|
Ăn Năn Hoán Cải
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 495 Thứ Sáu
5/3/2010
“ăn năn hoán cải”: lời rao giảng tiên khởi
Tất cả Phúc Âm và sứ vụ của Chúa Kitô có thể được tóm trong lời rao
giảng tiên khởi của Người, được Thánh Kư Marcô nhắc lại ở đoạn 1 câu 15
như sau: “Thời gian đă viên trọn. Triều đại của Thiên Chúa gần đến.
Hăy ăn năn hoán cải và tin vào Phúc Âm”. “Thời gian đă viên trọn” ở
đây có nghĩa là ǵ? Nếu hiểu theo chiều hướng của toàn bộ của lời rao
giảng tiên khởi này của Chúa Kitô, chính là thời điểm Thiên Chúa muốn
cứu chuộc nhân loại nói chung cho khỏi tội lỗi và sự chết đă điểm, thời
điểm Ngài thực hiện lời Ngài tự động hứa với hai nguyên tổ loài người
sau nguyên tội.
Vậy Ngài thực hiện việc cứu độ này như thế nào? Ngài thực hiện bằng cách
sai Con Ngài đến với loài người, Đấng là tất cả mạc khải của Ngài, là
tột đỉnh của những ǵ Ngài đă mạc khải trong Cựu Ước, bởi thế, một khi
Con Ngài đă nhập thể, nhất là đă công khai xuất hiện đặc biệt kể từ lúc
Người loan báo lời rao giảng tiên khởi này, là lúc “Triều Đại của Thiên
Chúa gần đến”, và Triều Đại này vĩnh viễn sẽ đến nơi Cuộc Vượt Qua của
Chúa Kitô sau đó ba năm. Thế nhưng, về phần con người là thành phần được
cứu độ, muốn nghênh đón triều đại “gần đến” này của Thiên Chúa, tức để
có thể chấp nhận một Chúa Kitô Tử Giá và Phục Sinh là Đấng chẳng những
chiến thắng tội lỗi và sự chết cho con người, mà c̣n là Đấng thông ban
cho con người sự sống thần linh viên măn hơn, họ cần phải hội đủ hai
điều kiện bất khả thiếu và bất khả phân ly, đó là “ăn năn hoán cải và
tin vào Phúc Âm”.
“Phúc Âm” đây không phải chỉ là những cuốn sách được các vị Thánh Kư
viết ra và được Giáo Hội công nhận, thậm chí cũng không phải chỉ là
những ǵ được chất chứa nơi 4 cuốn Sách Phúc Âm liên quan tới lời nói và
việc làm của Chúa Kitô, hơn là chính bản thân Chúa Kitô. Bởi thế, “tin
vào Phúc Âm” đây nghĩa là “tin vào Chúa Kitô”, là chấp nhận Chúa Kitô,
chứ không phải chỉ chấp nhận hay chỉ tuân theo một lời nào đó hay một
việc nào đó hoặc một phần nào đó của Người trong Phúc Âm, mà là chấp
nhận và tuân theo chính Chúa Kitô là tất cả mạc khải thần linh của Thiên
Chúa.
Tuy nhiên, để có thể chấp nhận Chúa Kitô là Phúc Âm của Thiên Chúa, là
tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, con người cần phải “ăn năn
hoán cải”, bằng không, họ chắc chắn không thể nào nhận ra Người, như
trường hợp của thành phần Pharisiêu hay hội đồng đầu mục Do Thái bấy giờ,
trong khi rất muốn biết Người là ai th́ lại quay ra chết trong tội lỗi
của họ là ra tay sát hại Người khi Người tỏ cho họ biết về Người (xem Jn
8:21; Mt 26:63-66), thậm chí con người c̣n có thể biến Người thành một
“Kitô giả” nữa là đằng khác, như trường hợp của vị thủ lănh tông đồ đoàn
Phêrô, vị đă trở thành “Satan” khi vừa được Thày lần đầu tiên tỏ cho
biết về cuộc Vượt Qua của Người (xem Mt 16:23), đă ân cần can ngăn Người
theo chiều hướng nhân loại và tâm thức tự nhiên trần tục. Vấn đề được
đặt ra ở đây là nếu việc “ăn năn hoán cải” cần phải có để có thể “tin
vào Phúc Âm”, th́ đâu là lư do sâu xa thiết yếu của việc “ăn năn hoán
cải” và đâu là cách thức “ăn năn hoán cải” cho có hiệu lực để nhờ đó có
thể “tin vào Phúc Âm”? Hy vọng chủ đề “ăn năn hoán cải” của Tin Mừng Sự
Sống hôm nay sẽ giải đáp một phần nào vấn nạn thiết yếu liên quan đến
phần rỗi này của mỗi người chúng ta!
