WGPSG
–
Phóng
viên
của
WGPSG
(PV)
đă
có
cuộc
gặp
gỡ
và
phỏng
vấn
ĐGM
Phêrô
Nguyễn
Văn
Khảm
(ĐGM) về
Bài
giảng
có
nội
dung
“Cánh
chung”
của
ngài
như
sau:
PV:
Thưa
Đức
cha,
trong
những
ngày
gần
đây,
một
số
anh
chị
em
giáo
dân
cảm
thấy
hoang
mang
khi
đọc
trên
mạng
internet
những
lời
phê
phán
bài
giảng
của
Đức
cha
dịp
lễ
Chúa
Kitô
Vua,
ngày
20-11-2011,
tại
Nhà
thờ
chính
ṭa
Sàig̣n.
Con
cũng
đi
dự
lễ
hôm
đó
nhưng
con
nhớ
Đức
cha
không
giảng
giống
như
người
ta
phát
trên
mạng.
Xin
Đức
cha
cho
biết
rơ
hơn.
ĐGM:
Đúng
thế,
ngày
lễ
Chúa
Kitô
Vua
vừa
rồi,
20-11-2011,
tôi
mới
ở Hà
Nội
về
và
đến
Nhà
thờ
chính
ṭa
để
chủ
sự
Thánh
Lễ
khai
mạc
Công
nghị
giáo
phận.
Trong
bài
giảng
hôm
đó,
tôi
gợi
ư về
định
hướng
cho
Công
nghị
chứ
không
nói
về
Cánh
chung.
C̣n
bài
người
ta
phát
trên
mạng
là
bài
giảng
từ
năm
1999,
cũng
ở
Nhà
thờ
chính
ṭa.
PV:
Như
vậy
là
đă
12
năm
rồi!
Tại
sao
lại
lấy
bài
giảng
của
12
năm
trước
và
gán
cho
Đức
cha
mới
giảng,
kèm
theo
nhiều
lời
phê
phán
như
vậy?
ĐGM:
Tôi
không
biết.
Điều
này
chắc
anh
phải
đi
hỏi
những
người
đưa
tin
thôi.
PV:
Trong
những
lời
phê
b́nh
bài
giảng,
nhiều
người
tập
trung
vào
điều
mà
Đức
cha
gọi
là
Cánh
chung
luận.
Đức
cha
có
thể
giải
thích
rơ
hơn
không?
ĐGM:
Đă
có
nhiều
vị
giải
thích
việc
này
rồi,
tôi
chỉ
xin
thêm
một
chút.
Từ
“Cánh
chung
luận”,
chúng
ta
dịch
từ
eschatologie
trong
tiếng
Pháp
hoặc
eschatology
trong
tiếng
Anh,
được
ghép
bởi
eschaton
là
sự
cuối
cùng,
và
logos
là
lời,
hoặc
như
Đức
Bênêđictô
XVI
hiện
nay
hay
cắt
nghĩa
là
lư
trí,
tư
tưởng.
Như
thế,
hiểu
chung
là
suy
tư
về
sự
cuối
cùng.
Với
người
công
giáo,
nói
đến
cánh
chung
luận
là
nói
đến
suy
tư
về
những
sự
cuối
cùng
của
đời
người
và
thế
giới,
cụ
thể
là
Chết,
Phán
Xét,
Thiên
Đàng,
Hỏa
Ngục.
Cho
nên
c̣n
gọi
là
Tứ
Chung.
Câu
hỏi
đặt
ra
là:
Những
anh
chị
em
ngoài
công
giáo,
kể
cả
những
người
không
tín
ngưỡng,
họ
có
suy
tư
về
sự
cuối
cùng
không,
ví
dụ,
về
cái
chết?
Và
điều
ǵ
sẽ
xảy
ra
sau
khi
chết?
Trịnh
Công
Sơn
chắc
chắn
không
phải
là
người
công
giáo,
tại
sao
âm
nhạc
của
ông
tràn
ngập
suy
tư
về
cái
chết:
“Bao
nhiêu
năm
rồi
c̣n
măi
ra
đi,
đi
đâu
loanh
quanh
cho
đời
mỏi
mệt,
trên
hai
vai
ta
đôi
vầng
nhật
nguyệt,
rọi
suốt
trăm
năm
một
cơi
đi
về”?
Và
nhiều
bài
khác
nữa,
đến
nỗi
có
người
nói
cái
chết
là
nỗi
ám
ảnh
khôn
nguôi
trong
các
sáng
tác
của
ông.
