|
Sự Sống Viên Măn
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 501 Thứ Sáu
16/4/2010
Mầu Nhiệm Cứu Độ, một mầu nhiệm bao gồm cả dự án cứu độ và công cuộc cứu
độ của Thiên Chúa, không phải chỉ ở chỗ Thiên Chúa cứu nhân loại khỏi
tội lỗi và sự chết qua Cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Con Ngài, mà là để cho
loài tạo vật được dựng nên theo h́nh ảnh của Thiên Chúa và tương tự như
Thiên Chúa được sự sống và là một sự sống viên măn nữa, nhờ Cuộc Phục
Sinh của Chúa Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai Cứu Thế của Ngài. Đó là lư
do, sau lời truyền phép để thánh hiến bánh và rượu trong Thánh Lễ, cộng
đồng phụng vụ tham dự bấy giờ cùng nhau đọc một trong bốn câu tuyên xưng
“mầu nhiệm đức tin” mẫu, đó là mẫu tuyên xưng thứ hai như thế này: “Chúa
đă chết đi để hủy diệt sự chết của chúng con và sống lại để phục hồi sự
sống cho chúng con”.
Thật vậy, nơi Bí Tích Rửa Tội, Kitô hữu đă cùng chết đi với Chúa Kitô và
sống lại với Người (x Rm 6:1-6), đă cùng Người “vượt qua sự chết mà vào
sự sống” (Jn 5:24). Tuy nhiên, “sự sống” được Chúa Kitô Phục Sinh phục
hồi đây không phải chỉ là sự sống về thể lư thuộc mầu nhiệm cánh chung
mà c̣n là và chính là sự sống thiêng liêng trong cuộc hành tŕnh đức tin
của Kitô hữu. Và “sự sống” được Chúa Kitô Phục Sinh phục hồi đây cũng
không phải là sự sống nơi hai nguyên tổ ngay từ ban đầu khi hai vị c̣n ở
trong t́nh trạng công chính nguyên thủy, “trần truồng mà không xấu hổ”
(Gen 2:25), c̣n là “sự sống viên măn”, một “sự sống viên măn” không thể
nào có nếu Thiên Chúa không hóa thân làm người, tức chỉ xẩy ra “vào thời
gian viên trọn” (Gal 4:4), khi “Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa
chúng ta” (Gn 1:14), một “sự sống viên măn” chỉ thực sự đă bắt đầu được
thông ban cho nhân loại nơi đệ nhất tạo vật về ân sủng là Trinh Nữ “đầy
ân phúc” Maria.
Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta hăy cùng nhau ư thức đức tin về “sự sống
viên măn” này nơi thành phần Kitô hữu chúng ta: “Sự sống viên măn” là ǵ?
Làm thế nào để chẳng những bảo tồn mà c̣n tăng trưởng “sự sống viên măn”
này? Và đâu là dấu hiệu cho thấy “sự sống viên măn” nơi con người?
Sự sống viên măn là ǵ?
Vấn đề thứ nhất “sự sống viên măn” là ǵ? Để có thể hiểu được phần nào
bản chất và ư nghĩa đích thực của “sự sống viên măn” này, chúng ta hăy
lắng nghe nhận định và phân tích của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong
Bài Giảng Lễ Vọng Phục Sinh 3/4/2010 nguyên văn như sau:
“Một câu
truyện cổ tích của người Do Thái ở cuốn ngụy kinh ‘Cuộc đời của Adong và
Evà’ thuật lại rằng, trong cơn bệnh cuối cùng của ḿnh, Adong sai con
ḿnh là Seth cùng với Evà vào vùng của Vườn Địa Đường để mang về thứ dầu
t́nh thương, ông lấy đó mà xức hầu được khỏi bệnh. Hai người này đă đi
t́m cây sự sống, và sau khi họ nguyện cầu và khóc lóc rất nhiều, th́
Tổng Thần Micae hiện ra với họ mà bảo cho họ biết rằng họ sẽ không lấy
được dầu của cây t́nh thương ấy và Adong sẽ phải chết. Sau này, các độc
giả Kitô hữu đă thêm vào câu nói của vị Tổng Thần này một lời an ủi liên
quan tới tác hiệu mà sau 5.500 năm, Vị Vua yêu thương là Đức Kitô sẽ đến,
Người là Con Thiên Chúa Đấng sẽ xức dầu t́nh thương của Người cho tất cả
những ai tin tưởng nơi Người. ‘Dầu t́nh thương từ muôn đời đến muôn kiếp
này sẽ được ban cho những ai được tái sinh bởi nước và Thánh Linh. Bấy
giờ, Con Thiên Chúa là Đức Kitô, chan chứa yêu thương, sẽ xuống tận thẳm
sâu của trái đất này và sẽ dẫn người cha của ngươi vào Thiên Đàng, đến
cây t́nh thương ấy’.
