|
Tân Chân Phước John Henry Newman
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 525 Thứ Sáu
1/10/2010
Chúng ta
đă nghe thấy Đức Thánh Cha Biển Đức XVI khẳng định và nhấn mạnh đến sự
kiện lịch sử là chỉ có các thánh nhân mới là thành phần thực sự cách
mạng và canh tân Giáo Hội và xă hội được Thiên Chúa sai đến vào thời
điểm của các vị:
·
“Cách mạng thực sự chỉ xuất phát từ các thánh nhân”
(Huấn Từ cho Đêm Canh Thức Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX Thứ
Bảy
20/8/2005 ở Cologne Đức
quốc).
·
“Chúng ta biết rằng ở vào những lúc khủng hoảng và biến động Thiên
Chúa đă từng gửi đến những vị đại thánh và tiên tri để canh tân Giáo
Hội và xă hội Kitô giáo; chúng ta tin tưởng vào sự quan pḥng của
Ngài và chúng ta xin Ngài tiếp tục hướng dẫn…”
(Tông du Hiệp Vương Quốc diễn
từ tối ngày Thứ Bảy 18/9/2010 ở Hyde Park – London)
Ngay từ
khi mở màn cho giáo triều của ḿnh, trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với hồng
y đoàn ngày 20/4/2005, vị giáo hoàng thần học gia xuất thân từ Đức quốc,
nơi đă xuất phát phong trào cải cách thệ phản tin lành từ năm 1517, đă
minh nhiên chủ trương 2 trong 3 ưu tiên hàng đầu cho giáo triều của ngài,
đó là đại kết Kitô giáo và đối thoại về văn hóa nhất là liên tôn. Trong
chuyến tông du Hiệp Vương Quốc, hai ưu tiên hàng đầu này đă được thể
hiện hết sức rơ ràng, qua sự kiện ngài đă đích thân, lần đầu tiên từ khi
đăng quang, chủ sự lễ phong chân phước cho Đức Hồng Y John Henry Newman,
một con người t́m kiếm chân lư, cho tới khi xẩy ra những cuộc trở lại,
trước hết, từ một thiếu niên theo chủ nghĩa hoài nghi sang niềm tin Kitô
giáo với Giáo Hội Anh Giáo, rồi sau đó, từ một giáo sĩ Anh Giáo sang
linh mục Công Giáo cho tới tước vị Hồng Y của Giáo Hội Công Giáo Rôma.
Giờ đây chúng ta hăy cùng nhau theo dơi bài nghiên cứu của Anh Cao Tấn
Tĩnh về tiểu sử của vị Tân Chân Phước này kèm theo những nhận định của
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về nhân vật cách mạng đặc biệt
trong
Giáo Hội thuộc thế kỷ 19 ấy.
Bé Newman được sinh ra ở Luân Đôn Anh quốc ngày 21/2/1801, là đứa con
đầu ḷng của một gia đ́nh có 3 trai và 3 gái. Cha là John Newman và mẹ
là Jemima Fourdrinier.
Vào năm 7 tuổi, em Newman được gửi đi học ở Great Ealing School của Tiến
Sĩ George Nicholas. Năm 14 tuổi, thiếu niên Newman đă đọc các tác phẩm
có tính chất hoài nghi của Thomas Paine, David Hume và có lẽ cả của
Voltaire.
Vào năm 15 tuổi, hay vào mùa thu năm 1816, trong năm học cuối cùng ở
trường, Newman đă trở lại từ những ǵ hoài nghi đến những ǵ đầy ấn
tượng về tín điều đọc thấy từ các sách vở thuộc truyền thống cải cách
của Calvin. Thiếu niên Newman đă trở thành một tín đồ theo phái thệ phản
Calvin, và có những chủ trương tiêu biểu của họ, như cho rằng giáo hoàng
là tên phản kitô theo chiều hướng của Thomas Newton cũng như theo cuốn
Lịch Sử về Giáo Hội Chúa Kitô của Joseph Milner.
Ngày 13/6/1824 thanh niên Newman được thụ phong phó tế ở Vương Cung
Thánh Đường Chúa Kitô Oxford, và vào Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi 29/5/1825
phó tế Newman được thụ phong linh mục trong Giáo Hội Chúa Kitô.
