nhà truyền giáo
mà không quư trọng việc cầu nguyện, th́ lời giảng sẽ không có sức thuyết
phục. Lúc này, tuy không c̣n trực tiếp coi sóc giáo hữu, nhưng cha Tịnh
rất siêng năng giải tội, giúp đỡ các tâm hồn ḥa giải với Chúa.
Một khía cạnh khác trong đời Cha Phaolô Tịnh là ḷng yêu mến Thánh giá.
Bất cứ nơi nào cha đă từng sống, đều có bóng dáng của cây Thập giá. Sau
này khi bị bắt, các quan thấy cha có nhiều thánh giá quá liền kháo nhau:
·
“Ông cụ
này nghiện Thánh giá”.
Đúng vậy,
không phải cha “nghiện” thánh giá bằng cách dựng nên khắp nơi, nhưng v́
ḷng tôn kính cuộc tử nạn của Chúa Kitô, đồng thời ao ước sống cuộc đời
thánh giá, mong muốn ḿnh được góp phần vào ḍng máu của Thầy Chí Thánh
đă đổ ra để cứu chuộc trần gian. Ḷng yêu mến ấy đă được bộc lộ qua nếp
sống thật nhiệm nhặt, cả khi c̣n làm thầy sống ẩn tu, cũng như khi làm
cha Giám đốc chủng viện. Bữa cơm thường nhật của cha là vài chén cơm với
chút nước mắm và dĩa rau xanh. Cha ngủ hay nghỉ thường ở dưới đất, và ít
khi ở trên giường. Thân xác cha hao ṃn, nhưng bên trong vẫn chứa đựng
một tâm hồn mănh liệt, một trí thông minh sắc sảo.
Cha sống nhiệm nhặt đến quên thân ḿnh, nhưng lại luôn lo lắng cho người
khác. Cha thường thăm viếng, an ủi, ban các bí tích, giúp đỡ người
nghèo, nhất là các bệnh nhân, kể cả những người bị bệnh nan y như phong
cùi. Có thể nói cha Lê Bảo Tịnh đă tử đạo ngay trong cuộc sống, trước
khi được phúc thực sự đổ máu v́ đức tin trung kiên.
Bị Bắt Lần Thứ Hai
Năm 1857, hai cha Kỳ và Hảo về tổ chức lễ tại nhà thờ Phát Diệm. Dịp này
ngoài thánh lễ c̣n có những cuộc rước long trọng. Biến cố rầm rộ này bị
kẻ xấu báo cáo xuyên tạc với viên quan Ninh B́nh: “Cụ đạo mở cờ khai
quân”. Quan quân liền kéo về Phát Diệm vây bắt, nhưng hai cha Kỳ và Hảo
đă về Vĩnh Trị rồi, nên họ gởi giấy yêu cầu quan Nam Định đi bắt hai
linh mục đó. Quan Tổng đốc Nam Định Nguyễn Đ́nh Hưng vẫn nhớ ân t́nh với
cha Phaolô Tịnh (vị ân nhân đă chữa mắt cho ḿnh), nên đă cố gắng cản
ngăn nhưng không xong. Kế hoạch vây bắt được ấn định vào ngày 27.2.1857
do quan phủ Nghĩa Hưng chỉ huy.
Trong khi đó, quan Tổng đốc đă nhờ người báo cho cha Tịnh ở Vĩnh Trị,
nhưng v́ bất ưng bị bệnh nặng người đó không đi báo được, nên chủng viện
Vĩnh Trị vẫn sinh hoạt b́nh thường cho đến khi quan quân vây kín làng.
Sau mấy phút hội ư, Đức cha Liêu và các cha đồng ư chạy trốn, chỉ để một
ḿnh cha Tịnh ở lại đối phó, với hy vọng tránh được những tàn phá. Cha
tịnh b́nh tĩnh mời quan phủ Nghĩa Hưng và ông Phán Trứ vào pḥng uống
nước, rồi tŕnh bày giấy phép của quan Tổng đốc. Tuy nhiên v́ thấy trong
nhà trường có nhiều đồ quốc cấm như sách Latinh, đồ lễ và nhiều vật dụng
khác từ nước ngoài gởi về, nên quan phủ cho lập biên bản và yêu cầu cha
Tịnh ra tỉnh để điều tra thêm. Quan Tổng đốc lâm vào t́nh thế thực khó
xử, biết rơ cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của cha Tịnh, thế mà chính
quan Thượng Hưng lại là người hỏi cung cha. Nên trước ṭa, quan không
hỏi han ǵ cả, chỉ xin cha quá khóa th́ sẽ tha về. Nhưng cha Tịnh với tư
cách là một linh mục làm sao có thể chấp nhận đề nghị ấy.