“Truyền
thuyết này phơi bày tất cả nỗi thống khổ của nhân loại trước số mệnh bị
bệnh nạn, đớn đau và chết chóc là những ǵ đă được áp đặt trên chúng ta.
Việc con người chống cự lại sự chết trở nên tỏ tường: có những nơi người
ta luôn nghĩ rằng cần phải có một cái ǵ đó để chữa lành sự chết. Không
sớm th́ muộn có thể t́m thấy phương pháp trị liệu chẳng những cho bệnh
nạn này kia, mà c̣n cho cả định mệnh tối hậu của chúng ta, cho chính sự
chết nữa. Chắc chắn phải có một phương dược bất tử. Cả ngày nay nữa, vẫn
tiếp tục xẩy ra việc t́m kiếm một nguồn mạch chữa lành. Khoa y học tân
tiến nỗ lực, nếu không muốn nói là loại trừ sự chết, ít là loại trừ được
bao nhiêu có thể các nguyên nhân của nó, tŕ hoăn nó càng lâu càng tốt,
kéo dài sự sống hơn nữa. Thế nhưng trong giây lát chúng ta hăy suy nghĩ
xem những ǵ sẽ thực sự xẩy ra như thế nào nếu chúng ta thành công, có
thể sẽ không thể nào hoàn toàn loại trừ hẳn được sự chết, nhưng có thể
tŕ hoăn nó đến vô hạn, ở chỗ đạt đến một độ tuổi mấy trăm năm? Phải
chăng đó là một điều tốt? Nhân loại sẽ trở thành cũ kỹ quá sức, không
c̣n chỗ cho tuổi trẻ nữa. Khả năng canh tân mới mẻ sẽ chết, và sự sống
khôn cùng sẽ không c̣n phải là chốn cực lạc nếu có bất cứ một luận phạt
nào đó.
“Việc
chữa lành thực sự đối với sự chết cần phải là những ǵ khác. Nó không
thể nào chỉ dẫn tới chỗ kéo dài đến vô tận sự sống hiện tại này. Nó cần
phải biến đổi đời sống của chúng ta từ bên trong. Nó cần phải tạo nên
một sự sống mới trong chúng ta, thực sự thích hợp với cơi vĩnh hằng: nó
cần biến đổi chúng ta một cách không phải bị chấm dứt bằng sự chết mà
c̣n từ đó bắt đầu một cách viên trọn. Những ǵ mới mẻ và hào hứng nơi sứ
điệp Kitô giáo này, nơi Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô, đă là và đang là
những ǵ chúng ta đă được nói cho biết rằng: vâng, đúng thế, việc chữa
lành sự chết này, phương dược thực sự của sự bất tử này, quả thực là có.
Nó đă được t́m thấy. Ở trong tầm tay của chúng ta. Phương dược này đă
được ban cho chúng ta nơi Phép Rửa. Một sự sống mới bắt đầu nơi chúng
ta, một sự sống chín mùi trong đức tin và không bị tàn lụi trước cái
chết của đời sống cũ kỹ, nhưng từ đó nó mới hoàn toàn được tỏ hiện”.
