LTS.
Mỗi khi cần phải
nhắc đến Đức
Hồng Y PX.
Nguyễn Văn Thuận,
người ta thường
tránh né việc
Ngài bị tù tội
suốt 13 năm,
trong đó có 9
năm biệt giam,
thậm chí người
ta sẽ cố t́nh
quên Ngài là Phó
tổng giám mục
Saigon từ 1975
đến 1994, và
ngay cả thời
gian trước đó,
khi Ngài là giám
mục Nha Trang,
cũng đă kiêm
nhiệm các chúc
vụ quan trọng
của HĐGMVN như:
Chủ tịch Ủy Ban
truyền
thông xă hội
(1967-1975),
Chủ tịch Ủy Ban
phát triển (1967-1975),
Cố vấn Ủy Ban
giáo hoàng về
giáo dân
(1971-1978).
Theo
http://hdgmvietnam.org/“chung-nhan-cua-hy-vong”/2230.57.7.aspx
, chúng con cũng
chỉ thấy nhắc
đến: "Đức hồng y
Nguyễn Văn Thuận
đă giữ chức phó
chủ tịch Hội
đồng Ṭa Thánh
về Công lư và
Ḥa b́nh vào năm
1994, sau đó,
chủ tịch của Hội
đồng này từ 1998
đến khi ngài qua
đời vào năm
2002", đọc bản
tin trên của WHĐ,
chúng con cảm
thấy h́nh như
Ngài là
"người
ngoại quốc"?
Vào ngày 22-10
tới đây, tức ba
năm sau vụ án
phong chân phước
được công bố,
cuộc điều tra
cấp giáo phận về
cuộc đời, nhân
đức và về sự
thánh thiện của
người Tôi tớ
Chúa là Hồng y
Phanxicô Xavie
Nguyễn Văn Thuận
(1928-2002), sẽ
được khai mạc
một cách trọng
thể với nhiều
hoạt động
được tổ chức.
Nhân sự kiện vô
cùng đặc biệt
này, chúng con
hân hạnh phổ
biến bài viết
dưới đây được
lấy lại từ
http://www.chungnhanduckito.net/kitohuu/hythuan/thanhthetrongcuocdoiDHYThuan.htm,
mà tác giả chính
là
người em ruột
của ĐHY Phanxicô
Xaviê.
Qua đó, chúng ta
thấy cuộc đời
Ngài chính là
một chứng tá
sống động cho
t́nh thương của
Chúa.
Bài Thuyết Tŕnh
tại Đại Hội
Thánh Thể Thế
giới, MEXICO
2004
Thánh Thể trong
cuộc đời của Đức
cố HY Fx. Nguyễn
Văn Thuận
NHẬP ĐỀ
Kính thưa chư vị
Hồng Y, Giám mục,
Linh mục, Tu sỹ
Nam Nữ và các
Bạn,
Con xin được mạo
muội tự giới
thiệu: con tên
Elizabeth Nguyễn,
là em gái út của
Cố Hồng Y
Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuận.
Con hiện đang
sống cùng với
chồng và ba
người con tại
Gia-nă-đại, ở
Ontario, nơi mà
từ 21 năm nay,
con làm thành
viên của Ủy ban
Giáo dục Công
giáo.
Nguyên đầu tháng
Bảy năm nay, chị
Anne của con
phải nhập viện
để giải phẫu cắt
bỏ đi một khối u
ác tính nằm
trong năo bộ.
Hiện nay chị
đang được chữa
xạ trị tại
Sydney,
Úc-đại-lợi. Đó
là lư do khiến
Chị bất đắc dĩ
không thể đích
thân sang đây để
hầu chuyện với
quư vị về ḷng
sùng kính của
người Anh quá cố
chúng con đối
với Bí tích
Thánh Thể.
Ít lâu sau, qua
tháng Tám, khi
con sang Sydney
thăm nhà, Nữ tu
Mary Kathleen
Ronan sau khi
liên lạc với chị
em con, đă có
nhă ư mời con
qua đây thuyết
tŕnh thay cho
Chị Anne.
