Chúc Phúc Nguyền Rủa

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 492 Thứ Sáu 12/2/2010

 


 

Chúc Phúc: Bốn Phúc Đức của Bài Giảng Trên Núi

 

Để tiếp tục cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô: Sự Sống Tỏ Hiện trong Phụng Vụ Mùa Thường Niên năm C sau Mùa Giáng Sinh, vào Chúa Nhật Thứ Sáu tuần này, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm của Thánh Kư Luca tŕnh thuật về Bài Giảng Trên Núi Chúa dạy liên quan đến bốn phúc đức và bốn hoạn nạn.


Thật vậy, bài Phúc Âm Chúa Nhật VI Thường Niên Năm C tuần này cho thấy những ǵ được Chúa Giêsu chúc phúc và nguyền rủa được gọi là 4 phúc đức và 4 ác đức. Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại có 8 phúc đức và không nói ǵ đến 4 ác đức. Ở đây Phúc Âm Thánh Luca chỉ nói đến 4 trong 8 phúc đức này mà thôi, và c̣n thêm 4 ác đức ngược lại với 4 phúc đức nữa. 4 phúc đức được Thánh Luca ghi lại ở đây là nghèo khổ, đói khát, khóc lóc và nhục nhă, và 4 ác đức hoàn toàn ngược lại là giầu sang, no đầy, vui cười và vinh quang. Tức là phúc đức của người này là ác đức của người kia, hay ngược lại ác đức của người kia là phúc đức của người này. Chẳng hạn, nghèo khổ là phúc đức của người sống đức tin, lại là ác đức của người chỉ t́m giầu sang phú quí ở đời này; hay được vinh quang chúc tụng là những ǵ vô phúc cho những tâm hồn chỉ biết t́m vinh quang Thiên Chúa th́ lại là những ǵ diễm phúc cho thành phần tham quyền cố vị, ham danh trọng tiếng v.v.

 

Thật vậy, theo Phúc Âm Thánh Luca, Chúa Giêsu không nói đến Tám Mối Phúc Thật mà chỉ nói đến 4 này 4 kia thôi. Về bốn Phúc Đức Chúa Giêsu dạy trong Phúc Âm Thánh Luca, phúc thứ nhất cho người nghèo khó thứ tự giống như trong Kinh Tám Mối Phúc Thật, phúc thứ hai cho người đói khát lại là phúc thứ bốn trong Kinh Tám Mối Phúc Thật, phúc thứ ba cho người khóc lóc cũng là phúc thứ ba trong Kinh Tám Mối Phúc Thật, và phúc thứ bốn cho người bị bách hại là phúc thứ tám trong Kinh Tám Mối Phúc Thật. Nếu để ư so sánh chúng ta c̣n thấy, phúc thứ nhất ở đây Chúa Giêsu không nói rơ về người có tinh thần nghèo khó hay người có ḷng nghèo khó, mà chỉ nói trống về người nghèo khó th́ sẽ được nước Thiên Chúa; phúc thứ hai ở đây Chúa Giêsu cũng không nói rơ là khao khát nhân đức trọn lành, mà chỉ nói trống là đói khát vậy thôi th́ sẽ được phúc no đầy. Thêm vào đó, theo Phúc Âm Thánh Luca, Chúa Giêsu chẳng những nói trống mà c̣n nói mạnh nữa, ở chỗ Người lật ngược vấn đề, tức nói đến cả bốn cái khốn nạn của thành phần sống ngược lại với bốn mối phúc này.

 

Tuy có những điểm khác nhau như thế giữa Phúc Âm Thánh Luca hôm nay với Kinh Tám Mối Phúc Thật theo đoạn 5 của Phúc Âm Thánh Mathêu, nhưng cả hai Phúc Âm đều giống nhau về sự kiện cả hai đă tŕnh thuật để dẫn vào Bài Giảng Trên Núi. Ở đây tôi muốn nói đến môi trường và đối tượng của Bài Giảng Trên Núi.