“ăn năn hoán cải”: nguyên nhân sâu xa
Để có thể biết được nguyên nhân sâu xa tại sao con người nói chung, thậm
chí Kitô hữu chúng ta nói riêng, cần phải “ăn năn hoán cải” để có thể
“tin vào Phúc Âm”, chúng ta cần phải trở về nguồn để thấy được ư nghĩa
chính yếu của việc “hoán cải”. Nói chung, “hoán cải” nghĩa là cải tà qui
chính, bỏ những ǵ xấu xa tội lỗi mà quay về với những ǵ là thiện hảo
tốt lành. Theo Kitô giáo, “hoán cải” là trở về cùng Chúa, như đứa con
phung phá trở về cùng cha của ḿnh được thuật lại trong Phúc Âm Thánh
Luca đoạn 15. Thật vậy, ngay từ ban đầu, con người đă tự động đi hoang
sau khi được Thiên Chúa dựng nên theo h́nh ảnh Ngài, hoàn toàn vô tội,
“trần truồng không biết xấu hổ” (Gen 2:25). Ở chỗ, họ đă phạm đến những
ǵ Thiên Chúa ngăn cấm, đó là ăn trái cây biết lành biết dữ ở giữa vườn,
những ǵ Ngài đă cảnh báo cho họ biết rằng “lúc nào ngươi ăn nó ngươi sẽ
phải chết” (Gen 2:17).
Thế nhưng, cái con người tạo vật phạm đến Thiên Chúa đây không phải chỉ
là hành động phạm pháp, hành động sai trái của ḿnh theo ư riêng bất
tuân ư Chúa, mà nhất là thái độ phản ảnh nội tâm của họ tỏ ra không tin
tưởng vào Chúa là Đấng vô cùng chân thật và thiện hảo cho bằng tin tưởng
ma quỉ là tên dối trá điêu ngoa hết sức gian manh xảo quyệt. Ở chỗ họ
bất chấp những ǵ Thiên Chúa Hóa Công vô cùng yêu thương và khôn ngoan
của họ cảnh báo họ, để rồi ngoan ngoăn nghe theo lời xuí giục đầy ghen
hờn chết chóc của rắn quỉ, tức họ đă mặc nhiên coi ma quỉ hơn Thiên Chúa,
khiến ma quỉ nghiễâm nhiên trở thành cha của họ (xem Jn 8:44), cho đến
khi như Evà họ nhận ra rằng “con rắn đă đánh lừa tôi” (Gen 3:13), th́ đă
muộn.
Đúng thế, cái then chốt của việc “hoán cải” ở đây là câu tự thú của nữ
nguyên tổ Evà: “con rắn đă lừa tôi”. Chính v́ thế, chính v́ con người đă
bỏ Chúa mà theo ma quỉ mà để tỏ ḷng “hoán cải”, trong nghi thức rửa tội
của Giáo Hội Công Giáo, trước khi được thanh tẩy, một tác động tỏ ra
“tin vào Phúc Âm”, người dự ṭng đă phải công khai tuyên xưng từ bỏ ma
quỉ và những việc làm của ma quỉ “là cha sự dối trá” (Jn 8:44). Đúng thế,
việc lănh nhận phép rửa là tác động cho thấy người dự ṭng trưởng thành,
về mặt tiêu cực, họ chẳng những “ăn năn hoán cải”, ở chỗ từ bỏ ma quỉ
cùng các việc làm của ma quỉ, về mặt tích cực, họ c̣n “tin vào Phúc Âm”,
khi họ, cũng qua nghi thức rửa tội, tuyên xưng, theo ư của Kinh Tin Kính,
Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần cùng với tất cả những ǵ Ba Ngôi
làm cho họ là tạo dựng họ, cứu chuộc họ và thánh hóa họ.