Được Sơ Mary ưu
ái nâng đỡ và
cầu nguyện cho,
con cảm thấy bội
phần hân hạnh và
vô cùng phấn
khởi.
Nhận lời mời
tham dự hội
thảo, con ư thức
rằng ḿnh sẽ
phải lên tiếng
trước một cử tọa
đức trưởng
thượng, phải ngơ
lời về một đề
tài có tầm quan
trọng vô song.
Đồng thời, con
cũng nhớ lại
những lời lẽ
khiêm cung thong
tuệ mà b́nh sinh
đi đâu Đức Cố
Hồng Y cũng dùng
để răn ḿnh:
“Con không là ǵ
cả, con chẳng
biết ǵ cả, con
không xứng đáng
chút nào, nếu
không có t́nh
yêu của Thiên
Chúa”.
V́ vậy, nguyện
xin Đức Chúa
Thánh Thần soi
sáng cho con
đang khi con cật
lực san sẻ với
chư vị quư bạn
về tầm mức quan
trọng của Phép
Thánh thể đối
với Cố Hồng y
Phanxicô Xaviê
suốt trong cuộc
sống của ngài.
*****
Để lượng giá
cho đúng mức đức
tin kính và ḷng
sùng mộ sâu xa
của ngài đối với
Bí tích Thánh
Thể, thiết tưởng
cần phải điểm
lại những chặng
chính trong
đường đời của
ĐHY:
Linh mục
Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn
Thuận, 39 tuổi,
được tấn phong
Giám mục.
Chín năm sau,
ngay trước ngày
chế độ cộng sản
chiếm miền Nam
Việt Nam, ngài
được bổ nhiệm
làm Tổng Giám
mục Phó với
quyền kế vị của
tổng giáo phận
Sài G̣n – Sài
G̣n sau đó đổi
tên là Thành Phố
Hồ Chí Minh.
Nhậm chức mới
được mấy tháng,
ngài đă bị chính
quyền cộng sản
câu lưu và tống
ngục 13 năm ṛng
ră, trong đó 9
năm biệt giam.
Nhờ có đức tin
mạnh mẽ, nhờ
biết liên lỷ kết
hợp với Chúa
Giêsu trong phép
Thánh Thể, ngài
đă biến những
chuỗi ngày ngục
tù thành những
năm tháng hoằng
tín tích cực và
truyền giáo bội
thu nhất.
Ngài đă mang sứ
điệp hy vọng đến
cho các bạn bị
giam cùng trại,
đă dẫn dắt cả
những kẻ quản
giáo coi tù đến
với Đạo Chúa.
Ra tù, tuổi đă
61, ngài được bổ
nhiệm làm Phó
Chủ tịch rồi về
sau trở thành
Chủ tịch của Hội
đồng Giáo hoàng
Công lư và Ḥa
b́nh. Ngài đă
loan truyền sứ
điệp hy vọng của
Giáo Hội khắp
năm châu bốn
biển. Ngài chịu
đựng và chấp
nhận lâu ngày
dài tháng chứng
bệnh mà thầy
thuốc đành bó
tay, trong sự
kết hợp với Chúa
Giêsu chịu nạn
trên cây thập tự
v́ sự hiệp nhất
của Giáo hội, v́
tất cả mọi người
trên thế gian.
Toàn văn bài
thuyết tŕnh
tại Hội thảo
Thánh Thể
Đọc
lại những trước
tác, nhớ lại
những kinh
nghiệm mà Cố bào
huynh khi c̣n
sống đă chia sẻ
cho con qua thư
từ gởi về trong
thời gian tù
đày, đặc biệt
trong những ngày
tháng liệt
giường cuối đời,
con có thể phân
biệt được bốn
tiêu điểm, tựa
như bốn nguồn
sáng chiếu tỏa
ra từ ḷng sùng
mộ của ngài đối
với Bí tích Cực
trọng.