Năm 1828, mặc dù giáo sĩ Newman theo danh xưng vẫn c̣n liên hệ với tín
đồ phái Evangelicals, nhưng quan điểm của ngài dần dần thiên về chiều
hướng giáo hội hơn. Vào mùa hè năm ấy, ngài đă thực hiện việc thấu đáo
nghiên cứu về các vị Giáo Phụ của Giáo Hội.
Trong chuyến
Tông Du Hiệp Vương Quốc,
Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI đă nói đến kiến thức về giáo phụ hết sức trọng
yếu này của giáo sĩ Newman khi trả lời cho giới truyền thông trên máy
bay ngày Thứ Năm 16/9/2010 như sau:
·
Ngài là một con người có một nền văn hóa lớn lao và một kiến thức
dồi dào về các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội. Ngài đă học hỏi và đổi mới
cái gốc tích nội tại của niềm tin và đă nhận thấy h́nh thức cùng cấu
trúc nội tại của nó.
Cũng trong chuyến tông du Hiệp Vương Quốc này, vào tối Thứ Bảy
18/9/2010, áp lễ phong chân phước cho Đức Hồng Y John Henry Newman, Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI c̣n nói đến tiến tŕnh hoán cải của thần học gia
này, liên quan tới cả biến cố thiếu niên Newman từ chủ nghĩa hoài nghi
vô thần sang đức tin hữu thần lẫn biến cố giáo sĩ Newman từ Anh giáo
sang Công giáo như sau:
·
Đức Hồng Y Newman,
căn cứ vào tŕnh thuật của chính ngài,
đă truy nguyên tất cả gịng đời của ḿnh từ một cảm nghiệm hoán cải
mănh liệt ngài có được khi c̣n trẻ. Nó là một cảm nghiệm trực tiếp
về sự thật của lời Chúa, về thực tại khách quan của mạc khải Kitô
giáo được truyền lại trong Giáo Hội.
Cảm nghiệm này, vừa tôn giáo vừa tri thức, đă tác động ơn gọi của
ngài trong việc trở thành một thừa tác viên của Phúc Âm, đă soi động
nhận thức của ngài về nguồn giáo huấn thẩm quyền của Giáo Hội Chúa,
và khích động ḷng nhiệt thành của ngài đối với việc canh tân đời
sống Giáo Hội nơi việc trung thành với truyền thống tông đồ.
Tuy nhiên, vào Tháng 12/1832, trong chuyến hành tŕnh Địa Trung Hải, vị
giáo sĩ Newman đă viết một bức thư về nhà diễn tả Rôma như là “một nơi
tuyệt vời nhất trên Trái Đất”, nhưng đạo Công Giáo Rôma như là một thứ
“đa thần, thoái hóa và ngẫu tượng”.
Tháng 8/1833, giáo sĩ Newman đă viết cuốn Tracts for the Times, một tác
phẩm mà các phần tử thuộc Phong Trào Oxford, một phong trào được mở màn
vào ngày 9/7/1833, sau đó mang danh là Tractarian, một tác phẩm viết để
bảo đảm là Giáo Hội Anh Quốc có một nền tảng vĩnh viễn về tín lư và kỷ
luật. Vào năm 1836 giáo sĩ Newman đồng thời c̣n tung ra những bài diễn
thuyết để bênh vực chủ trương và tính cách “trung lộ” (via media –
middle way) của Anh Giáo, một đạo giáo ở giữa Công Giáo Rôma và phong
trào Thệ Phản phổ thông.
V́ thế, giáo sĩ Newman đă tạo được một ảnh hưởng lên đến cao độ ở Oxford
vào năm 1839. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về lạc thuyết Nhất Tính (monophysitism),
vị giáo sĩ Newman đă cảm thấy nghi ngờ về chủ trương của Anh giáo liên
quan tới những nguyên tắc về thẩm quyền của giáo hội. Thế rồi sau khi
đọc bài viết về “Chủ Trương của Anh Giáo” của Nocholas Wiseman trên tờ
Dublin Review, trong đó những lời của Thánh Augustine thành Hippo chống
lại bè rối Donatists đă gây tác dụng mănh liệt nơi nhà học giả Anh giáo
này, như những ǵ được bày tỏ trong cuốn Apologia phần 5 của ngài như
sau:
·
“Những lời của Thánh Âu Quốc Tinh đă tác động tôi mănh liệt như
chưa bao giờ tôi cảm thấy bởi những lời nào trước đó… chúng như là
những lời ‘Tolle, lege – Tolle, lege’ của một con trẻ đă khiến cho
chính Thánh Âu Quốc Tinh phải trở lại vậy. “Securus judicat orbis
terrarum -
the verdict of the world is conclusive".