Năm ngày sau, cha Tịnh lại được đưa ra trước công trường. Cũng một câu
hỏi, và cũng một ḷng son sắt đó. Khi được lệnh viết lại bản lư lịch,
cha vẫn xác nhận ḿnh là linh mục. Quan Thượng Hưng khuyên cha không nên
viết thế, chỉ nên khai là giáo hữu chuyên dạy chữ Nho và làm thuốc mới
hy vọng thoát án chết. Đáp lại, cha cảm ơn ḷng tốt của quan, vẫn giữ y
lời khai và cho đó là vinh dự lớn lao. Cha sẵn sàng chịu đựng tất cả v́
vinh dự ấy. Lần cuối cùng, quan Thượng Hưng t́m cách cứu gỡ vị ân nhân
của ḿnh. Chính tay ông viết bản án và điền thêm ở dưới:
·
“Xét
rằng Lê Bảo Tịnh đă ngoài 60 tuổi, chiếu theo luật nước không nên xử tử
những người già nua tuổi tác như thế, xin cứ giam ở Nam định và cứ giữ ở
đó là tiện nhất”.
Linh Hồn Tôi Thuộc Về Chúa
Trong khi chờ đợi vua trả lời về bản án, cha Tịnh bị giam ở Trại Vệ. Ba
mươi bảy ngày sống tại đây là cơ hội để cha củng cố đức tin cho các anh
em yếu đuối, t́m cách liệu cho họ lănh được lương thực tinh thần cũng
như những trợ giúp về vật chất. Nhờ đó, họ thêm can đảm làm chứng cho
Chúa trong những giây phút bi thương nhất. Về phần cha, đây là dịp chuẩn
bị lần cuối để xứng đáng với diễm phúc tử đạo mà cha hằng ao ước. Cha
sửa soạn cho giờ phút đó một cách đều đặn bằng việc đọc kinh nguyện ngắm.
Chính khi củng cố ḷng can đảm nơi người khác, cũng là lúc cha củng cố
ḷng tin cho ḿnh. Trong những ngày này, cha không thể nào quên được
đoàn con thân yêu ở chủng viện Vĩnh Trị. Mười hai ngày trước khi bị xử
án, cha viết cho các chủng sinh một tâm thư rất cảm động và chan chứa
những tư tưởng đạo đức.
Ngày 5.4.1857 án ra tới tỉnh, người hồi hộp nhất là quan Tổng đốc. Vua
cải án giam thành án tử h́nh trảm quyết. Nhận được bản án, quan Thượng
cố gắng một lần chót bằng cách khuyến dụ cha Tịnh xuất giáo. Nhưng làm
sao cha lại chấp nhận được. Cả một đời đă tận tụy với Thiên Chúa, cả một
đời khát khao mong chờ diễm phúc lớn lao này, đến nay sắp được toại
nguyện, lẽ nào lại bỏ đi? Cha từ tốn đáp lại lời quan:
·
“Tôi xin
chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có ḷng tốt t́m cách cứu tôi. Thân xác
tôi ở trong tay quan, xin làm khổ nó tùy ư, tôi rất vui ḷng, không oán
than ǵ. Nó chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại vinh quang. C̣n linh hồn
tôi là của Thiên Chúa, không có ǵ làm tôi hy sinh nó được, không ai có
thể lay chuyển ḷng tin tưởng của tôi. Đạo Thiên Chúa là chính đạo, là
đạo thật, tôi có chết cũng chẳng bỏ được”.
Lời
khẳng khái ấy phát sinh từ quyết định thật can đảm và sáng suốt. Quyết
định lựa chọn cái chết một cách hiên ngang, v́ tin chắc rằng: ḿnh sẽ
được sống muôn đời (Ga 12:25). Vinh phúc ấy, cha Phaolô Tịnh đă đạt được
ngày 6.4.1857 tại pháp trường Bảy Mẫu (Nam Định) trong lời từ biệt gởi
tới mọi người:
·
“Anh em
ở lại b́nh an, chịu khó giữ đạo và can đảm bền vững, đừng sợ chết nhé”.
Đức Thánh Cha Piô X đă suy tôn cha Phaolô Lê Bảo Tịnh lên bậc Chân Phước
ngày 2.5.1909.
Và Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đă tôn phong hiển thánh cho ngài cùng với 116
vị khác ngày 19/6/1988.
Lạy
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đă đến trong thế gian,
Chúa
đă yêu thương chung Giáo Hội và môn đệ Chúa cho đến cùng,
tới
độ Chúa đă tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lư,
nhờ
đó họ được hiệp nhất nên một trong Chúa và Cha
để
cho thế gian nhận biết Chúa đă được Cha sai.
Xin
Nhựa Sống Thánh Linh của Chúa luôn sung sức trong chúng con
để
cành nho chúng con có thể trổ sinh muôn vàn Hoa Trái Thần Linh cho Chúa.
Amen.
|
|