 

Về môi trường của bài Giảng Trên Núi là ở trên núi, (bởi thế mới gọi là Bài Giảng Trên Núi), Phúc Âm Thánh Luca thuật lại rằng: “Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với 12 tông đồ và dừng lại trên một khoảng đất bằng”, và Phúc Âm Thánh Mathêu diễn tả là: “Khi thấy đoàn lũ dân chúng kéo đến th́ Người lên núi, và sau khi ngồi xuống… Người giảng dạy họ”. Chúng ta biết là địa điểm Chúa chọn để giảng cũng có ư nghĩa của nó, chẳng hạn Bài Giảng Trong Sa Mạc ở đoạn 6 của Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa đă nói về Bánh Hằng Sống, được tiên báo qua h́nh ảnh Manna là lương thực duy nhất Thiên Chúa đă ban cho dân Do Thái hưởng dùng trên đường họ băng qua sa mạc vào Đất Hứa, và Bài Giảng Trên Núi theo Phúc Âm Thánh Luca và Mathêu cũng vậy, Chúa cố ư nói về những ǵ trọn lành siêu vượt, trên tầm mức tầm thường thế gian.

 

Bởi vậy, cũng dễ hiểu thôi, đối tượng chính của Bài Giảng Trên Núi này trước hết là thành phần môn đệ thân cận với Người. Đó là lư do, chúng ta thấy Phúc Âm Thánh Luca ghi nhận: “Bấy giờ, người đưa mắt nh́n các môn đệ mà nói”, và Phúc Âm Thánh Mathêu cũng cho thấy: “Sau khi Người đă ngồi xuống, các môn đệ đến cùng Người. Người bắt đầu giảng dạy họ”. Phải chăng đó là ư nghĩa của câu Chúa trực tiếp nói với các tông đồ ngay sau khi liệt kê Tám Mối Phúc Đức và trước khi dẫn giải chi tiết Tám Mối Phúc Đức này, đó là câu 14 trong đoạn thứ 5 của Phúc Âm Thánh Mathêu: “Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi không thể nào khuất được nữa”. Chúng ta c̣n thấy một điểm nữa ở đây liên quan đến tiến tŕnh của phụng vụ, đó là tuần trước, bài Phúc Âm về việc Chúa Giêsu chinh phục các môn đệ đầu tiên làm nghê đánh cá, khiến các vị dứt khoát từ bỏ mọi sự để được Người huấn luyện cho thành những tay chài lưới người, thành phần chinh phục nhân tâm con người. Tuần này, Giáo Hội đă cố ư bỏ đi những phần c̣n lại của đoạn 5 sau đó của Phúc Âm Thánh Kư Luca, như đoạn về phép lạ chữa một người tật phong, rồi tới phép lạ chữa một người bại liệt, kể cả đoạn kêu gọi người thu thuế Lêvi tức Thánh Mathêu, và bỏ cả đoạn giải quyết vấn đề chay tịnh, mà sang ngay đầu đoạn 6, đoạn về Bài Giảng Trên Núi, bài giảng phúc đức trọn lành nhắm vào thành phần môn đệ của Người, thành phần Người sẽ sai đi chinh phục thế giới sau này, như ánh sáng chiếu trong tăm tối.

 

Ngoài ra, ngoài chi tiết về địa điểm và đối tượng của Bài Giảng Trên Núi, chúng ta cần lưu ư tới thứ tự của bốn Mối Phúc Đức nữa, một thứ tự rất ăn khớp với nhau theo tâm lư tự nhiên: chẳng hạn, v́ nghèo khó, t́nh trạng liên quan đến phúc thứ nhất, nên mới đói, cảm giác liên quan đến phúc thứ hai; và v́ đói nên mới khổ, gọi là đói khổ, được tỏ ra bằng tiếng khóc, thái độ liên quan đến phúc thứ ba; song nỗi khổ nhất của thành phần nghèo đói là ở chỗ chẳng những họ không được người đời thông cảm mà thường c̣n bị xă hội khinh thường, đàn áp và bóc lột nữa, hậu quả liên quan đến phúc thứ bốn. Áp dụng tâm lư của bốn mối phúc đức có liên hệ khít khao và chặt chẽ với nhau này vào lănh vực tu đức sống đạo, chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được tất cả sự thật và ư nghĩa của lời Chúa phán dạy không bao giờ sai lầm như sau.