Tiêu
điểm thứ nhất:
Đức Cố Hồng Y
xác tín mạnh mẽ
rằng Thánh
Thể là Sức Mạnh
và Sức Sống
dưỡng nuôi nhân
loại, v́
nhờ Thánh Thể mà
người ta được
kết hiệp thường
xuyên với Thiên
Chúa và v́ thế
kết hiệp với
T́nh Yêu của
Ngài.
Thiên ân đặc
biệt này ngay từ
thiếu thời ĐHY
đă lănh nhận
được. Thân mẫu
chúng con hay
nhắc lại chuyện
hồi xưa chị cả
của Mẹ mắc phải
bệnh lao mà qua
đời tại Huế,
Việt Nam. Thời
ấy lao bị coi là
môt chứng nan y
bất trị, hay lây
lan và vô cùng
nguy hiểm. Bởi
vậy thật khó mà
t́m ra một chú
giúp lễ chịu
theo cha xứ đi
trao Ḿnh thánh
cho D́ chúng
con. Thế mà chú
Thuận lại tự
nguyện cứ mỗi
ngày tan trường
về là hăm hở đi
theo Cha Sở c̣m
cơi già nua lội
bộ tới tận nhà
D́ Cả. Chú giúp
D́ dọn ḿnh rước
Lễ, xong xuôi ở
lại cùng D́ cầu
nguyện, mở Sách
Lễ đọc cho D́
nghe mọi bài
trong Thánh lễ.
Chú Thuận tiếp
tục giúp đỡ chăm
nom cho đến ngày
D́ lâm chung
mệnh một. Cha Mẹ
chúng con đă
thấp thỏm lo sợ
mà vẫn không qua
được: y như rằng
mấy năm sau đến
lượt cậu con
trai nhiễm lao
phải vào nằm
bệnh viện chạy
chữa một thời
gian dài.
Lần nào cũng
vậy, hễ mà con
xin Anh giải
thích sự hy sinh
phi thường đến
thế th́ ĐHY cứ
trích dẫn Phúc
âm Thánh Gio-an:
“Nếu các ngươi
không ăn thịt
Con Người, không
uống máu Con
Người, các ngươi
không thể có Sự
Sống trong các
ngươi”.
Cũng chính Sự
Sống ấy đă nuôi
nấng bồi bổ linh
hồn D́ Cả chúng
con cho đến ngày
nhắm mắt xuôi
tay.
Vừa mới chịu
chức linh mục,
đi làm phó cho
Cố Richard, một
thừa sai người
Pháp, Cha Thuận
đă t́nh nguyện
làm tuyên úy cho
nhà tù, nhà
thương, trại
cùi. Oái ăm
thay, hồi đó
ngài đâu dè có
ngày chính ḿnh
lại phải sa vào
chốn lao lung.
Những lời lẽ
sau đây trong
các đoạn #346 -
373 diễn tả một
cách tường minh
đơn nghĩa ḷng
tin của ĐHY vào
phép Ḿnh thánh
:
“
Muốn tin, phải
nuôi ḿnh bằng
Thánh Thể, v́
Thánh Thể chứa
đựng ‘Mầu nhiệm
Đức tin’ và ban
sức mạnh đức tin
cho con ”.
(Đường Hy
Vọng #373)
“ Biết giá
trị Thánh lễ, dù
xa dù khó con
cũng cố gắng
tham dự. Càng hy
sinh con càng
thấy mến Chúa
hơn”.
(Đường Hy Vọng
#346)
“ Con muốn
hỏi: ‘Cách ǵ
đẹp ḷng Chúa
hơn cả?’. Hăy
tham dự Thánh
lễ, v́ không
kinh nào, không
tổ chức, nghi
thức nào sánh
bằng lời nguyện
và hy lễ chúa
Giê-su trên
Thánh giá”.
(Đường Hy Vọng
#349)
“ Dù cô đơn
nơi đèo heo hút
gió, dù tăm tối
trong ngục tù,
con hăy hướng về
các bàn thờ trên
thế giới, nơi
Chúa Giê-su đang
tế lễ; con dâng
lễ và rước lễ
thiêng liêng. An
ủi và can đảm sẽ
tràn ngập ḷng
con”.