Làm thế nào để chẳng những bảo tồn mà c̣n tăng trưởng “sự sống viên măn”
Vấn đề thứ hai được đặt ra đó là Kitô hữu chúng ta làm thế nào để chẳng
những bảo tồn mà c̣n tăng trưởng “sự sống viên măn” này? Cũng trong cùng
bài giảng cho Lễ Vọng Phục Sinh 2010, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đă cho
thấy “sự sống viên măn” này, hay sự sống mới cũng vậy, liên hệ mật thiết
với Phép Rửa và bắt đầu từ Phép Rửa, với những nghi thức về việc thay
đổi hay biến h́nh đầy ư nghĩa của Phép Rửa, một ư nghĩa thay đổi và biến
đổi được ngài khẳng định là phải trở thành một tiến tŕnh tiếp tục xẩy
ra trong suốt cuộc đời Kitô hữu. Sau đây là nguyên văn những lời của
ngài:
“Về điều
này, đối với một số người, có lẽ là nhiều người, sẽ phản ứng rằng … làm
thế nào việc biến đổi đời sống cũ này xẩy ra được, để có thể hạ sinh vào
sự sống mới bất tử đây? Một lần nữa, có một bản văn cổ Do Thái có thể
giúp chúng ta h́nh thành một tư tưởng về tiến tŕnh huyền nhiệm được bắt
đầu nơi chúng ta khi lănh nhận Phép Rửa. Trong đó bản văn này lập lại
việc làm thế nào tổ phụ Enóc được mang lên ngai ṭa Thiên Chúa. Thế
nhưng ông cảm thấy hết sức sợ hăi trước sự hiện diện của các quyền năng
thần trời vinh hiển, và theo nỗi yếu đuối loài người của ḿnh, ông không
thể chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa. Theo lời trích từ sách Enóc này
th́ ’bấy giờ Thiên Chúa nói cùng thần Micae rằng hăy đến với Enóc mà cởi
y phục trần gian của hắn ra. Hăy xức cho hắn dầu ngọt ngào và khoác vào
người hắn áo choàng vinh quang!’ Và thần Micae cởi phục sức của tôi ra,
xức cho tôi dầu ngọt ngào, và dầu này c̣n hơn là thứ ánh sáng rạng ngời…
ánh quang của nó như các tia sáng của mặt trời. Khi tôi nh́n vào bản
thân ḿnh, tôi thấy tôi như là một trong những hữu thể hiển vinh’
(Ph.
Rech, Inbild des Kosmos, II 524).
“Đúng
thế, việc được tái mặc lấy y phục mới của Thiên Chúa, đó là những ǵ xẩy
ra nơi phép rửa, đức tin Kitô giáo nói với chúng ta như vậy. Thật sự là
việc thay đổi phục sức là những ǵ tiếp tục suốt cả cuộc đời. Những ǵ
xẩy ra nơi phép rửa là khởi đầu cho một tiến tŕnh bao gồm toàn thể đời
sống chúng ta – nó làm cho chúng ta xứng với cơi vĩnh hằng, ở chỗ, được
khoác lấy bộ y phục ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta có thể xuất
hiện trước nhan Thiên Chúa và sống với Ngài muôn đời.
“Trong
nghi thức rửa tội có hai yếu tố bày tỏ biến cố này và làm cho nó trở nên
hữu h́nh một cách đ̣i chúng ta phải dấn thân cho đến hết cuộc đời c̣n
lại của chúng ta. Trước hết là nghi thức từ bỏ cùng với những lời hứa
hẹn. Ở thời Giáo Hội sơ khai, người lănh nhận phép rửa hướng về phía
tây, biểu hiệu cho bóng tối, cho mặt trời lặn, cho sự chết và v́ thế cho
sự thống trị của tội lỗi. Người chịu phép rửa hướng về phía đó mà tuyên
bố ba lần rằng ‘không’: không với ma quỉ, không với những thứ phù hoa
của hắn và không với tội lỗi. Chữ ‘phù hoa’ lạ này, tức là những thu hút
hấp dẫn của ma quỉ, ám chỉ đến những ǵ là rạng ngời của việc tôn sùng
xa xưa đối với các thần linh cũng như đến hí trường cổ là nơi lấy làm
thích thú khi thấy con người bị các con hoang thú cấu xé tứ chi của họ.