 

Về phúc đức thứ nhất, những tâm hồn nghèo khó tức là những tâm hồn không dính bén với bất cứ một sự ǵ trên trần gian này, nên họ đă thực sự chiếm được Nước Trời, như trường hợp các tông đồ đă bỏ mọi sự sau khi được Chúa Giêsu kêu gọi như đoạn kết của bài Phúc Âm tuần trước cho thấy (x Lk 5:11), nên các vị đă được ở với Người là chính Nước Trời sống giữa các vị (x Lk 17:21).

 

Về phúc đức thứ hai, một khi sống nghèo khó thiêng liêng như thế, linh hồn chỉ biết trông đợi hoàn toàn nơi Thiên Chúa và chỉ có một nỗi đói khát duy nhất là Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối có thể làm cho ḷng mong đợi của họ được thỏa măn, và thực sự họ đă được no thỏa, được gấp trăm ngay ở đời này như trường hợp các thánh tông đồ xưa (x Mt 19:29), hay như trường hợp viên thu thuế lùn tên Giakêu (x Lk 19:4-6).

 

Về phúc đức thứ ba, mặc dù tên của họ có được ghi trên trời đi nữa, nghĩa là chắc chắn sẽ được rỗi đi nữa, không phải v́ thế mà họ không c̣n cần phải sống đức tin, tức không c̣n phải chịu thử thách, đau khổ nữa, trái lại, càng trung thành theo Chúa cho đến cùng, họ càng đau khổ, càng khóc lóc, như chính Đấng họ theo đă phải thốt lên: “Lạy Cha, sao Cha bỏ rơi Con” (Mt 25:46); thế nhưng, chính đau khổ ấy lại biến thành niềm vui cho họ, như trường hợp của người mẹ lúc lâm bồn sinh con th́ quằn quại đớn đau, song khi thấy con ra đời th́ vui mừng quên hết mọi sự (x Jn 16:20-21).

 

Về phúc đức thứ bốn cũng là phúc đức đệ nhất, phúc đức tuyệt đỉnh của những người môn đệ thực sự theo Chúa và theo Chúa cho đến cùng, đó là phúc được chịu mọi sự khốn khó v́ Chúa, nhất là phúc được chịu tử v́ đạo để chứng minh cho Đấng đă chết và sống lại v́ họ, như chính Người cũng đă chết để làm chứng cho chân lư là Người thực sự là Đấng Thiên Sai, Đấng đến cho chiên được sống và sống viên măn hơn. Điển h́nh của phúc này là trường hợp các tông đồ cảm thấy vui mừng v́ được chịu khốn khó v́ Chúa trong thời Giáo Hội vừa mới được khai sinh ở Giêrusalem (x. Acts 5:41).

 

Nguyền Rủa: Phải chăng Thiên Chúa là Đấng Ác Ôn?

 

Song song và tương phản với bốn phúc đức được Chúa Giêsu chúc phúc trên đây là bốn ác đức bị Người nguyền rủa và trở thành hoạn nạn cho những ai t́m kiếm và chiếm đoạt chúng. Về ư nghĩa những ác đức này cũng liên hệ với nhau một cách khít khao theo thứ tự như các phúc đức trên đây. Thật thế, kinh nghiệm sống nhân sinh cũng chứng thực những ǵ Chúa Giêsu tuyên phán về bốn ác đức đáng nguyền rủa này không hề sai lầm.