(Đường Hy Vọng
#364)
Trong cuốn Chứng
nhân Hy vọng ĐHY
viết :
“
Nơi nào chúng ta
chịu khốn khó,
nơi đó trở thành
chỗ cho chúng ta
cử hành Thánh
Thể. Anh mục Tử
đạo thế kỷ 20
đầy dẫy những
chuyện thống
thiết kể về
những thánh lễ
làm chui trong
các trại tập
trung, v́ không
có Thánh Thể
chúng ta không
thể sống chính
sự sống của
Thiên Chúa. Làm
sao tôi diễn tả
được niềm vui
lớn lao của tôi:
Mỗi ngày với 3
giọt rượu và một
giọt nước trong
ḷng bàn tay,
tôi cử hành
Thánh lễ. Đấy là
bàn thờ của tôi,
là nhà thờ chính
ṭa của tôi!
Thánh lễ là
phương dược chữa
xác cứu hồn, là
thang thuốc
trường sinh bất
tử ”.
Rồi nơi trang
154 :
“
Trong trại
cải tạo, chúng
tôi được chia
thành từng nhóm
50 người. Chúng
tôi ngủ chung
trên một cái
giường thật dài,
mỗi người đưọc
50 centimét. Mỗi
đêm, chúng tôi
thu xếp làm sao
để có 5 người
Công giáo nằm
cạnh tôi. Vào
lúc 9 giờ rưỡi
tối, tất cả
chúng tôi phải
tắt đèn đi ngủ.
Lúc ấy tôi cúi
ḿnh trên giường
để làm lễ thuộc
ḷng, và phân
phát Ḿnh thánh
Chúa bằng cách
luồn tay dưới
mùng muỗi. Chúng
tôi chế cả những
túi giấy nhỏ
bằng bao thưốc
lá, để giữ Ḿnh
thánh và mang
cho người khác.
Tôi luôn mang
Ḿnh Thánh Chúa
trong túi áo
sơ-mi.”
(Chứng nhân Hy
vọng,tr.154-155)
Điểm thứ nhất
này dẫn thẳng
tới khía cạnh
thứ hai nơi ḷng
tôn sùng Thánh
Thể của ĐHY.
Điểm thứ hai:
Phép Thánh Thể
là tâm
điểm và linh hồn
của hoạt động
truyền giáo.
Thật vậy, suốt
những tháng năm
âm thầm lặng lẽ,
ṿ vơ đơn côi,
cách biệt với
mọi việc mục vụ
ngoài đời, Bào
huynh thấu hiểu
được với trọn
thân tâm rằng
chỉ chính Thiên
Chúa mà thôi,
chứ chẳng phải
những việc ḿnh
làm cho Chúa mới
là trung tâm của
đời sống chúng
ta.
Nơi trang 155
sách Chứng Nhân
Hy Vọng, ĐHY
chia sẻ với
chúng ta:
“
Ban đêm, các tù
nhân thay phiên
nhau thờ lạy
Ḿnh thánh. Với
sự hiện diện
lặng lẽ, Chúa
Giêsu Thánh Thể
đă làm nên những
việc kỳ diệu.
Nhiều người Công
giáo đă bắt đầu
trở lại một cách
nhiệt t́nh. Và
xác chứng của họ
về sự yêu thương
và phục vụ đă có
một ảnh hưởng
ngày càng lớn
trên các tù nhân
khác. Ngay cả
những anh em
Phật tử và bên
lương cũng t́m
được đức tin.
Sức mạnh t́nh
yêu của Chúa
Giêsu thật mạnh
mẽ không thể
cưỡng lại. Và
thế là đêm tối
của nhà tù đă
trở thành ánh
sáng Phục sinh,
và hạt giống đă
được gieo vào
ḷng đất trong
băo tố. Nhà tù
trở thành trường
dạy giáo lư. Các
tín hữu rửa tội
cho các bạn đồng
tù và trở thành
những người đỡ
đầu cho họ.”