Qua những lời sâu xa này của Vị Giáo Phụ xưa kia ấy, khi giải thích
và gồm tóm tiến tŕnh dài lâu và khác nhau của lịch sử giáo hội, th́
khoa thần học ‘Via Media - Trung Lộ’ này hoàn toàn tan biến”.
Tuy nhiên, giáo sĩ Newman đă tiếp tục công việc của ḿnh như là một tay
bút chiến thuộc Anh giáo thiên Công giáo (High Anglican) cho đến khi
ngài phát hành tập Tract 90 vào năm 1841. Đây là tập cuối cùng
trong loạt bài viết của ngài, tập sách khảo sát cặn kẽ về 39 Điều
Khoản (Thirty-Nine Articles), và cho rằng những phủ định của những điều
khoản này không trực tiếp chống lại kinh tin kính chính thức của Giáo
Hội Công Giáo Rôma mà chỉ chống lại những sai lầm và những thái quá
thông dụng mà thôi. Tập sách này đă gây ra nỗi
căm phẫn ở Oxford.
Thế là
giáo
sĩ
Newman đă coi chủ trương của tín hữu Anh giáo
giống như chủ trương của thành phần bán Bè Rối Arian trong cuộc tranh
luận về lạc thuyết Arian. Việc liên kết chức giám mục Anh giáo và
Luthero được thỏa thuận ở Giêrusalem đối với giáo sĩ Newman là một chứng
cớ nữa cho thấy Giáo Hội Anh quốc không phải là giáo hội tông truyền.
Vào năm 1842, giáo sĩ Newman rút về
Littlemore và sống một đời tương tự như đời sống đan tu với một số nhỏ
môn đề của ḿnh, như John Debree Dalgrairns, William Lockhart, Ambrose
St. John và Frederick Oakeley. Những ngôi nhà trú ngụ và làm việc của
nhóm này được Newman gọi là “Nhà của Đức Maria ở Littlemore” (giờ đây
được gọi là Học Viện Newman – Newman College).
Tại đây, giáo sĩ Newman ủy thác cho một
số môn đệ của ḿnh viết về đời sống của các vị thánh Anh quốc, c̣n ngài
dồn thời giờ vào việc hoàn tất Tiểu Luận về việc phát triển tín lư Kitô
giáo. Vào Thánh 2/1843, ngài đă phổ biến như những ǵ ngài muốn chính
thức rút lại tất cả bao lời
khắc nghiệt ngài đă nói phạm tới Giáo Hội Công Giáo Rôma trước
đó.
Vào Tháng 9/1843, ngài đă tung ra bài giảng cuối cùng về Anh giáo ở
Littlemore.
Hai năm trôi qua trước khi giáo sĩ
Newman được tiếp nhận vào Giáo Hội Công Giáo Rôma ngày 9/10/1845, qua
linh mục Dominic Barberi, một tu sĩ người Ư Ḍng Passionist tại Học Viện
ở Littlemore. Hậu quả gây ra cho bản thân của ngài từ việc trở lại Công
giáo này thật lớn lao, ở chỗ, ngài đă bị mất đi các mối liên hệ với gia
đ́nh và bạn hữu, những thái độ đối với ngài trong cộng đồng Oxford của
ngài trở nên kịch liệt xung đột nhau.
Trong chuyến
tông du Hiệp Vương Quốc, khi gặp Đức Tổng Giám Mục Canterbury hôm Thứ
Sáu 17/9/2010 ở Lambeth Palace, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đă đề cao
thái độ thân t́nh bằng hữu và tinh thần đại kết Kitô giáo của Đức Hồng Y
Newman, khi bản thân ngài v́ lương tâm của ḿnh đă trở thành một đối
tượng thù nghịch, như sau:
·
Nơi h́nh ảnh của Đức Hồng Y John Henry Newman, … vị giáo sĩ có nhăn
quan về giáo hội được nuôi dưỡng bởi kinh nghiệm Anh giáo của ḿnh
và được chín mùi qua nhiều năm làm thừa tác viên thụ phong trong
Giáo Hội Anh quốc.