 

Trước hết, về mối hoạn nạn thứ nhất, “khốn cho các ngươi là kẻ giầu có, v́ các ngươi hiện đă được phần an ủi rồi”. Đúng thế, lư do tại sao người giầu có bị khốn đốn chính là v́ họ đă được an ủi, nghĩa là đă được sung sướng trong việc được ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, một thứ sung sướng thường làm cho con người dễ bị mê tham đến coi của hơn người, coi đời hơn Chúa, như trường hợp của người phú hộ trước thân phận cùng cực của Lazarô trước cổng nhà của ông, một con người được tổ phụ Anbraham nói rằng đă được an ủi trên đời này rồi (x Lk 16:19-21,25). Cái khốn khi được an ủi chính là ở chỗ con người vốn có ḷng tham vô đáy dễ dàng mù quáng trong việc đảo lộn giá trị của cuộc sống vậy, như trường hợp Dân Do Thái hễ b́nh yên th́ lại bỏ Chúa đi tôn thờ ngẫu tượng cho đến khi quay về với Ngài để được Ngài cứu cho khỏi ngoại bang thống trị. Như vậy, thà chịu khổ cực và bần cùng ở đời này mà, về phần tiêu cực, tránh được t́nh trạng tham lam vô đáy đến coi của hơn người và coi đời hơn Chúa đây, nhờ đó, về phần tích cực, con người dễ hướng về đời sau, về hạnh phúc thật và cuối cùng được đời đời cứu độ th́ không phải là có phúc hay sao?

 

Tiếp mối hoạn nạn thứ nhất là mối hoạn nạn thứ hai, “khốn cho các ngươi là kẻ đă được no nê đầy đủ, v́ các ngươi sẽ phải đói khát”. Tại sao? Nếu không phải v́ càng giầu có người ta lại càng trở nên nghèo khó, chẳng những bởi ḷng tham vô đáy, làm họ luôn bất an và thấy ḿnh luôn thiếu thốn, mà nhất là bởi thiếu thốn của ăn tinh thần, càng làm cho họ dù sống giữa mọi thứ tiện nghi vật chất song vẫn không bao giờ hoàn toàn thực sự thỏa nguyện, như trường hợp người thanh niên giầu có đến hỏi Chúa Giêsu anh phải làm ǵ để được sống đời đời, để rồi đă buồn bă bỏ đi sau khi nghe cách Người khuyên nên trọn lành (x Mk 10:17-23). Tân Chân Phước Têrêsa Calcutta đă nhận thấy hiện tượng rất điển h́nh này nơi một nhà chăm sóc những người già ở Âu Châu như sau: “Tôi đă thấy họ có hết mọi sự, có những thứ đẹp đẽ, nhưng hết mọi người đều ngồi hướng về phía cửa. Tôi không hề thấy một nụ cười nào nở ra trên môi miệng của họ. Tôi quay sang chị nữ tu hỏi: ‘Như thế nghĩa là làm sao? Những người có hết mọi sự ở đây mà làm sao tất cả mọi người lại cứ hướng mắt về phía cửa ra vào? Tại sao họ lại chẳng tươi cười ǵ cả?’ Người nữ tu trả lời: ‘Điều này hầu như xẩy ra hằng ngày như thế. Họ đang mong chờ, đang hy vọng là có người con trai hay con gái nào tới thăm viếng họ. Họ cảm thấy tủi đau v́ bị lăng quên” (Kathryn Spink, Mother Teresa, Harper San Francisco, 1997, page 169).


Từ mối hoạn nạn thứ hai sang mối hoạn nạn thứ ba, “khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, v́ các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc”. Thật vậy, kẻ giầu có dù có no nê, song vẫn đói khát v́ ḷng tham vô đáy của họ và nhất là v́ họ đói khát bởi thiếu lương thực thiêng liêng, nên cho dù họ có đang vui cười sung sướng về những thành đạt tạm bợ trên đời, họ vẫn cảm thấy chẳng những con người luôn bất an mà c̣n bị chính những thứ họ ham thích và tích trữ ấy làm họ phải ưu sầu khóc lóc nữa, như trường hợp Giuda Ích Ca bán Thày lấy của đă chết vô cùng thảm thương vậy (x Mt 27:3-5). Ngày nay, ở Âu Châu, nơi sặc mùi văn hóa sự chết, người ta thấy xuất hiện một trào lưu dường như muốn t́m về với đời sống tâm linh, dù qua phương pháp Thiền hay Yoga của các đạo giáo Đông Phương, nơi một số nhỏ tâm hồn cảm thấy văn minh không thể đáp ứng cái khát vọng sâu xa vô tận bẩm sinh của họ, cái khát vọng đă được Đại Tiến Sĩ Giáo Phụ Âu-Cơ-Tinh, sau cuộc đời hoang đường của ḿnh về cả nhục dục lẫn tri thức, đă giác ngộ và nói lên cảm nhận của ḿnh ngay ở chương đầu tiên cuốn Tự Thú của ḿnh: “Chúa đă dựng nên trái tim con cho Chúa, nên ḷng con khắn khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa”.