ĐHY không ngớt
mở miệng ngợi ca
ư Chúa Quan
Pḥng đă khấng
để cho ba bốn
trăm linh mục bị
bắt ở tù tại
nhiều trại giam
rải rác khắp
Bắc, Trung, Nam
từ 1975 đến cuối
thập niên 1990.
Sự có mặt của
các cha đă mở ra
một giai đoạn
mới cho cuộc đối
thoại giáo tế
liên tôn thực sự
đầy ư nghĩa,
cũng như cho
t́nh bằng hữu
thâm giao giữa
hàng vạn tù nhân
vốn là tín đồ
các đạo khác
nhau.
Tiện đây con xin
được kể hầu quư
vị một kinh
nghiệm bi tráng
của ĐHY hồi mới
đi tù. Số là sau
khi bị đày ra
Bắc, Đức Cha
Thuận ở chung
với hàng ngàn tù
cải tạo, chia ra
từng nhóm, mỗi
nhóm mỗi tổ lănh
công việc khác
nhau. Đức Cha
th́ phải lo chùi
rửa nhà cầu,
buồng tắm, chiếu
chăn, theo ư đồ
cách ly hẳn ngài
khỏi các bạn tù
đi lao động
ngoài đồng. Một
hôm, một nhóm tù
nhân từ ngoài
ruộng hớt ha hớt
hăi chạy về trại
cầu cứu với
ngài: một tù
nhân trong cơn
quẫn trí đă lấy
giây điện toan
quấn cổ tự vẫn.
Hay tin ngài
liền quỳ sụp
xuống đất thờ
lạy Ḿnh Thánh
Chúa đang ngự
trong túi áo của
ngài, xin người
tù ấy quay về
với Bánh Sự
Sống, với Chúa
hay thứ tha, với
B́nh an và Yêu
thưong. Cảm động
trước đức tin
mănh liệt như
thế, các bạn tù
khác đă cùng
ngài cầu khẩn.
Rốt cuộc, kẻ
quẫn trí đă thúc
thủ, khóc ̣a,
gục đầu phủ phục
trước t́nh yêu
trao tặng cho
anh.
Mấy năm sau, hễ
có dịp gặp lại
nhau ở
California, hai
kẻ cựu tù - Đức
Cha và anh ta -
buổi hàn huyên
đều khơi lại kỷ
niệm diễm phúc
hôm xưa khi Chúa
Giêsu hiện diện
đă cứu chữa được
một người thoát
khỏi cơn bỉ cực.
Năm sáu năm kể
từ 1975, chúng
con lâm cơn gia
biến: cũng như
ngàn vạn đồng
bào, chúng con
bị mất cửa mất
nhà, mất cả ruột
rà thân thích,
mất công ăn
việc làm, mất
cội nguồn gốc
rễ, nhiều người
phải dài cổ ṃn
mỏi đợi chờ
trong các trại
tỵ nạn trước khi
được chấp nhận
đi định cư ở các
nước thứ ba.
Thế mà nhờ những
bức thư của một
người tù biệt
giam gởi chui ra
ngoài được các
thành viên Hồng
Thập Tự và Ân Xá
Quốc Tế làm ơn
chuyển giúp,
chúng con mới có
thể tự nhắc cho
chính ḿnh nhớ
rằng: trong lúc
dường như chúng
con trắng tay
mất sạch th́ hăy
c̣n một kho báu
bậc nhất cho
không chúng con
mà chẳng đ̣i một
điều kiện nào cả,
kho tàng đó
chính là Chúa
Giêsu trong bí
tích Thánh Thể.
Người tù bị cấm
cố ấy vẫn tiếp
tục đem B́nh An
của Thiên Chúa
đến cho kẻ khác,
bởi v́ từ chốn
ngục trung, nhất
hô nhất hấp,
ngài đều thở hơi
Sự Sống đích
thực.
Tác vụ mà ĐHY
đảm đương ngay
tại Giáo triều
La-mă là Phó Chủ
tịch, rồi Chủ
tịch Hội đồng
Giáo hoàng Công
lư và Ḥa b́nh
càng tăng cường
ư thức cao độ
của ngài về mối
liên hệ mật
thiết giữa bí
tích Thánh Thể
và hoạt động
hoằng tín thừa
sai.