Tuy nhiên, trên thực tế, không biết có ai sau khi lănh nhận Phép Rửa đă
hoàn toàn và tuyệt đối trung thành với lời hứa rửa tội về cả phương diện
tiêu cực là liên lỉ “ăn năn hoán cải” trong việc từ bỏ ma quỉ cùng những
việc làm của ma quỉ, lẫn tích cực là tin tưởng và kính mến Thiên Chúa
hết ḷng, hết linh hồn và hết sức ḿnh này hay chăng? Đó là lư do cuộc
sống Kitô hữu là một cuộc hành tŕnh đức tin hướng về Chúa và trở về với
Chúa cho tới cùng. Bởi v́, Bí Tích Rửa Tội, theo Giáo Lư Giáo Hội Công
Giáo, về phương diện tiêu cực, chỉ có tác dụng tha nguyên tội và tư tội
nếu có cùng với các h́nh phạt do tội gây ra mà thôi, tức là nếu chết
ngay sau khi rửa tội th́ người tân ṭng được về trời lập tức, không phải
qua luyện tội, nhưng Phép Rửa vẫn không giải thoát con người được trở
thành con cái Thiên Chúa ấy, được thông phần bản tính thần linh ấy, nhờ
đó được sống sự sống thần linh với Thiên Chúa ấy, khỏi các mầm mống của
nguyên tội là đam mê nhục dục và các tính mê nết xấu, cũng như khỏi mọi
đau khổ và chết chóc là hậu quả của nguyên tội.
Đó là lư do Kitô hữu, cho dù đă được thánh hóa nhờ Phép Rửa và được
Thiên Chúa ở cùng, cũng vẫn phải chiến đấu cho tới hơi thở sau hết, và
nơi Kitô hữu một trận chiến thiêng liêng liên lỉ đầy quyết liệt diễn ra
giữa Ơn Thánh Chúa và tà thần sự dữ, đến nỗi, nếu họ không “tỉnh thức và
cầu nguyện” (Mt 26:41), chắc chắn họ sẽ bị “sa chước cám dỗ”, sẽ như các
tông đồ bỏ chạy khi thấy Thày ḿnh bị bắt trong Vườn Cây Dầu (xem Mk
14:50), hay sẽ như vị trưởng tông đồ đoàn Phêrô trắng trợn chối Thày khi
bị điểm mặt (xem Mk 14:66-72).
“ăn năn hoán cải” - có nghĩa là
Căn cứ vào cơ cấu của đời sống siêu nhiên nơi Kitô hữu sau khi họ lănh
nhận Phép Rửa, một cơ cấu bao gồm chẳng những Thánh Sủng mà c̣n cả ba
thần đức Tin, Cậy, Mến là các tài năng siêu nhiên để giúp họ sống sự
sống thần linh với tư cách là con cái của Thiên Chúa, th́ việc “ăn năn
hoán cải và tin vào Phúc Âm” của họ có nghĩa là, trước hết, họ phải “ăn
năn hoán cải”, ở chỗ, làm sao để con người họ nói chung và linh hồn họ
nói riêng trở thành một mảnh đất tốt, một mảnh đất cho dù có c̣n mầm
mống cỏ dại là đam mê nhục dục và tính mê nết xấu chúng cũng không thể
nào nhú lên được, không c̣n tác dụng nào, đến độ chúng có thể làm chết
nghẹt được hạt giống thần linh là Thánh Sủng, trái lại, thay vào đó, họ
phải “tin vào Phúc Âm”, ở chỗ, chuyên chăm vun trồng đủ mọi loại hoa
thơm nhân đức và nhất là những cây ăn trái Tin Cậy Mến, nhờ đó, Thánh
Sủng ban đầu như một hạt cải nhỏ bé nhất mới có thể từ từ mọc lên thành
một cây thánh đức vĩ đại (xem Mt 13:32), đến độ trở thành tổ nương náu
cho chim trời là các linh hồn cần được cứu rỗi, nhờ đời sống nội tâm
chứng nhân của họ.