Những ǵ bị từ bỏ bởi tiếng ‘không’ này là một loại văn hóa gài bẫy con
người nơi việc tôn thờ quyền lực, nơi thế giới tham lam, nơi những dối
trá, nơi bạo tàn hung ác. Nó là hành động giải phóng khỏi việc áp đặt
một thứ h́nh thức của cuộc sống được hiện lên như là những ǵ khoái lạc
nhưng lại mau chóng hủy hoại đi tất cả những ǵ tốt đẹp nhất nơi con
người.
“Việc từ
bỏ này – mặc dù ở dạng thức ít thê thảm – vẫn là một yếu tố thiết yếu
của phép rửa ngày nay. Chúng ta cởi bỏ ‘những thứ y phục cũ’ là những ǵ
chúng ta không thể mặc ở trước nhan Thiên Chúa. Hay nói đúng hơn, chúng
ta bắt đầu loại trừ chúng. Việc từ bỏ này thực sự là lời hứa hẹn chúng
ta như đưa bàn tay chúng ta ra cho Chúa Kitô, để Người có thể hướng dẫn
chúng ta và tái phục sức hóa cho chúng ta. Những ‘bộ y phục’ này chúng
ta cởi ra là ǵ, lời chúng ta hứa đây là chi, cả hai đều trở nên rơ ràng
khi chúng ta thấy đoạn 5 Thư gửi giáo đoàn Galata những ǵ được Thánh
Phaolô gọi là ‘các công việc của xác thịt’ – một từ ngữ ám chỉ một cách
chính xác đến những phục sức cũ kỹ bị chúng ta cởi bỏ. Thánh Phaolô bởi
thế điểm mặt chúng là ‘dâm bôn, ô uế, phóng đăng, thờ quấy, ma thuật,
hằn thù; ḱnh địch, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè đảng,
ganh tị, say sưa, chè chén và các điều khác giống như vậy’ (Gal
5:19ff.). Chúng là những bộ y phục chúng ta cởi bỏ: những bộ y phục của
chết chóc.
“Bởi
thế, về phần thực hành của Giáo Hội sơ khai, con người lănh nhận phép
rửa hướng về phía đông – biểu hiệu cho ánh sáng, biểu hiệu cho mặt trời
lịch sử mới lên, biểu hiểu cho Chúa Kitô. Thụ lănh nhân phép rửa quyết
định một hướng đi mới trong cuộc đời của ḿnh, đó là niềm tin tưởng vào
Vị Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng họ phó thác bản thân ḿnh. Bởi thế, chính
Thiên Chúa là Đấng mặc cho chúng ta bộ y phục ánh sáng. Thánh Phaolô gọi
những ‘phục sức’ mới này là ‘các hoa trái của thần trí’, và ngài diễn tả
chúng như sau: ‘mến yêu, vui mừng, b́nh an, rộng răi, tốt lành, lương
thiện, tín trực, hiền từ, tiết độ’(Gal 5:22).
“Trong
thời Giáo Hội sơ khai, ứng sinh phép rửa bấy giờ thực sự cởi bỏ hết quần
áo của ḿnh ra. Họ trầm ḿnh vào bề rửa tội và nổi lên ba lần – một biểu
hiệu về sự chết được bày tỏ tất cả những ǵ là sâu xa nhất của việc cởi
bỏ và thay đổi y phục. Sự sống trước kia bị sự chết làm chủ được ứng
sinh phép rửa trao phó cho cái chết với Chúa Kitô, và họ để ḿnh được
nâng lên bởi và với Chúa Kitô vào một sự sống mới biến đổi họ cho đến
muôn đời. Thế rồi, nổi lên từ nước của phép rửa, thành phần tân ṭng
được mặc lấy tấm áo trắng, tấm áo ánh sáng của Thiên Chúa, và họ lănh
nhận cây nến sáng như một dấu hiệu của sự sống mới trong ánh sáng được
chính Thiên Chúa thắp sáng lên trong họ. Họ biết rằng họ đă lănh nhận
phương dược bất tử, những ǵ hoàn toàn được hiện thực ở lúc họ hiệp lễ.