Như lời ngài nói
trong Chương 14
sách Chứng Nhân
Hy Vọng:
“
Sứ vụ của tôi
tại Giáo triều
Rôma nhằm phục
vụ cho công lư
và ḥa b́nh giúp
tôi đặc biệt
nhạy cảm với vấn
đề đó. Cần làm
chứng rằng thân
ḿnh Chúa Kitô
thực là ‘của ăn
để cho thế gian
được sống’”. (Chứng
nhân Hy
vọng,tr.157)
Ngài nói tiếp:
“
Hiện nay,
người ta đang
t́m cách toàn
cầu hóa mọi lănh
vực, nhưng điều
này có nguy cơ
làn cho các vấn
đề thêm trầm
trọng thay v́
giải quyết tốt
đẹp…Thế giới
cũng thiếu một
nguyên tắc hiệp
thông và huynh
đệ đại đồng:
chính Chúa Ki-tô
là Bánh Thánh
thể làm cho
chúng ta nên một
trong Ngài và
dạy chúng ta
sống theo kiểu
mẫu hiệp thông
trong phép Thánh
thể”.
(Chứng nhân Hy
vọng,tr.157)
Khía cạnh này
của hoạt động
truyền giáo liên
kết chặt chẽ với
khía cạnh thứ ba
của ḷng sùng
kính Thánh Thể
mà theo thiển ư
lại là sứ điệp
khẩn cấp gởi đến
tất cả chúng ta
đang lâm cảnh
mất hài ḥa
trong thế giới
nồi da xáo thịt
.
Điểm thứ ba:
Phép Thánh Thể
là phương thế
thực hiện sự
hiệp nhất của
Giáo hội và nhân
loại.
Chúng ta là Một
Thân thể, Một
Máu huyết. Nơi
trang 134 Chứng
nhân Hy vọng,
ĐHY qui tập
chúng về với đức
tin:
“
Chúa Giêsu
làm cho chúng ta
trở thành Hội
thánh của Ngài.
Chúng ta là một;
sự hiệp nhất này
được thể hiện
trong việc tham
dự Thánh Thể.
Phép Thánh Thể
tạo nên hiệp
nhất, t́nh huynh
đệ giúp ta sống
hiệp nhất. Trong
sự hiệp nhất ấy,
Chúa Ky-tô nắm
giữ vận mạng
loài người và
đưa họ đến cứu
cánh chân thật:
Thiên Chúa là
Cha và mọi người
là anh em ”.
Nơi trang
158-159, ngài
tiếp tục khuyến
khích chúng ta
trung thành với
đức tin của
ḿnh:
“
Chúa Giêsu,
Bánh Sự Sống,
thúc đẩy chúng
ta mang lại thực
phẩm mà nhiều
người vẫn cần
đến: bánh Công
lư và Ḥa b́nh,
ở những nơi
chiến tranh đang
đè nặng và không
có sự tôn trọng
các quyền của
con người, của
gia đ́nh, của
các dân tộc;
bánh Tự do đích
thực, tại những
nơi không có tự
do tôn giáo đích
thực để tuyên
xưng công khai
tín ngưỡng của
ḿnh; bánh Huynh
đệ tại những nơi
không nh́n nhận
và thực thi ư
thức hiệp thông
đại đồng trong
ḥa b́nh và ḥa
hợp; bánh hiệp
nhất giữa các
Kitô hữu, vẫn
c̣n chia rẽ
nhau, trên đường
cùng chia sẻ một
tấm bánh và một
chén rượu”.
(Chứng nhân Hy
vọng,tr.158-159)
Con c̣n nhớ rơ
mồn một, như thể
chuyện mới xảy
ra hôm qua thôi,
những thánh lễ
mà chúng con
được tham dự cử
hành trong các
bệnh viện ngài
nằm. Chúng con
mỗi người từ mỗi
phương trời mà
đến, tới nơi vào
những thời khắc
khác nhau, trọ
lại Rôma không
cùng một địa
điểm, thế mà ĐHY
lần nào cũng chu
đáo sắp xếp giờ
giấc thuận tiện
sao cho hầu hết
mọi người tề tựu
tham dự Thánh lễ,
thậm chí dù đă
về khuya là lúc
mà ngài mệt mỏi
nhất.