Ngài có thể dạy chúng ta những nhân đức cần cho phong trào đại kết:
một đàng ngài được tác động theo lương tâm của ḿnh, cho dù có phải
trả giá to lớn cho bản thân ḿnh; đàng khác, thái độ ngài vẫn tỏ ra
ân cần thân t́nh với các người bạn xưa kia của ḿnh đă dẫn ngài đến
chỗ cùng họ xem xét những vấn đề khác biệt, bằng một ḷng sâu xa
mong ước hiệp nhất trong đức tin.
ào Tháng 2/1846, giáo sĩ Newman rời
Oxford đến Oscott là nơi cư ngụ của Đức Giám Mục Wiseman bấy giờ đang
làm đại diện ṭa thánh Rôma ở khu vực Midland. Và vào tháng 10 năm đó
giáo sĩ Newman đă đi Rôma, nơi ngài
được Đức Hồng Y Giacomo Filippo Fransoni truyền chức linh mục và được
Đức Thánh Cha Piô IX cấp cho bằng D.D. (Doctor of Divinity – Tiến Sĩ
Thần Học).
Cuối năm 1847, Cha Newman trở về Anh quốc như một tu sĩ Ḍng Oratorian
do Thánh Philip Neri thành lập, và đầu tiên ngài cư ngụ ở Maryvale, rồi
ở Học Viện Thánh Wilfrid, đoạn ở Birmingham, sau cùng ở Edgbaston với
một cuộc sống ẩn dật gần 40 năm, trừ 4 năm ở Ái Nhĩ Lan.
Trước khi ngài cư ngụ ở Edgbaston, ngài đă cùng với vị bề trên của ḿnh
là Cha Frederick William Faber thiết lập London Oratory. Tại đây, vào
năm 1851, Cha Newman đă thực hiện một tiến tŕnh diễn thuyết về Vị Thế
Hiện Tại của T́n Hữu Công Giáo ở Anh Quốc, những bài diễn thuyết hầu như
bị báo chí coi thường, những bài diễn thuyết đă phân tích dài ḍng các
quan điểm truyền thống của Công giáo được tín đồ Thệ Phản nắm giữ. Ở bài
thứ năm, ngài đă chống lại những lời nói phản Công giáo của Giacinto
Achilli, một tu sĩ xuất Ḍng Đaminh, một con người bị ngài cho thấy có
nhiều hành động vô luân. Ngài đă bị tội phỉ báng vào năm 1852 và bị phạt
100 Anh kim, chưa kể luật sư phí biện hộ của ngài lên đến 14 ngàn Anh
kim. Số tiền liên quan tới vụ án này đă được quần chúng quyên góp, chẳng
những thanh toán đầy đủ mà c̣n dư để mua một mảnh đất nhỏ ở Rednal trên
Lickey Hills, nơi bao gồm một nguyện đường và một nghĩa trang sau này
trở thành chốn yên nghỉ đời đời của cả bản thân ngài.
Vào năm 1854, theo lời yêu cầu của các vị Giám Mục Công Giáo Ái Nhĩ Lan,
Cha Newman đă đến Dublin làm việc trưởng của Đại Học Đường Công Giáo ở
Ái Nhĩ Lan mới thành lập, hiện nay là Đại Học Viện Dublin – University
College, Dublin (U.C.D). Trong thời gian này ngài đă thành lập Hội Văn
Chương và Lịch Sử. Sau 4 năm, ngài đă về hưu. Ngài đă phát hành một tập
sách tổng hợp các bài thuyết tŕnh dưới nhan đề Ư Nghĩ về Một Đại Học
Đường, một tập sách chất chứa một số bài viết có tầm vóc tác dụng
nhất của ngài.