Tâm hồn Kitô hữu nào có một đời sống Thánh Sủng dồi dào và mănh liệt đến
độ có thể làm cho thế gian nhận biết Chúa Kitô “là Đường, là Sự Thật và
là Sự Sống” (Jn 14:6) mà trở về với Người, th́ quả thực họ là một cành
nho dính liền với thân nho là Chúa Kitô nhờ đó đă sinh muôn vàn hoa trái
bởi nhựa sống thần linh xuất phát từ chính Chúa Kitô là thân nho (xem Jn
15:5), Đấng “đă đến cho chiên được sự sống và là một sự sống dồi dào
viên măn” (Jn 10:10). Nơi những tâm hồn Kitô hữu này, Triều Đại Thiên
Chúa quả thực đă đến, ở chỗ Chúa Kitô thực sự chẳng những đang sống động
trong họ mà c̣n làm chủ họ, biến họ trở thành thừa tác viên t́nh thương
của Người, Đấng suy nghĩ bằng trí khôn của họ, yêu thương bằng con tim
của họ, phục vụ bằng đôi tay của họ, nói năng bằng môi miệng của họ, và
thương cảm bằng ánh mắt của họ. Tiến tŕnh “hoán cải” của Kitô hữu lên
đến tột đỉnh khi họ có sức làm cho người khác “hoán cải”, nhận biết và
yêu mến Chúa Kitô là Vị Cứu Tinh duy nhất của nhân loại.
Lịch sử thế giới hiển nhiên cho thấy Kitô giáo nói chung và Giáo Hội
Công giáo nói riêng chẳng khác nào như một hạt cải nhỏ bé nhất, xét về
cả địa dư liên quan tới lănh thổ của Quốc Đô Vatican trên bản đồ thế
giới hiện nay, lẫn nguồn gốc sinh sau đẻ muộn của ḿnh, so với các tôn
giáo lớn khác có trước đó ít là 500 năm, chẳng hạn Ấn giáo và Phật giáo
ở Ấn Độ, hay Khổng giáo và Lăo giáo ở Trung Hoa. Một điều lạ lùng nơi
Kitô giáo, so với các đạo giáo lớn trước ḿnh, đó là Kitô giáo trở thành
một thứ đạo “công giáo” (universal), một đạo giáo “cho” chung mọi người
trên thế giới này, một đạo nhờ đó là “của” mọi người ở khắp nơi, chứ
không phải cho riêng hay của riêng một dân tộc hay một vùng nào trên thế
giới như các đạo vừa kể, thậm chí như Hồi giáo có sau Kitô giáo, hay Do
Thái giáo có trước ḿnh.
C̣n lạ lùng hơn nữa đó là sự kiện Kitô giáo trong suốt gịng lịch sử của
ḿnh, ở mọi thời và hết mọi nơi, hầu như liên tục bị bắt bớ và sát hại;
thậm chí cho tới thời điểm ngày nay, khi mà con người đă đạt tới tột
đỉnh văn minh về nhân bản và nhân quyền của ḿnh, qua bản Tuyên Ngôn
Chung về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948, Kitô giáo vẫn tiếp tục
bị bách hại và sát hại tại các vùng có các đạo giáo khác, như Ấn giáo và
nhất là Hồi giáo; thế mà, Kitô giáo chẳng những không bị tiêu diệt mà
c̣n càng ngày càng phát triển hơn bao giờ hết, nhất là Giáo Hội Công
giáo càng có một thế lực quốc tế mạnh mẽ hơn bất cứ một đạo giáo nào,
qua vai tṛ Giáo Chủ của ḿnh là Đức Giáo Hoàng Rôma, vị được cả thế
giới ngưỡng phục và thường được thành phần lănh đạo các quốc gia và quốc
tế đến tham vấn, đến độ giáo huấn Công giáo nói chung và Giáo hoàng nói
riêng có thể được coi là lương tâm chung của nhân loại.