Con c̣n nhớ măi
một tối tháng
Sáu, chúng con
quây quần bên
ĐHY trong căn
pḥng nhỏ của
ngài ở bệnh viện
Gemelli, Rôma.
Sợ rằng đông
người chen chúc,
không khí ngột
ngạt ẩm thấp sẽ
làm cho ĐHY ngộp
thở, Chị Anne
bèn nẩy ư là mọi
người nên ra
ngoài hành lang
và lan can quay
mặt vào trong
pḥng mà dự lễ,
thế nhưng ĐHY
lạI mỉm cười,
năn nỉ mọi người
cứ việc tập
trung trong
pḥng chung
quanh giường của
ngài. Ngài c̣n
giảng cho chúng
con nghe một bài
về sự hiệp nhất
được thực hiện
bởi phép Thánh
Thể. Đức tin
kiên cường bất
khuất của ngài
làm cho con xúc
động đến nỗi đêm
ấy sau lễ con
lật sách Chứng
nhân Hy vọng mà
đọc lại Chương
14.
Mấy câu sau đây
vẫn canh cánh
bên ḷng con:
“
Tôi mơ ước
Ṭa Thánh, cùng
với tất cả các
cơ quan của
ḿnh, như một
bánh thánh lớn,
một chiếc bánh
duy nhất được
dâng hiến trong
hy tế thiêng
liêng, giữa ḷng
Giáo hội như một
nhà Tiệc ly rộng
lớn, cùng với
Đức Maria, Mẹ
của Thân ḿnh
Chúa Ky-tô, và
cùng với Phêrô
người thi hành
sứ vụ hiệp nhất
phục vụ tất cả.
Và tất cả chúng
ta cùng với họ,
như những hạt
lúa,chấp nhận bị
nghiền nát bởi
những đ̣i hỏi
của tính hiệp
thông, để họp
thành một thân
ḿnh duy nhất,
hoàn toàn liên
đới và hoàn toàn
trao tặng, như
bánh sự sống cho
thế giới, như
một dấu chỉ hy
vọng cho nhân loại.”
(Chứng nhân Hy
vọng,tr.159)
Lúc ấy con chợt
vỡ lẽ hiểu ra
rằng trước đây
ngài chấp nhận
những tháng năm
lao tù thế nào
th́ nay cũng vậy
ngài đón nhận
cảnh bệnh hoạn
tử vong như là
thành phần tạo
nên sự Hiệp nhất
Thánh Thể. Sự có
mặt của chết
chóc và khổ đau
trong thế giới
mang nhiều ư
nghĩa hơn đối
với con: sự hiện
diện ấy đem lại
cho tất cả chúng
ta biết bao là
ân sủng và ủi
an.
Tại bệnh viện
Casa di Curia,
nơi ngài trút
hơi thở cuối
cùng, chúng con
mới thấm ư ĐHY
khi ngài viết :
“
Mỗi lần dâng
Thánh lễ là mỗi
lần tôi được dịp
giang tay đóng
đanh chính ḿnh
vào Thập giá với
Chúa Giêsu, cùng
cạn chén đắng
với Ngài “.
Gia
đ́nh con và bản
thân con sẽ
không bao giờ
quên được cái
cách ngài ôm lấy
chúng con khi
chúng con trao
cho nhau dấu
hiệu chúc b́nh
an.
HỘP KẸO
Hộp kẹo này con
mang theo tới
đây là để chia
sẻ với quư vị về
khía cạnh cuối
cùng của ḷng
sùng mộ của ĐHY
với phép Thánh
Thể: đối với gia
đ́nh con, hộp
kẹo này măi măi
là di
vật làm chứng
vững chắc cho
niềm tin của
ĐHY vào Phép lạ
Chúa thương ban
cho từng người
chúng ta mỗi lần
chúng ta cử hành
hy tế của Chúa
Giêsu.