 

Sau cùng là mối hoạn nạn thứ bốn, “khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, v́ chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả”. Thường giầu sang đi với phú quí, và phú quí sinh lễ nghĩa, đó là lư do người giầu có thường được người đời trọng vọng và chúc tụng v.v. Thế nhưng, vinh quang trần thế không phải là một thứ phúc cho bằng là một thứ họa, v́ ḷng người nông cạn, chủ quan, vị kỷ luôn luôn thay đổi theo bộ diện bề ngoài của đối tượng, bởi thế, một khi thần tượng không được như ư nghĩ và ư thích của họ nữa, th́ họ đả đảo, truất phế, hạ bệ, như trường hợp tiên tri giả trong Cựu Ước chỉ được dân Do Thái ủng hộ và tôn sùng khi c̣n nói tiên tri có lợi cho họ, nói theo ư họ mà thôi. Thực tế của cái ác đức thứ tư này có thể thấy nơi các thần tượng như Michael Jackson, một thần tượng lừng danh về nhạc mang danh “Vua Nhạc Pop” chẳng những ở Mỹ mà c̣n trên khắp thế giới trong thập niên 1990, một thần tượng hốt bạc về cả đĩa nhạc lẫn những buổi lưu diễn thu hút vô số người lớn nhỏ, thế mà, từ đầu thiên niên kỷ thứ ba, chẳng những đă biến dạng mà c̣n (vào chính thời điểm phụng vụ Chúa Nhật VI Thường Niên 15/2/2004) đang trở thành một tṛ cười cho thiên hạ về vụ liên quan đến tính dục nữa.

 

Trong Sứ Điệp Mùa Chay 2004, nhất là trong Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Bệnh Nhân 11/2/2004, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đă đề cập đến và giải quyết vấn nạn tại sao Thiên Chúa vô cùng nhân ái và toàn năng mà lại để cho con người nói chung và nhiều người nói riêng phải cùng cực nghèo khổ hay chịu đủ mọi thứ khổ đau trên đời này, theo chiều hướng của bài Phúc Âm chúc phúc nguyền rủa đang được chúng ta chia sẻ đây:

 

“Những trẻ em này (những em bị người lớn hành khổ trong nền văn hóa sự chết hiện nay trên khắp thế giới) đă làm sự xấu nào mà lại phải gánh chịu khổ đau như thế? Theo quan điểm nhân loại th́ không dễ ǵ, thật sự là không thể, giải đáp vấn nạn nhức nhối này. Chỉ có đức tin mới khiến chúng ta bắt đầu hiểu được vực thẳm rất sâu xa của khổ đau mà thôi. Bằng việc “vâng lời cho đến chết cho dù chết trên thập giá” (Phil 2:8), Chúa Giêsu đă gánh chịu khổ đau nơi bản thân ḿnh và đă chiếu tỏ nó bằng ánh sáng rạng ngời của việc Người phục sinh. Người đă hoàn toàn chiến thắng tử thần bằng cái chết của Người. Trong Mùa Chay, chúng ta sửa soạn để sống lại Mầu Nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm chiếu tỏa ánh sáng hy vọng trên tất cả cuộc sống của chúng ta, thậm chí cả những khía cạnh phức tạp nhất và đau thương nhất. Tuần Thánh lại diễn ra trước mắt chúng ta mầu nhiệm cứu độ này nơi những nghi thức sống động của Tam Nhật Thánh” (đoạn 4).