Trong lễ
phong chân phước cho ngài hôm Chúa Nhật 19/9/2010 ở Birmingham, Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI đă ca ngợi những ư nghĩ độc đáo về giáo dục của
ngài và kêu gọi thành phần đảm trách việc giáo dục hăy lắng nghe những
ǵ được một con người đại văn hóa đầy nhân bản như
ngài nêu lên:
·
Mạnh mẽ chống lại với bất cứ đường lối suy giảm hay thực dụng nào,
ngài đă t́m cách để đạt được một môi trường về giáo dục bao gồm cả
vấn đề huấn luyện về tri thức, kỷ luật về luân lư và dấn thân về đạo
giáo. Dự án thành lập một Đại Học Công Giáo ở Ái Nhĩ Lan cống hiến
cho ngài cơ hội để khai triển tư tưởng của ngài về chủ đề này, và
tuyển tập các bài nói nhan đề Ư Nghĩ Về Đại Học được ngài xuất bản
đề cao một lư tưởng mà tất cả những ai dấn thân vào việc huấn luyện
về hàn lâm có thể tiếp tục học hỏi. Thật vậy, những thày cô dạy về
đạo nghĩa làm sao có thể nêu lên cho ḿnh được một mục đích nào tốt
lành đẹp hơn là lời kêu gọi nổi tiếng của Chân Phước John Henry
giành cho một người giáo dân thông minh và được học hỏi đàng hoàng:
‘Tôi muốn một người giáo dân, chứ không phải là kẻ ngạo mạn, không
bừa băi trong lời nói, không tranh luận, mà là những con người biết
đạo giáo của ḿnh, đi sâu vào nó, biết ḿnh đang ở đâu, biết những
ǵ ḿnh chủ trương và không chủ trương, biết những ǵ ḿnh tin tưởng
vững vàng tới độ có thể chứng tỏ chúng, biết rất rơ về lịch sử để có
thể bênh vực nó’” (The Present Position of Catholics in England, ix,
390)….
Vào năm 1858, Cha Newman có dự án thành lập một nhà chi nhánh Oratory ở
Oxford; thế nhưng dự án ấy bị Cha Henry Edward Manning và những người
khác phản đối, v́ bị cho như thể muốn dụ dỗ những người Công giáo gửi
con cái của ḿnh đến đại học này, bởi đó dự án của cha đă bị băi bỏ. Tuy
nhiên, khi người Công giáo bắt đầu đến học ở Oxford từ thập niên 1860
trở đi, một câu lạc bộ Công giáo đă được thành lập, và vào năm 1888 nó
được đổi tên là Hội Newman Đại Học Oxford để ghi nhận các nỗ lực của
ngài làm cho giới Công giáo ở thành phố đại học ấy. Trên 100 năm sau,
vào năm 1993, một
Oxford Oratory cũng đă được thành lập.
Vào năm 1862, Cha Newman bắt đầu sửa soạn viết tiểu sử của ḿnh cùng với
những ghi nhớ để làm sáng tỏ sự nghiệp của ḿnh. Thời cơ đă đến vào
Tháng 1/1864, khi cha bị Charles Kingsley tấn công, và cuộc tấn công
bằng văn tự này đă bị ngài phản hồi, trước hết bằng một tập sách nhỏ (phát
hành năm 1864 và tái bản năm 1913) liên quan tới vấn đề “Tiến Sĩ
Newman có quả thực cho Sự Thật không phải là một nhân đức hay chăng”,
và sau nữa bằng cuốn Apologia Pro Vita Sua.
Năm 1870, Cha Newman xuất bản cuốn Grammar of Assent, một tác
phẩm về niềm tin đạo giáo được chủ trương bằng những lập luận hơi khác
với những lập luận thông thường vốn được các thần học gia Công giáo Rôma
thời bấy giờ sử dụng.
Vào thời điểm của Công Đồng Chung Vaticanô I (1869-1870), Cha Newman tỏ
ra do dự về việc Công Đồng định chính thức công bố tín điều Giáo Hoàng
vô ngộ, v́ nghĩ rằng chưa đến thời điểm thích hợp của nó, nhưng ngài
không tỏ ra dấu hiệu bất măn nào khi tín điều này được tuyên bố và đă
biện hộ cho “nguyên tắc giảm thiểu
-
principle of minimising” là nguyên tắc bao gồm việc giới hạn một ít điều
nào đó thôi trong tín điều giáo hoàng vô ngộ này. Về sau, trong bức thư
gửi cho Công Tước ở Norfolk, Cha Newman đă khẳng định rằng ngài luôn tin
vào tín lư này và chỉ sợ hậu quả gây ngăn trở bởi việc tuyên tín này nơi
vấn đề trở lại như những khó khăn về lịch sử đă từng cho thấy.
Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, trong cuộc phỏng vấn với giới truyền thông trên
máy bay ngày Thứ Năm 16/9/2010 trên đường đến Hiệp Vương Quốc, đă nhận
định về tính chất có vẻ “cấp tiến” hay phóng khoáng này của thần học gia
kiêm học giả Newman này như sau:
·
Cái
tân tiến bên trong này, nơi con người của ngài cũng như nơi đời sống
của ngài, cho thấy cái tân tiến nơi đức tin của ngài. Không phải là
một thứ đức tin của những công thức thuộc các thế đại trong quá khứ;
nó là một đức tin rất riêng tư, một đức tin được sống, chịu khổ và
được t́m thấy trên một con đường dài của việc canh tân và hoán cải.
Ngài là một con người của đại văn hóa, một con người lại chia sẻ với
thứ văn hóa ngờ vực của chúng ta ngày nay, ở vấn nạn chúng ta có thể
biết được hay chăng một cái ǵ đó chắc chắn liên quan tới sự thật về
con người và hữu thể của họ, và làm sao chúng ta có thể tiến tới
những khả thể đồng qui.
Vào năm 1878, học viện cũ của ngài đă trao tặng ngài bằng hữu nghị danh
dự, và ngài đă tái viếng thăm Oxford sau một thời khoảng 32 năm, vào
chính ngày qua đời của Đức Piô IX, vị giáo hoàng đă không tin tưởng ngài,
nhưng Đức Lêô XIII được Công Tước ở Norfolk và những người giáo dân khác
khuyên nên phong cho Cha Newman làm hồng y, dù vị linh mục này không
phải là giám mục và cư ngụ ở Rôma. Cha Newman đă được chấp nhận ban tước
hồng y vào Tháng 2/1879, và sau 3 tháng, vào ngày 12/5, ngài đă được
phong tước này. Khẩu hiệu khi nhận tước hồng y của ngài là “ḷng nói
với ḷng – Cor ad cor loquitur”, câu khẩu hiệu này cũng được ghi
trên tấm khăn phủ quan tài của ngài.
Ư nghĩa của câu khẩu hiệu này ra sao đối với đời sống của Đức Hồng Y
John Henry Newman cũng như của thành phần Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, đă
đư5ơc Đức Thánh Cha vạch ra cho thấy ở bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho
ngài hôm Chúa Nhật 19/9/2010 như sau:
·
Khẩu
hiệu Cor ad cor loquitur hay ‘ḷng nói với ḷng’ của Đức Hồng Y
Newman cống hiến cho chúng ta một minh thức về kiến thức của ngài
đối với đời sống Kitô giáo như là một ơn gọi nên thánh, một ơn gọi
được cảm thấy như là một ước muốn sâu xa của con tim con người muốn
thân t́nh hiệp thông với Con Tim Thiên Chúa. Ngài nhắc nhở chúng ta
rằng sống trung thành với việc cầu nguyện dần dần biến đổi chúng ta
nên giống như Thiên Chúa.
Từ đó, Hồng
Y Newman không phát hành ǵ hết ngoài lời mở đầu cho một tác phẩm của
Arthur Wollaston Hutton về Thừa Tác Vụ Anh Giáo (1879), và một bài viết
“Về Sự Linh Ứng của Thánh Kinh” trong Thế Kỷ 19 (2/1884). Từ cuối năm
1886, Hồng Y Newman trở nên yếu hơn,
và ngài đă cử
hành Thánh Lễ cuối cùng vào Lễ Giáng Sinh năm 1889. Ngài đă qua đời v́
bệnh viêm phổi ở Birmingham Oratory ngày 11/8/1890
hưởng thọ 89 tuổi.