Phải chăng đó là lư do, chỉ ở trong Giáo Hội Công giáo mới có những từ
ngữ “bỏ đạo” và “trở lại đạo”? V́ “đạo” đây chính là Chúa Kitô, Đấng đă
phán “Thày là Đường” (Jn 14:6), “là Đạo Lộ” cũng là Đấng sáng lập Kitô
giáo và thiết lập Giáo Hội Công giáo. Nên “trở lại đạo” tức là “trở về
cùng Chúa Kitô” nơi Giáo Hội Công giáo, và “bỏ đạo” là “bỏ Chúa Kitô”,
bỏ Giáo Hội Công giáo. Theo Công Đồng Chung Vaticanô II
(11/10/1962-8/12/1965), cho dù minh nhiên công nhận nơi loài người nói
chung và các đạo giáo nói riêng đều có mầm mống chân lư cứu rỗi, Giáo
Hội Công giáo vẫn không phủ nhận chủ trương “ngoài Giáo Hội không có ơn
cứu độ”, trái lại, vẫn tiếp tục khẳng định vai tṛ là bí tích và là
phương tiện cứu độ bất khả thiếu của ḿnh cho phần rỗi của nhân loại:
“Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mk 16:16).
“ăn năn hoán cải” - Bàng Hoàng Trước Sự Thật
Nếu đối với Kitô hữu, “hoán cải” là tiến tŕnh tu đức trong việc họ liên
lỉ cởi bỏ con người cũ của ḿnh mang đầy mầm mống nguyên tội cho đến khi
họ được hoàn toàn và trọn vẹn mặc lấy Con Người Mới là tất cả Chúa Kitô
trọn hảo (xem Eph 4:13,15); trong số
những trường hợp “hoán cải” đặc biệt của thành phần này
phải kể
đến trường hợp của Thánh Mai Đệ Liên trong Phúc Âm, Thánh Phaolô thời
các
Tông Đồ,
Thánh Âu Quốc Tinh thời các Giáo Phụ và Thánh Margarita thành Cortona ở
Ư Thời Trung Cổ,
th́ “hoán cải” nơi thành phần Dân Ngoại hay thuộc các đạo giáo khác
ngoài Kitô giáo, hay thành phần thuộc các Giáo Hội hay giáo phái Kitô
giáo chưa hoàn toàn hiệp nhất với Giáo Hội Công giáo, đó là tác động
“trở về” cùng Chúa Kitô, Đấng đă đến để t́m kiếm từng con chiên lạc (xem
Lk 15:4), cho đến khi “chỉ có một đàn chiên theo một chủ chiên” (Jn
10:16).
Trong số
những trường hợp trở về với Giáo Hội Công giáo này,
như bộ ba cuốn “Bàng Hoàng Trước Sự
Thật - Surprised by Truth”, xuất bản năm 1994 (tập 1), năm 2000 (tập
2) và năm 2002 (tập 3), một bộ sách được hiệu đính bởi Patrick Madrid,
độc giả thấy được những cuộc hoán cải trở về đầy gay go gai góc lẫn
huyết lệ tử đạo: “gay go gai góc” ở chỗ chính bản thân người trở về phải
tự động âm thầm đi t́m hiểu chân lư mà họ cảm thấy họ dường như đang bị
lầm lạc, và giảng dạy sai lạc, và “huyết lệ tử đạo” ở chỗ, một khi đă
t́m thấy chân lư rồi, họ c̣n phải cương quyết trở về với chân lư, phải
trung thành với sự thật giải thoát bằng bất cứ giá nào và cách nào, cho
dù có phải hy sinh đến tận cùng, phải từ bỏ tất cả những ǵ là thân yêu
nhất của ḿnh, bao gồm
những
người thân yêu ruột thịt cùng bạn bè thân nghĩa, thậm chí bị những người
thân yêu thân nghĩa này ghét bỏ, kể cả nghề nghiệp kèm theo thế giá làm
pastor có lợi tức để sinh sống cho gia đ́nh của ḿnh nữa.