Mà
đâu
chỉ
một
ḿnh
Trịnh
Công
Sơn,
hầu
như
đă
làm
người,
ai
cũng
có
suy
nghĩ
về
sự
chết
và
thế
giới
sau
cái
chết.
Nếu
ai
cũng
băn
khoăn
về
cái
chết
th́
các
tôn
giáo
và
những
hệ
thống
triết
học
có
thể
không
quan
tâm
đến
chăng?
Đúng
hơn
là
tôn
giáo
nào
cũng
cố
gắng
đưa
ra
câu
trả
lời
cho
những
vấn
nạn
sâu
nhất
của
ḷng
người,
trong
đó
có
câu
hỏi
về
cái
chết
và
về
thế
giới
mai
sau.
Thế
nên,
nếu
hiểu
cánh
chung
luận
là
suy
tư
về
sự
cuối
cùng,
th́
có
thể
nói
tôn
giáo
nào
và
hệ
thống
triết
học
nào
cũng
hàm
chứa
một
cánh
chung
luận
nào
đó.
PV:
Nhưng
c̣n
với
chủ
nghĩa
Marx
th́
sao?
ĐGM:
Karl
Marx
cũng
cung
cấp
một
viễn
tượng
về
thế
giới
tương
lai
như
điểm
đến
của
lịch
sử.
Đó
là
một
thế
giới
lư
tưởng,
trong
đó
không
c̣n
cảnh
người
bóc
lột
người,
mọi
người
b́nh
đẳng
với
nhau,
làm
việc
theo
khả
năng
và
hưởng
thụ
theo
nhu
cầu.
Một
tác
giả
đă
gọi
đó
là
cánh
chung
luận
nội
thế
(eschatologie
intra-mondaine).
Và
viễn
tượng
đó
thu
hút
không
ít
người
trên
thế
giới.
PV:
Thưa
Đức
cha,
nhiều
người
khó
chịu
về
nhận
xét
này!
ĐGM:
Tôi
hiểu,
nhưng
cần
phân
biệt
giữa
ghi
nhận
và
lượng
giá.
Thực
tế
thế
nào,
cứ
ghi
nhận
như
vậy.
C̣n
lượng
giá
đúng
hay
sai,
thành
công
hay
thất
bại,
điều
đó
tùy
mỗi
người
và
lịch
sử
sẽ
chứng
minh.
Để
minh
họa
điều
này,
chỉ
cần
đọc
lại
một
trang
sách
của
nhà
thần
học
Joseph
Ratzinger,
bây
giờ
là
Đức
Giáo
Hoàng
Bênêđictô
XVI.
Ngài
viết
về
tác
động
của
chủ
nghĩa
Marx
tại
trường
đại
học
Tubingen
vào
thời
điểm
1967
như
sau:
“Chủ
thuyết
hiện
sinh
đă
sụp
đổ,
và
cuộc
cách
mạng
mác-xít
thắp
lên
nhiệt
t́nh
cho
cả
trường
đại
học,
lay
động
nó
đến
tận
nền
tảng.
Ít
năm
trước
đây,
người
ta
vẫn
c̣n
hi
vọng
các
phân
khoa
thần
học
là
thành
tŕ
chống
lại
sự
cám
dỗ
của
chủ
nghĩa
Marx.
Bây
giờ
t́nh
h́nh
đảo
ngược:
những
phân
khoa
thần
học
lại
trở
thành
trung
tâm
của
hệ ư
thức
mác-xít.
Việc
đưa
chủ
thuyết
hiện
sinh
vào
trong
thần
học,
như
Bultmann
đă
làm,
không
phải
là
không
có
những
nguy
hiểm
cho
thần
học.
Như
tôi
đă
nói,
trong
Kitô
học
của
tôi,
tôi
đă
cố
gắng
chống
lại
“phương
pháp”
giảm
trừ
của
chủ
thuyết
hiện
sinh
(existentialist
reduction),
cách
riêng
trong
giáo
huấn
về
Thiên
Chúa.
Lúc
này
lúc
khác,
tôi
c̣n
cố
gắng
vận
dụng
cả
tư
tưởng
của
Marx
để
tạo
lực
đối
trọng,
bởi
lẽ ở
cội
rễ
chủ
nghĩa
cứu
thế
– Do
thái
của
nó
(Jewish-messianic
roots),
chủ
nghĩa
Marx
vẫn
c̣n
giữ
được
những
yếu
tố
chủ
đạo
của
Kinh
Thánh.