Trong bí tích này, chúng ta được lănh nhận thân ḿnh của Chúa phục sinh
và chính chúng ta được lôi kéo tới thân ḿnh này, được mạnh mẽ giữ lấy
bởi Đấng đă chiến thắng sự chết và là Đấng đưa chúng ta vượt qua sự chết.
“Qua các
thế kỷ, những biểu hiệu này đă được đơn giản hóa, thế nhưng nội dung
thiết yếu của phép rửa vẫn c̣n nguyên như vậy. Nó không phải chỉ là việc
tẩy rửa, lại càng không phải là một cái ǵ đó nhập môn phức tạp vào một
đoàn thể mới. Nó là cái chết và phục sinh, là việc tái sinh vào đời sống
mới. Thật vậy, không có vấn đề chữa lành sự chết. Chúa Kitô là cây sự
sống, một lần nữa ở trong tầm tay của chúng ta. Nếu chúng ta sống gần
gũi Người th́ chúng ta có sự sống…”
Đâu là dấu hiệu “sự sống viên măn” nơi chúng ta?
Căn cứ vào những phân tích và nhận định của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
trên đây trong bài giảng cho Lễ Vọng Phục Sinh 2010, chúng ta thấy vấn
đề đầu tiên về bản chất của “sự sống viên măn” ở đây không phải về thể
lư cho bằng về thiêng liêng, và “sự sống viên măn” này cần phải được
tăng trưởng trong đời sống tu đức của Kitô hữu từ khi họ lănh nhận Phép
Rửa, bằng việc họ làm sao liên tục cởi bỏ con người cũ của ḿnh là những
ǵ thuộc về xác thịt và mặc lấy con người mới của thần trí, như Đức
Thánh Cha nói, đó là “một
sự sống mới bắt đầu nơi chúng ta, một sự sống chín mùi trong đức tin và
không bị tàn lụi trước cái chết của đời sống cũ kỹ, nhưng từ đó nó mới
hoàn toàn được tỏ hiện”.
Phải,
chính câu nói này của Đức Thánh Cha c̣n cho chúng ta thấy được giải đáp
cho
vấn đề thứ ba được đặt ra đó là làm sao biết được chúng ta có “sự sống
viên măn” hay đâu là dấu hiệu “sự sống viên măn” nơi chúng ta? Như lời
Đức Thánh Cha nói: “Một sự sống chín mùi trong đức tin và không bị
tàn lụi trước cái chết của đời sống cũ kỹ nhưng từ đó nó mới hoàn toàn
tỏ hiện”, th́ đó là dấu hiệu cho thấy “sự sống viên măn” nơi Kitô
hữu. Nói một cách thực tế hơn, “sự sống viên măn” nơi Kitô hữu có thể
được tỏ ra bằng ít là ba dấu hiệu nồng cốt tiêu biểu sau đây: b́nh an,
tự do, và chiếm đoạt.