Khi Chị Anne ra
Phi trường Quốc
tế Vọng Các đón
Đức Cha bay từ
Việt Nam qua sau
khi ngài được
tháo cũi sổ lồng,
cũng là lúc bắt
đầu cuộc sống
lưu vong, ngài
nói với chị :
“
Anh không có vật
ǵ đáng giá về
mặt thế gian để
làm quà cho Cha
Mẹ và các em cả.
Anh vỏn vẹn chỉ
có một tấm vé
một chiều đi Úc,
không tiền không
bạc, chỉ mỗi một
bộ quần áo trên
người, mà lại là
đồ người ta biếu,
nhưng anh có một
vật của Trời cho
xin tặng cả nhà.”
Chị Anne không
thốt nên lời,
lẳng lặng nghe
ngài giải thích.
Th́ ra hộp kẹo
này chính là vật
mà trong tù ngài
đă dùng để đựng
đồ lễ: khăn lau,
chiếc th́a để
múc những giọt
rượu quư báu và
cái túi đựng
Ḿnh thánh Chúa.
Hộp kẹo ấy đă
chứng kiến Đất
với Trời se chữ
đồng.
Cố Bào huynh
thường ví sự
hiện diện của
Chúa Giêsu trong
phép Thánh Thể
với khung cửa sổ
pha lê huy hoàng
qua đó Đức Chúa
Cha vươn xuống
tới tận loài
người. Nơi
Chương # 363,
Ngài quả quyết
lần nữa:
“
Dù thiếu
tất cả, dù mất
tất cả, nhưng
c̣n Thánh thể là
c̣n tất cả v́
con có Chúa
Thiên đàng dưới
đất.”
(Đường
Hy Vọng #363)
Để kết thúc dăm
mối suy tư này,
con xin trích
dẫn những ư nghĩ
đơn sơ thơ dại
được ngài ghi
lại vào dịp lễ
Rất Thánh Mân
Côi, tháng Mười
năm 1976, khi
mới bị biệt giam
trong trại tù
tỉnh Phú Khánh.
“
Con thấy hạnh
phúc trong buồng
giam này, nơi
nấm trắng mọc
đầy lên manh
chiếu con nằm,
v́ có Chúa ở
cùng con nơi
đây, v́ Chúa
muốn con sống
chỗ này với
Chúa. Đời con
lâu nay nói
nhiều, giờ đây
con không c̣n
nói nữa. Đến
lượt Chúa nói
với con, lạy
Chúa Giêsu, con
đang lắng nghe
tiếng Chúa."
Mỗi
lần đọc đến câu
này, con cứ h́nh
dung ra cảnh anh
con ngồi một
ḿnh một bóng
đối diện với
trùng trùng hư
không trong
buồng giam tối
tăm mù mịt, mà
môi cứ khẽ mỉm
cười như xưa nay
vẫn thế, ngay cả
vào những ngày
cuối đời, c̣n
tay ngài th́ cứ
nắm chặt bâu áo
tù nơi có Chúa
cả Trời đất náu
nương.
Ước chi Đức Cố
Hồng Y – là
người trước đây
một thời thân
tại ngục mà tâm
lại cảm nghiệm
được ḥa điệu
của lồng lộng
Trời cao trong
quạnh quẽ cô
liêu của buồng
giam tù túng -
tiếp tục dẫn
đường chỉ lối
cho chúng ta, để
chúng ta có thể
lắng nghe chăm
chú hơn tiếng
Chúa Giêsu, để
chúng ta biết sử
dụng toàn tâm
toàn trí, dốc
toàn lực cho
Triều đại Thánh
Thể vinh thắng
khải hoàn.
Con xin hết
ḷng cám ơn quư
vị quư bạn đă
cho con được
cùng đi trên
cuộc lữ hành Đức
Tin này. Đa tạ,
ELIZABETH
NGUYEN,
Hiền muội của
Đức HY Phanxico