Sau đây
là một câu truyện có thật, đó là trường hợp của một vị linh mục, từ
ngoại giáo trở lại Kitô giáo, do chính đương sự thuật lại, dưới nhan đề
“Cuộc Hành Tŕnh của Đời Tôi”. Tác giả của bài viết này là Giáo sư
Triết học của Viện Đại Học Sài G̣n, Việt nam. Ngài là hậu duệ của các
Vua Triều Minh Mạng, Tự Đức. Dưới những triều đại này, Giáo Hội Công
giáo đă bị cấm cách và sát hại gắt gao vào khoảng thế kỷ 19. Ngài là Cha
Bửu Dưỡng, một Linh mục Ḍng Đaminh. Ngài là nguyên Phó Giám tỉnh của
Ḍng và là Chủ tịch của Tổ chức các Ḍng tu tại Việt nam. Bài này được
ngài viết trong chuyến du hành sang Pháp trên tàu André Lebon vào năm
1935, bảy năm sau ngày ngài Rửa tội theo Giáo Hội Công giáo và năm năm
trước ngày ngài được phong chức Linh mục. Ngài sang Pháp du học và lănh
nhận Thánh chức Linh mục.
Có những khoảng thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như
tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng này
kéo dài trong suốt ba năm liền.
Những loại tâm trạng tương tự như thế từ buổi thiếu thời khi c̣n học tại
trung học lại trở lại trong trí tôi: Những lần tôi không giải trí chung
với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều
trống rỗng sau khi nghe vài bản nhạc buồn, sau khi vẽ một vài nét trên
tấm vải mới căng cho bức tranh lạ. Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến
việc tự hỏi: "Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo
hay không?".
Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng! Không bao giờ!
Không bao giờ! Dù nó đúng, nó thật, nó hay...nhưng "ta về ta tắm ao ta,
dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn". Thật ra sự bướng bỉnh đă làm tôi hóa ra
ngu đần: Câu tục ngữ trên áp dụng vào vấn đề tôn giáo không đem lại một
ư nghĩa nào cả.
Trong khi coi Kitô giáo như một tôn giáo của ngoại bang, tôi không để ư
đến những vấn đề khác như Đức Phật của Phật giáo là người Ấn Độ, Đức
Khổng Tử là người Trung Hoa và nhất là Chúa Giêsu mặc dù không phải là
người Âu Châu nhưng Ngài được các quốc gia trong lục địa này tôn thờ. Họ
tôn thờ không phải Ngài là người này hay người kia, nhưng chỉ v́ họ tin
Ngài là Chúa và họ tôn thờ Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Chúa của tất cả các quốc gia dân tộc, không dành riêng cho
một quốc gia dân tộc riêng rẽ nào. Khi Ngài đến trần gian mặc lấy xác
phàm, Ngài đă được sinh ra trong dân tộc Do Thái. Dân tộc Do Thái này v́
thế đă được gọi là dân được tuyển chọn. Họ tôn thờ Thiên Chúa của họ, họ
đă không bị chi phối bởi các nguồn đức tin khác từ Ấn Độ, từ Trung Hoa,
từ Hy Lạp hay Rôma, mặc dù các quốc gia này đă có những nền văn minh tân
tiến hơn so với họ.
Dân tộc Do Thái qua thời gian vẫn trung thành với Đấng Sáng tạo, dĩ
nhiên cũng có những trường hợp riêng lẻ cá nhân chạy theo niềm tin này
khác, nhưng cách chung họ coi việc thờ phượng Thiên Chúa như một điều
bắt buộc trong đời sống. Có lẽ đây chính là lư do tại sao Thiên Chúa đă
tuyển chọn dân tộc này làm dân riêng của Ngài. C̣n biết bao nhiêu những
điều bí ẩn khác tôi chưa hiểu thấu.
Chúa Kitô chính là Chúa của tất cả. Mọi người có nhiệm vụ phải tôn thờ
Ngài, yêu mến Ngài, phục vụ Ngài, tuân giữ các giới răn của Ngài và vâng
lời Ngài.