Dấu hiệu đầu tiên cho thấy “sự sống viên măn” nơi Kitô hữu đó là tâm
trạng b́nh an của họ. “B́nh an cho các con” chính là lời chào chúc của
Chúa Kitô Phục Sinh cho các tông đồ của Người, thành phần bấy giờ đang
chẳng những tuyệt vọng trước cái chết của Người và không bao giờ nghĩ
rằng Người sống lại, hoặc cùng lắm chỉ “t́m người sống nơi kẻ chết” (Lk
24:5), mà c̣n đang sợ hăi trước một tương lai tối tăm mù mịt có thể
chính bản thân của các vị bị sát hại bởi thẩm quyền Do Thái, v́ các vị
đă trót dại bỏ hết mọi sự mù quáng nhập bọn với nhân vật Giêsu Nazarét,
tưởng Người là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), không
ngờ Người lại bất lực không thể xuống khỏi thập giá và đă thực sự bị
chôn táng trong mồ đă mấy ngày rồi. Nếu biến cố khổ nạn và tử giá của
Chúa Kitô đă làm cho các tông đồ của Người tuyệt vọng thế nào th́ biến
cố phục sinh của Chúa Kitô cũng phục hồi niềm tin tưởng nơi Người của
các vị, nhờ đó các vị vững tâm vui sống. Đúng hơn, chính Chúa Kitô Phục
Sinh là nguồn b́nh an cho các vị và của các vị, một thứ b́nh an là “tặng
ân Thày ban cho các con” (Jn 14:27), như Người đă hứa ban cho các vị
trong Bữa Tiệc Ly, nhưng lại là một thứ b́nh an không phải “như thế gian
ban”. Bởi v́, b́nh an thế gian ban là thứ b́nh an không có chiến tranh,
thậm chí c̣n là thứ b́nh an làm dữ khi lương tâm con người được trấn an
bằng những lư lẽ giả dối có vẻ hợp t́nh hợp lư. Trong khi đó, b́nh an
Chúa Kitô ban cho và để lại cho thành phần môn đệ của ḿnh đó là b́nh an
trong khổ đau thử thách, hay nói ngược lại, cho dù trải qua khổ đau thử
thách, cho dù tự nhiên cảm thấy lo âu sợ hăi như ai Kitô hữu vẫn tin
tưởng phó thác và b́nh an vui sống, vẫn chẳng những không bị ngă quị,
trái lại, c̣n nhờ đó thăng tiến trên đường nhân đức hơn nữa.
Dấu hiệu thứ hai cho thấy “sự sống viên măn” nơi Kitô hữu, đó là thái độ
và đời sống tự do của họ. Thật vậy, một Kitô hữu có “sự sống viên măn”,
họ chẳng những có một tâm hồn và nội tâm bằng an, không bị gian nan thử
thách hay cám dỗ làm lay chuyển hoặc đánh gục, trái lại, trong chính
những lúc khốn khó của ḿnh, và trong giới hạn tạo vật hèn yếu của ḿnh,
họ c̣n làm được những ǵ theo tự nhiên họ không thể làm được nếu không
có trời cao trợ giúp, như chính Chúa Kitô đă khẳng định với họ trong Bữa
Tiệc Ly: “Người nào tin tưởng nơi Thày chẳng những làm được những việc
Thày làm mà c̣n làm được những việc hơn thế nữa” (Jn 14:12). Sở dĩ Kitô
hữu môn đệ Chúa Kitô có thể làm được những việc hơn cả Thày ḿnh làm nữa
là v́ họ là cành nho sinh trái, trong khi trái nho không bao giờ lại
xuất hiện từ chính Người là thân nho, nhưng cành nho không thể nào sinh
trái mà lại tách ĺa khỏi thân nho (x Jn 15:4), do đó cành nho sinh trái
nhờ thân nho Chúa Kitô và thân nho sinh trái nơi cành nho Kitô hữu. Hoa
trái phát xuất từ cành nho cho thấy “sự sống viên măn” của cành nho được
chia sẻ và hiệp thông với Chúa Kitô là thân nho. Không phải là Kitô hữu
sau khi lănh nhận Phép Rửa đă được thanh tẩy tất cả mọi mầm mống của
nguyên tội là đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, trái lại, chúng vẫn
c̣n đó, nhưng không c̣n tác dụng trên họ nữa, không c̣n ngăn trở họ làm
điều lành, mà chính thân xác đă từng là khí cụ cho tội lỗi của họ trước
đó lại được họ sử dụng như một phương tiện cho công chính (x Rm
6:12-14). Ngoài ra, đối với các quyền lực thế trần, họ cũng tỏ ra hiên
ngang không sợ hăi đến độ làm thui chột đi chân lư được họ thâm tín đến
không thể nào không nói ra, cho dù có bị bách hại và làm khốn, trái lại,
họ c̣n cảm thấy vui mừng bởi được chịu khổ v́ Danh Chúa (x Acts 4:19-20,
5:41).