 

“Từ cái mâu thuẫn của Thập Giá đă phát xuất ra câu giải đáp cho những vấn đề rắc rối nhất của chúng ta. Chúa Kitô đă chịu khổ v́ chúng ta. Người đă mang lấy nơi bản thân Người các thứ khổ đau của hết mọi người và cứu chuộc chúng. Chúa Kitô chịu khổ với chúng ta, cho chúng ta được thông phần đau khổ của chúng ta với đau khổ của Người. Liên kết với đau khổ của Chúa Kitô, đau khổ của nhân loại trở thành phương tiện cứu độ; đó là lư do tại sao tín hữu có thể cùng với Thánh Phaolô nói rằng “Giờ đây tôi v́ anh em vui mừng chịu đựng đau khổ của ḿnh, và tôi hoàn tất nơi xác thịt của ḿnh những ǵ c̣n thiếu nơi những đau thương của Chúa Kitô phải chịu v́ thân thể của Người là Giáo Hội” (Col 1:24). Được chấp nhận bằng đức tin, đau đớn trở thành cửa ngơ tiến vào mầu nhiệm khổ đau cứu chuộc của Chúa Kitô; một khổ đau không c̣n làm mất đi sự b́nh an và hạnh phúc v́ nó được chiếu tỏa bởi ánh quang của Cuộc Phục Sinh (đoạn 4). Xin Mẹ giúp cho hết mọi Kitô hữu biết làm chứng rằng chỉ có một giải đáp duy nhất cho đớn đau, khổ đau và chết chóc đó là Chúa Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đă chết và sống lại v́ chúng ta. (đoạn 6).

 

Đồng Hành Tác Vụ với Con

 

Chúng ta thường thắc mắc là không biết trong thời gian Chúa Giêsu đi rao giảng Nước Trời th́ Mẹ Maria ở đâu và làm ǵ, sau đây là một số trích đoạn về cuộc đời Mẹ Maria vào thời gian ấy trong cuốn Thần Đô Huyền Nhiệm do Phạm Duy Lễ dịch thuật.

 

Tới năm lên hai mươi bảy (27) tuổi, Chúa Giêsu đă bắt đầu cuộc rao giảng Phúc Âm của Chúa, không những bằng kinh nguyện, chay tịnh, thức cả đêm để cầu nguyện trên núi vắng, mà c̣n bằng nhiều cuộc thường xuyên cải thiện cho nhiều người. Đôi khi Chúa vắng mặt hai ba ngày liền. Trong những ngày đó, các thiên thần mặc h́nh người hiện ra giúp đỡ Mẹ Maria, mang đến cho Mẹ những tin tức về Con Chí Thánh Mẹ, theo lời Mẹ xin. Khi Chúa trở về, Mẹ liền ra qú gối đón rước Chúa, dọn cho Chúa một bữa ăn thanh đạm, cảm tạ Chúa v́ những ơn Chúa đă ban. Một hôm Chúa nói với Mẹ: "Mẹ ạ, đă đến thời gian Con phải chuẩn bị cho một số tâm hồn đón nhận giáo lư Con dậy, Con muốn Mẹ đồng công với Con trong việc này".

 

Từ hôm đó, Mẹ đi theo Chúa Giêsu trong hầu hết các lần Chúa ra khỏi Nagiarét. Rất nhiều lần Chúa đi tới các làng quanh vùng và chi tộc Neptali, như tiên tri Isaia đă nói trước. Ở đâu Chúa cũng loan báo là Chúa Cứu Thế đă đến rồi, nhưng không để cho người ta biết đó là chính Người. Chúa ủi an người đau khổ, nâng đỡ người cùng cực, viếng thăm người bệnh tật, khuyên giúp người hấp hối, gieo rắc ánh sáng, sức mạnh và ơn cứu rỗi khắp nơi. Mẹ Maria gần như lúc nào cũng là chứng nhân và đồng công vào những sự việc lạ lùng đó. Tuy nhiên, Mẹ đặc biệt thực thi đức bác ái đối với nữ giới, c̣n Chúa Giêsu cho nam giới. Những người nghèo khó là những người được thụ hưởng t́nh thương của Chúa hơn hết, v́ thường họ khiêm nhượng hơn, ôn ḥa hơn, và ít bị ràng buộc với trần thế hơn…