C̣n đối với con người, bất cứ ai ở bất cứ đâu đều có thể đưa ra một
triết thuyết nào đó rồi chỉ dạy, hướng dẫn người khác và tin rằng điều
đó có ích lợi cho nhân loại. Những người như thế, họ hy vọng sẽ đưa đến
hạnh phúc cho con người. Về phía chúng ta, chúng ta nên kính trọng họ,
không nên nh́n vào họ trong khía cạnh con người với những lầm lỗi và yếu
đuối, chấp nhận những điểm tốt, hữu ích, đừng theo những điểm xấu, sai
lầm, tránh những cố chấp và bần tiện. Trí óc con người không phải là ơn
mạc khải, cũng không phải là ánh sáng của giáo huấn của Giáo Hội, nó chỉ
là một mớ kiến thức được suy đi luận lại, thế mà nó muốn diễn tả những
bí nhiệm của vũ trụ, nó muốn giải quyết vấn đề sinh tử. Làm sao tránh
được những sai lầm phải có?
Chúng ta không đề cập đến những người tự ái, ham danh vọng, cố chấp
trong những sai lầm của họ để rồi khư khư nắm giữ những tà thuyết gây
thiệt hại cho nhân loại. Chúng ta chỉ nói đến những vĩ nhân, những triết
gia, những người khôn ngoan, những người đă sống trong những thời đại và
v́ hoàn cảnh chưa bao giờ họ được nghe nói tới một tôn giáo thật, họ
không thể thay đổi để tiến đến một niềm tin thật. Đó không phải lỗi của
họ. Họ là những anh hùng, đời sống đầy nhân đức có khả năng siêu phàm
trong nhiều lănh vực. Họ là những người đáng kính, nhưng chúng ta không
thể đưa niềm kính trọng đó trở thành một nghi lễ thờ phượng, coi họ như
thần thánh, đồng hóa họ với thần linh và Thiên Chúa đấng sáng tạo vũ trụ.
Chúng ta phải ư thức, phải nh́n vào trật tự của vũ trụ và nhân loại,
chúng ta phải phân biệt Đấng Toàn năng và con người, Đấng Sáng tạo và
loài thụ tạo.
Ngay cả những vĩ nhân danh tiếng như Socrates, Plato, Aristotle của Hy
Lạp, Khổng Tử của Trung Hoa hay vị ẩn sư đă thành Phật tại Ấn Độ. Tất cả
những Vị này đều cho biết rằng họ là con người đang đi t́m hiểu, học hỏi
và sống những nhân đức để đạt đến cứu cánh của đời sống con người. Đức
Khổng Tử đă nói: "Không phải ta sinh ra đă hiểu biết, nhưng như những
người khôn ngoan và thánh thiện khác, ta đă bắt đầu học hỏi, nhận thức
không ngừng, đó là tất cả những ǵ ta có thể nói với các con."...
Chính Đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Mouni) sau khi đă được kính trọng như
Đức Phật, Ngài đă nói: "Tất cả mọi người đều có khả năng thành Phật".
Như thế, tất cả chúng ta đều có thể thành Phật với điều kiện phải sống
đời sống từ bỏ một cách thật sự những ước muốn riêng tư và tách ḿnh ra
khỏi thế gian tục lụy. Và một ngày nào đó, chúng ta sẽ đạt được trạng
thái vô vi thoát tục. Nói một cách khác, sẽ được "giải thoát", có nghĩa
là thành Phật. Phật, như thế chính là con người sau khi sống một đời
sống nhân đức toàn vẹn đă được giải thoát. Họ không phải là thần linh.
Với những người này chúng ta phải tôn kính, sự thờ phượng chỉ dành cho
một ḿnh Thiên Chúa mà thôi, Đấng đă dựng nên và yêu thương chúng ta.
Nếu chúng ta không biết Ngài, không biết giáo huấn của Ngài, chúng ta
phải đi t́m, phải học hỏi đế biết Ngài. Nếu chúng ta thờ ơ, chúng ta sẽ
giống như những đứa con rơi không biết cha mẹ ḿnh là ai. Một cách sống
thờ ơ như thế sẽ đưa đến tội lỗi và là dấu chỉ của sự vô ơn.
Những điều này dù sao tôi cũng chỉ mới nghĩ đến trong những năm gần đây.