Dấu hiệu thứ ba cho thấy “sự sống viên măn” nơi Kitô hữu, đó là tác dụng
chiếm đoạt từ đời sống chứng nhân và hoạt động tông đồ của họ. Thật vậy,
điển h́nh nhất cho thấy “sự sống viên măn” nơi các tông đồ xẩy ra sau
biến cố Thánh Thần Hiện Xuống, đó là những cuộc trở lại đông đảo ban đầu
cho Giáo Hội sơ khai, chẳng hạn 3000 người sau những lời rao giảng tiên
khởi của Thánh Phêrô hợp cùng Tông Đồ Đoàn (xem Acts ), và 5000 người
sau lời chứng cũng của vị Trưởng Tông Đồ này cùng với Gioan sau khi chữa
lành cho người què ở Cửa Đẹp (xem Acts 2:41,4:4), những hoa trái dồi dào
sung măn các vị tông đồ gặt hái được đă không xẩy ra khi Chúa Kitô c̣n
sống và do chính Chúa Kitô làm, mà chỉ xẩy ra sau khi Người về cùng Cha
(xem Jn 14:12) và qua các chi thể chứng nhân của Người, thành phần luôn
sống gắn bó với Người như cành nho dính liền với Người là thân nho của
họ. Việc chiếm đoạt là dấu hiệu cho thấy “sự sống viên măn” nơi Kitô hữu
ở đây c̣n ở chỗ họ có thể tha thứ cho kẻ làm khốn ḿnh, cho kẻ thù ḿnh,
như được thể hiện nơi vị tử đạo tiên khởi Stephanô (x Acts 7:60). Biến
cố tử đạo của Thánh Stephanô cũng có thể đă góp phần sửa soạn cho cuộc
trở lại của Vị Tông Đồ Dân Ngoại là anh chàng Saul bấy giờ đồng lơa với
thành phần ném đá ngài (x Acts 7:58). Những dấu hiệu tiêu biểu và chính
yếu trên đây cho thấy “sự sống viên măn” nơi các vị Tông Đồ trong thời
Giáo Hội mới h́nh thành cũng vẫn tiếp tục diễn ra suốt gịng lịch sử
nhân loại, nhất là qua mồ hôi của các vị thừa sai và đặc biệt
là bằng máu tử đạo của thành phần chứng nhân Kitô hữu khắp nơi trên thế
giới. Kitô giáo đă từ một hạt cải nhỏ bé trở thành cây vĩ đại trên thế
giới này không phải là dấu chứng cho thấy “sự sống viên măn” nơi Giáo
Hội Công Giáo hay sao, bất chấp những yếu hèn vẫn không thiếu nơi không
ít cá nhân Kitô hữu.