 

Sau khi rời khỏi Nagiarét, Chúa Giêsu đi về phía sông Giođan… Sau đó, Chúa Giêsu đă lui vào hoang địa…. Khi Chúa vừa lên đường vào hoang địa, Mẹ cũng đóng kín cửa nhà Mẹ lại để lui vào pḥng nguyện, và cầu xin chay tịnh suốt bốn mươi ngày, không ăn uống ǵ như Chúa.  Tại pḥng nguyện đó, Mẹ bắt chước Chúa trong tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời cầu nguyện, mọi cử chỉ bái qú và sấp ḿnh, với con số mỗi ngày ba trăm lần. Chính v́ thế mà Mẹ cũng được tham dự vào tất cả các diễn biến của việc ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu. 

 

Sau đó, Người lại trở lại bờ sông Giođan... Từ đó, Chúa ở lại miền Giuđêa suốt mười tháng để chuẩn bị cho miền đó đón Tin Mừng.  Người không làm phép lạ nào lừng lẫy cả, nhưng gieo rắc rất nhiều ân sủng phi thường, đến nỗi ngay từ đó người ta đă nh́n nhận Người là Vị Đại Tiên Tri.  Bắt chước Chúa, Thánh Nữ Đồng Trinh cũng bỏ nhà, đi khắp các làng lân cận để báo tin cho họ biết là Chúa Cứu Thế đă đến.  Mẹ soi sáng các tâm hồn, trừ ma quỉ, an ủi người sầu khổ, chữa lành người bệnh tật.  Trong các cuộc hành tŕnh ấy, Mẹ ăn rất ít, v́ đă được nâng đỡ bằng thực phẩm trời cao Chúa gửi cho từ rừng vắng. … Mặc dầu hăng hái với Chúa như vậy, Mẹ cũng vẫn rất đau khổ v́ không được ở liền bên Chúa, nên vẫn luôn luôn than lên những lời chua xót nhớ nhung…

 

Chẳng mấy lúc sau, Chúa Giêsu mang lại cho Mẹ một an ủi rất ngọt ngào.  …Người trở về Nagiarét, vừa đi vừa giảng Tin Mừng cho dân chúng.  Được biết là Chúa và môn đệ đoàn sắp về đến nơi, Mẹ Maria  sửa soạn tiếp đón họ. Khi đoàn Người về tới nhà, Mẹ đă đứng sẵn ở cửa.  Mẹ sấp ḿnh xuống trước mặt Chúa ngay, hôn chân tay Chúa và xin Chúa ban phép lành. Các ông môn đệ cũng qú gối trước mặt Mẹ, và xin Mẹ vui ḷng nhận họ làm con, làm tôi tớ Mẹ.  Thánh Gioan đă làm gương ấy trước nhất.  Ông luôn luôn được Mẹ kính yêu, v́ ông vừa khiêm nhượng, vừa hiền từ, nhất là v́ ông khiết trinh đến một mức độ cao cả.

 

Vừa tiếp tục đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu vừa luôn soi cho tất cả các môn đệ Người một ḷng tôn sùng đặc biệt đối với Mẹ Maria cho cân xứng với những phận vụ họ được chỉ định.  Những cuộc tiếp xúc với Mẹ cũng tăng thêm ḷng họ tôn kính và mến yêu đối với Mẹ.  Khi nghi nan hoặc bị cám dỗ, họ đều đơn thành chạy đến với Mẹ.  Mẹ yêu thương hết mọi người, nói với mọi người, cầu nguyện cho mọi người, và dậy dỗ mọi người theo như Mẹ biết được tâm hồn họ bao nhiêu, dậy dỗ cẩn thận bấy nhiêu.  Không bao giờ họ từ biệt Mẹ mà không cảm thấy một niềm vui và một an ủi vượt quá sức ước mong của họ.  Họ cảm thấy ngây ngất v́ ở nơi Mẹ đức hiền dịu rất thanh thản, rất khiêm nhượng, liên kết với biết bao uy nghi và cao trọng.  Nhưng họ không biết bầy giải ḷng tri ân và thán phục ấy cách nào.