Trong lời từ biệt Đức Thánh Cha ở Phi Trường
Quốc Tế Birmingham Chúa Nhật 19/9/2010, Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc đă
nhắc lại sự kiện đặc biệt liên quan tới biến cố an táng của Đức Hồng Y
Newman như sau:
·
Khi chúng tôi đang đứng ở Birmingham đây để từ biệt ngài, xin cho
tôi được trở lại với những lời của Đức Hồng Y Newman. Vị hồng ư này
được nhớ đến rất nhiều ở Birmingham đây v́ việc Đức Hồng Y chăm sóc
cho dân chúng thuộc thành phố này. Trong một trận dịch tả xẩy ra
trong thành phố, vị hồng y này đă không ngừng hoạt động giữa người
nghèo khổ và người bệnh nạn. Và khi chính ngài qua đời, thành phần
nghèo khổ trong thành phố kéo ra đường xếp hàng cả hằng ngàn ngàn
người ….
Ở đoạn kết
thúc bài giảng phong chân phước cho Đức Hồng Y John Henry Newman, Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI
cũng đă
nhắc tới sự kiện đám đông, một sự kiện chẳng những xẩy ra khi ngài qua
đời mà c̣n vào chính ngày ngài được tôn phong chân phước nữa, như sau:
·
Ngài
đă sống trọn cái nhăn quan sâu xa nhân bản về thừa tác vụ linh mục
qua việc ngài dấn thân chăm sóc cho dân chúng ở Birmingham trong
những năm ngài sống ở Oratory do ngài thành lập, bằng cách viếng
thăm bệnh nhân và người nghèo, an ủi thành phần tang tóc, chăm sóc
cho những ai ở trong ngục tù. Không lạ ǵ khi qua đời rất nhiều ngàn
người đă xếp hàng dài ở các đường phố địa phương không đầy nửa dặm
đường từ đây khi thần thể của ngài được đưa đến nơi an táng. Một
trăm hai mươi năm sau, các đám thật đông lại tụ tập một lần nữa để
hoan hỉ trước việc long trọng công nhận của Giáo Hội về thánh đức
trổi vượt của người cha được nhiều mến yêu của các linh hồn này.
Tám ngày
sau, thi thể của ngài được an táng tại nghĩa trang ở Rednal Hill
Birmingham.
Theo ư của ngài, trên mộ bia của ḿnh ngài muốn
khắc
câu sau đây: “Ex umbris et imaginibus in veritatem – Từ tối tăm và ảo
ảnh tiến vào chân lư”. H́nh như một
trong ba nhận định của
Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI vào tối áp phong chân phước cho Đức Hồng Y Newman
đă cho thấy được tất cả ư nghĩa của câu mộ bia liên quan tới cả đời sống
này của người quá cố:
·
Đức Hồng Y Newman dạy chúng ta rằng nếu chúng ta đă chấp nhận sự
thật của Chúa Kitô và hiến cuộc đời của chúng ta cho Người th́ không
có vấn đề tách biệt giữa cái chúng ta tin tưởng và cách thức chúng
ta sống cuộc đời của ḿnh.
Tất cả những ǵ chúng ta nghĩ tưởng, nói năng và tác hành cần phải
hương đến vinh quang của Thiên Chúa và việc loan truyền Vương Quốc
của Ngài. Đức Hồng Y Newman đă hiểu được điều ấy, và đă trở thành
một nhà tranh đấu mạnh mẽ cho vai tṛ ngôn sứ của thành phần giáo
dân Kitô giáo. Ngài đă thấy rơ ràng rằng chúng ta không chấp nhận sự
thật bằng một tác động thuần tri thức cho bằng ôm ấp sự thật bằng
một năng lực thiêng liêng là những ǵ thấu tới tận thâm cung của hữu
thể chúng ta. Sự thật được truyền đạt không chỉ bằng giáo huấn chính
thức, quả thực là quan trọng, nhưng cũng bằng cả chứng từ của cuộc
đời được sống một cách nguyên tuyền, trung thành và thánh đức nữa;
những ai sống trong sự thật và bởi sự thật th́ theo bản năng của
ḿnh nhận thấy ngay những ǵ là sai trái, và v́ sai trái, chúng trở
thành độc hại cho sự mỹ và sự thiện là những ǵ giúp tỏa chiếu ánh
quang rạng ngời của chân lư, veritatis splendor.