Lịch sử thế giới cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đă chẳng chứng kiến
thấy “sự sống viên măn” nơi Giáo Hội Công Giáo là ǵ, qua hai lễ an táng
quá ư là trọng thể chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Lễ an táng
thứ nhất là lễ an táng của Mẹ Têrêsa Calcutta, một Kitô hữu Công giáo
được quốc táng giữa một thế giới Ấn Giáo, v́ công cuộc phục vụ người
nghèo nhất trong các người nghèo của Mẹ, một hội ḍng Thừa Sai Bác Ái do
Mẹ sáng lập và được Giáo Quyền chính thức công nhận từ ngày 7/10/1950
cho tới khi Mẹ qua đời ngày 5/9/1997, tức trong ṿng 50 năm, tổng số Chị
Em Thừa Sai Bác Ái là 3.914 ở 594 cộng đồng tại 123 quốc gia trên khắp
thế giới, một hội ḍng phát triển nhanh chưa từng thấy trong lịch sử
2000 năm của Giáo Hội. Và lễ an táng thứ hai là lễ an táng của Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng đă đi khắp thế giới với 106 chuyến
tông du để mang “vui mừng và hy vọng” đến cho thế giới đang quay cuồng
với nền văn ḿnh sự chết, đặc biệt đă là yếu tố chính trong cuộc sụp đổ
của cộng sản Đông Âu cuối năm 1989, một biến cố làm thay đổi bộ mặt trái
đất từ đó tới nay, và v́ thế đă làm cho cả thế giới ngưỡng mộ ngài.
Thật thế, tham dự Thánh Lễ an táng cho Đức Thánh Cha bao gồm những quốc
vương của 10 quốc gia, 57 vị lănh đạo quốc gia, 3 nữ hoàng, 17 vị lănh
đạo chính quyền, các vị lănh đạo 3 tổ chức quốc tế, và các vị đại diện
thuộc 10 tổ chức khác, 3 phu nhân của các vị lănh đạo quốc gia, 8 vị phó
lănh đạo quốc gia, 6 vị phó chủ tịch, 4 vị chủ tịch quốc hội, 12 vị
ngoại trưởng, 13 vị bộ trưởng, và các vị lănh sự thuộc 24 quốc gia. Các
phái đoàn đại biểu tôn giáo bao gồm 140 vị, kể cả những vị đại diện của
Giáo Hội Chính Thống, Các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, các Giáo Hội
và các cộng đoàn giáo hội Tây phương, những tổ chức Kitô giáo quốc tế,
Hiệp Hội Quốc Gia Tin Lành, các vị đại diện Do Thái giáo, Hồi giáo và
các đại biểu thuộc các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Thánh Lễ An Táng có 157
vị hồng y đồng tế; 700 tổng giám mục và giám mục hiện diện, cũng như
3000 linh mục có mặt trong số đó có 300 vị cho rước lễ. Có 169 phái đoàn
đại biểu hay đại diện của 23 Giáo Hội Chính Thống, các phái đoàn đại
biểu Do Thái giáo và 17 phái đoàn đại biểu thuộc các tôn giáo ngoài Kitô
giáo cũng như các tổ chức về đối thoại liên tôn. Có trên 3 triệu người
hành hương đến Rôma; 21 ngàn người mỗi giờ tiến vào Đền Thờ Thánh Phêrô;
thời giờ chờ đợi trung b́nh 13 tiếng đồng hồ và lâu nhất là 24 tiếng;
vào ngày lễ an táng, có 500.000 người tại Quảng Trường Thánh Phêrô và
tại con đường nối thẳng vào quảng trường này, Via della Conciliazione;
600.000 người ở các vùng có những đại màn ảnh truyền h́nh.
Lạy
Chúa Giêsu Kitô Vượt
Qua là sự
sống
lại
và là sự
sống.
Chúa
đă
đến
như
một
vị
mục
tử
nhân lành hiến
mạng
sống
ḿnh v́ chiên,
cho chiên của
Chúa được
sự
sống
và là sự
sống
viên măn.
Xin Chúa cho Kitô hữu
chúng con là thành phần
đă
chẳng
những
được
sự
sống
nhờ
Bí Tích Rửa
Tội
và Bí Tích Giải
Tội,
mà c̣n là một
sự
sống
viên măn bởi
Bí Tích Thánh Thể
và Bí Tích Thêm Sức,
biết
sống
như
cành nho luôn dính liền
với
Chúa là thân nho,
bằng
việc
lắng
nghe và tuân giữ
lời
Chúa như
Mẹ
Maria,
để
nhờ
đó
chúng con có thể
sinh muôn vàn hoa trái thiêng liêng cho Chúa.
Amen.
|
|