 

Trong những cuộc tiếp xúc với những người đi theo Chúa, Mẹ rất cẩn trọng và khôn ngoan đặc biệt.  Như một bà Mẹ hiền thục nhất, Mẹ cung cấp nhu cầu nuôi sống họ, và, khi Mẹ không thể tự liệu được những nhu cầu họ cần dùng, Mẹ xin các thiên thần hầu cận mang đến cho họ.  Mẹ cũng đặc biệt săn sóc đến những phụ nữ quảng tâm đi theo Chúa, và Chúa đă  đoái nhận cho họ tận t́nh giúp đỡ Chúa.  Mẹ dẫn họ đi nghe Chúa giảng, và lấy đó làm đề tài truyện tṛ với họ. … Trong cả đám phụ nữ ấy, Mẹ yêu thương Maria Mađalêna nhất, v́ t́nh thương của Chúa đă giải  sáng trên bà.  Mẹ tỏ cho bà thấy những mầu nhiệm rất cao. Luôn luôn tăng thêm cho bà t́nh yêu mến Chúa Cứu Chuộc, và chấp nhận cho bà rút lui vào một nơi vắng để sám hối.  Sau này, bà đă được chính Mẹ giúp ư kiến và ban phép lành cho, trước khi rút vào cô tịch trong rừng vắng.  Tại đây Mẹ c̣n đến thăm bà một lần nữa và các thiên thần của Mẹ năng đến tăng sức mạnh cho bà trong nơi ẩn dật hoang liêu vắng lặng.

 

Đặc biệt là các tông đồ được Mẹ Maria  thiết tha yêu kính nhất.  Nhờ những ân sủng Mẹ xin cho các vị, các vị càng tăng thêm niềm tôn trọng và mến yêu Mẹ.  Tuy nhiên, Mẹ ưu ái thánh Phêrô và thánh Gioan nhất:  thánh Phêrô v́ sẽ là Đại Diện của Chúa Giêsu, c̣n thánh Gioan sẽ thay chỗ Chúa bên cạnh Mẹ.  Nhưng sự ưu ái ấy vẫn không làm cho các vị khác ganh tị.  Riêng thánh Gioan được một ánh sáng linh hoạt soi cho hơn các tông đồ khác về những cao trọng của Mẹ và của Thiên Chúa.  Được gọi là môn đệ dấu yêu của Chúa Giêsu cũng như môn đệ dấu yêu của Mẹ, thánh Gioan đă đem hết khả năng, để khỏi rời xa Mẹ, t́m cách làm hài ḷng Mẹ nhất, cư xử với Mẹ một cách tôn kính tha thiết nhất, và là người đầu tiên gọi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Chữa tội loài người, là Chủ Mẫu các dân tộc.  Ông cũng là người đầu tiên gọi Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu.  Sau này, các tín hữu thường dùng danh từ này để gọi Mẹ, và cứ mỗi lần nghe nói đến là Mẹ lại thỏa nguyện vô cùng.

 

Lạy Lời Nhập Thể là ánh sáng thật đă chiếu soi hết mọi người trong tăm tối.

Chỉ có Chúa mới là Đấng định đoạt lành dữ và chỉ cho nhân loại biết lành biết dữ.

Xin Thần Linh Chúa đă ban cho chúng con

qua các bí tích làm chủ con người và điều khiển cuộc đời Kitô hữu chúng con,

để như Mẹ Maria đầy ơn phúc khôn ngoan như rắn và chân thật như bồ câu,

chúng con luôn t́m kiếm những ǵ chân thiện nhất theo tinh thần Phúc Âm của Chúa,

cho Danh Cha muôn đời cả sáng.

Amen.