Trước kia, sự thù oán và những tư tưởng vô lư khiến tôi mù ḷa không
nh́n thấy, không chấp nhận Kitô giáo. Tệ hại hơn nữa, nó c̣n lấn át đi
cả tiếng gọi nội tâm không ngừng kêu mời tôi đến học hỏi, t́m ṭi về
chân lư thật sự ấy.
Đọc lại những ḍng tư tưởng trên, tôi mỉm cười tự hỏi sao một người đă
là tôi lại có thể viết được những điều này...Thật vậy! Lạy Chúa! Ngài
yêu con biết bao. Dù con đă ngỗ nghịch, Ngài vẫn âm thầm tiếp tục d́u
dắt con trở lại với Ngài. Ước muốn duy nhất của Ngài nơi con đó là Ngài
muốn con thoát khỏi án phạt đời đời và trao cho con một hạnh phúc bất
diệt.
Càng ngày, tôi càng tin tưởng hơn vào chân lư nơi Giáo Hội Công giáo,
nhưng tôi không nghĩ đến việc sẽ rửa tội. Mỗi lần ư nghĩ rửa tội xuất
hiện là mỗi lần tôi vội xua đuổi nó ngay. Mỗi lần tôi nh́n những người
Công giáo Việt nam, tôi có cảm tưởng họ đang theo một tôn giáo của ngoại
bang, nó xa lạ và khác thường với phong tục tập quán dân tộc, nó có vẻ "Tây"
quá. Nh́n vào cách ăn nói, các nghi lễ, h́nh dáng nhà thờ... nó có vẻ Âu
tây hơn là một màu sắc quốc tế. Đối với tôi, yêu mến văn hóa Khổng Tử,
kính trọng đời sống kham khổ của các tu sĩ Phật giáo là những ngăn trở
khiến tôi khó đến với Công giáo. Đời sống tự do của người Công giáo và
ngay cả các Linh mục khó cho tôi có thể nghĩ rằng họ là những người tin
Chúa và là tôi tớ của Chúa.
Một ngày nọ, khi đến thăm ông nội tôi, tôi gặp một Tu sĩ Phật giáo đang
ở nhà ông tôi. Vị tu sĩ không ngớt lời ca ngợi những Thày tu Ḍng khổ
hạnh truyền giáo (Cistercians) tại một ngôi nhà mới lập gần Huế. Đời
sống của các Tu sĩ này đă ảnh hưởng tôi thật nhiều. Sự t́m hiểu của tôi
về đời sống của họ đưa tôi đến sự khâm phục và cuối cùng dẫn tôi đến
việc quyết định gia nhập Giáo hội Công giáo.
Tôi tŕnh bày đời sống và niềm tin của tôi với Linh mục Bề trên nhà Ḍng
và chính Ngài đă Rửa tội cho tôi ngày 15 tháng Tám năm 1928./.
Lạy
Chúa Giêsu Kitô, Lời
Nhập Thể Vượt Qua.
Cho dù Chúa mang thân phận
làm Con của
Cha trên trời
nhưng
Chúa đă
biết
vâng phục
nơi
những
ǵ Chúa phải
chịu
trong thân phận
làm người,
để
khi hoàn tất
Chúa đă
trở
thành căn
nguyên cứu
độ
đời
đời
cho những
ai tin tưởng
Chúa.
Nhờ
lời
chuyển
cầu
của
Mẹ
Maria Đồng
Công Vô Nhiễm
của
Chúa,
xin Chúa cho Kitô hữu
chúng con là thành phần
môn đệ
Chúa
luôn biết
tỉnh
thức
và cầu
nguyện
để
chẳng
những
chúng con khỏi
sa chước
cám dỗ,
chiều
theo bản
chất
yếu
nhược
của
loài người
vướng
mắc
nguyên tội
chúng con,
mà c̣n
được
thông phần
cuộc
Vượt
Qua với
Chúa,
Vượt
Qua Khổ
Nạn
và Tử
Giá đến
Phục
Sinh vinh hiển
và Thánh Linh sự
sống.
Amen.
|
|