Cuộc đời 89 tuổi của ngài đă để lại 33 tác phẩm, 11 cuốn trong thời gian
ngài c̣n theo Anh giáo, đặc biệt nhất là cuốn Tracts for the Times
(1833–1841) và cuốn Lectures on Justification (1838), và 22 cuốn
sau khi đă trở lại Công giáo, trong đó có 5 cuốn nổi tiếng sau đây:
Essay on the Development of Christian Doctrine (1845);
Retractation of Anti-Catholic Statements (1845); Idea of a
University (1852 and 1858);
Apologia
Pro Vita Sua
(autobiography– 1866, 1865) và
An Essay in Aid of a Grammar of Assent
(1870).
Trong bài giảng phong chân phước cho Đức Hồng Y Newman, Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI đă đề cập tới sứ vụ và sự nghiệp văn chương của ngài như
sau:
·
Chân Phước Newman viết: ‘Tôi có sứ vụ của ḿnh. Tôi là một móc nối
trong một sợi xích, một liên hệ móc nối giữa những con người. Ngài
đă không dựng nên tôi vô tích sự. Tôi sẽ hành thiện, tôi sẽ làm việc
của Ngài; tôi sẽ là thiên thần ḥa b́nh, là một giảng viên chân lư ở
vị thế của ḿnh… nếu tôi tuân giữ các giới huấn của Ngài và phục vụ
Ngài theo ơn gọi của tôi’ (Meditations and Devotions, 301-2). Việc
phục vụ nhất định Chân Phước John Henry Newman đă được kêu gọi liên
quan tới việc áp dụng trí óc sắc bén của ngài và ng̣i bút phong phú
của ngài vào nhiều ‘đề tài của thời đại’ rất khẩn thiết. Những minh
thức của ngài nơi mối liên hệ giữa đức tin và lư trí, nơi vị thế
quan trọng của tôn giáo được mạc khải ở xă hội văn minh, và nơi nhu
cầu cần đến một đường lối bao rộng đối với việc giáo dục không những
hết sức quan trọng đối với Victorian England, mà ngày nay c̣n tiếp
tục tác động và soi sáng nhiều người trên khắp thế giới nữa.
Mộ của ngài được khai quật lên vào ngày 2/10/2008 để mang hài tích của
ngài sang một phần mộ ở bên trong Birmingham Oratory (một điều hoàn toàn
ngược lại với ư muốn của ngài), trong thời gian án phong thánh của ngài
đang được cứu xét. Tuy nhiên, người ta không t́m thấy một dấu vết nào
hài tích của ngài, một sự kiện có thể đă bị gây ra bởi quan tài bằng gỗ
và việc chôn tàng ở ngay nơi ẩm thấp. Ngài đă được trở thành Đấng Đáng
Kính năm 1991 và một phép lạ đă được công nhận nhờ lời chuyển cầu của
ngài, nên ngài đă được phong chân phước ngày Chúa Nhật 19/9/2010 trong
chuyến tông du 4 ngày (16-19/9/2010) của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, vị
giáo hoàng người
Đức,
quốc gia xuất phát phong trào cải cách thệ phản tin lành từ thế kỷ 16,
ngay từ
khi mở màn cho giáo triều của ḿnh đă đặt vấn đề đại kết làm ưu tiên
hàng đầu của ḿnh,
và là
vị giáo hoàng thần học gia đă thành thực
công nhận trong bài chia sẻ của ḿnh vào tối áp, Thứ Bảy 18/9/2010, như
sau:
·
Như
anh chị em biết, Đức Hồng Y Newman đă lâu có một tầm ảnh hưởng quan
trọng trong đời sống và tư tưởng của tôi, như ngài đă ảnh hưởng đến
rất nhiều người ở bên ngoài những hải đảo này…
Lạy Chúa
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đă đến trong thế gian,
Chúa đă
yêu thương chung Giáo Hội và môn đệ Chúa cho đến cùng,
tới độ
Chúa đă tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lư,
nhờ đó
họ được hiệp nhất nên một trong Chúa và Cha
để cho
thế gian nhận biết Chúa đă được Cha sai.
Xin Nhựa
Sống Thánh Linh của Chúa luôn sung sức trong chúng con
để cành
nho chúng con có thể trổ sinh muôn vàn Hoa Trái Thần Linh cho Chúa,
như tân
Chân Phước John Henry Newman.
Amen.
|
|