Thế
nhưng
sự
phá
hủy
thần
học
đang
diễn
ra
(qua
việc
chính
trị
hóa
thần
học
như
được
quan
niệm
trong
chủ
nghĩa
cứu
thế
của
Marx),
lại
c̣n
sâu
xa
hơn,
v́
chủ
nghĩa
Marx
lấy
niềm
hi
vọng
trong
Kinh
Thánh
làm
nền
tảng
nhưng
lại
đảo
ngược
niềm
hi
vọng
ấy,
bằng
cách
vẫn
giữ
nhiệt
t́nh
tôn
giáo
nhưng
lại
loại
trừ
Thiên
Chúa
ra
và
thay
thế
vào
đó
bằng
hoạt
động
chính
trị
của
con
người.
Niềm
hi
vọng
vẫn
c̣n
đó,
nhưng
đảng
chiếm
vị
trí
của
Thiên
Chúa,
và
cùng
với
đảng
là
chủ
nghĩa
độc
tài
chuyên
chính,
thực
hành
thứ
“tôn
giáo”
vô
thần,
sẵn
sàng
hi
sinh
tất
cả
nhân
tính
cho
thần
tượng
giả
tạo
của
nó.
Bản
thân
tôi
đă
thấy
khuôn
mặt
kinh
sợ
của
thứ
đạo
đức
vô
thần
này,
sự
đe
dọa
của
nó
về
mặt
tâm
lư,
sự
buông
thả
khiến
cho
người
ta,
một
khi
đă
đạt
được
mục
đích
ư
thức
hệ
rồi,
có
thể
vứt
bỏ
mọi
quan
tâm
đạo
đức
v́
coi
đó
là
cặn
bă
tư
sản.
Tất
cả
những
điều
đó
thật
đáng
báo
động
ở tự
nó,
nhưng
c̣n
trở
thành
thách
đố
khủng
khiếp
hơn
nữa
đối
với
nhà
thần
học
khi
thấy
hệ ư
thức
đó
lại
được
cổ
vơ
nhân
danh
đức
tin
và
Giáo
Hội
bị
sử
dụng
như
một
công
cụ”
(Joseph
Ratzinger,
Milestones,
Memoirs
1927-1977,
Ignatius
Press,
San
Francisco:
1998,
137).
Cũng
v́
thế,
nhà
thần
học
Joseph
Ratzinger
quyết
định
giă
từ
Tubingen
để
về
Regensburg,
nơi
ngài
giảng
dạy
cho
đến
khi
được
gọi
làm
giám
mục.
Như
thế,
một
đàng,
nhà
thần
học
Jospeh
Ratzinger
ghi
nhận
sự
cuốn
hút
của
chủ
nghĩa
Marx
trong
môi
trường
đại
học
lúc
đó,
hơn
nữa
ngài
c̣n
vận
dụng
tư
tưởng
của
Marx
khi
giảng
dạy
thần
học.
Đàng
khác,
ngài
đánh
giá
chủ
nghĩa
ấy ở
chiều
sâu
để
thấy
được
mối
nguy
hiểm
trên
nhiều
b́nh
diện.
Cho
nên,
cần
phân
biệt
giữa
ghi
nhận
và
lượng
giá.
PV:
Cảm
ơn
Đức
cha
đă
trích
dẫn
những
nhận
định
sâu
sắc
của
nhà
thần
học
Joseph
Ratzinger.
Tại
sao
Đức
cha
lại
nói
về
điều
này
trong
bài
giảng?
ĐGM:
Câu
hỏi
của
anh
liên
quan
đến
một
câu
hỏi
khác:
Tôi
giảng
cho
ai?
Lúc
đó,
mỗi
Chúa
nhật,
tôi
dâng
lễ
tại
Nhà
thờ
chính
ṭa
lúc
18:30.
Cử
tọa
của
tôi
là
các
bạn
sinh
viên
và
các
anh
chị
trung
niên,
phần
đông
là
người
học
thức.
Họ
được
học
về
chủ
nghĩa
Marx
ở
đại
học.
Họ
không
xa
lạ
ǵ
về
những
điều
tôi
nói.
Điều
quan
trọng
là
khởi
đi
từ
đó,
tôi
muốn
tŕnh
bày
về
Vương
quốc
Chúa
Kitô,
Vương
quốc
của
Đấng
chịu
đóng
đinh
trên
thập
giá,
Vương
quốc
của
t́nh
yêu
chứ
không
phải
hận
thù,
và
chỉ
có
t́nh
yêu
mới
đem
lại
sự
sống.
PV:
Đức
cha
có
muốn
nói
ǵ
thêm
về
vấn
đề
này
không?
ĐGM:
Tôi
tôn
trọng
ư
kiến
mọi
người.
Nếu
mong
muốn
điều
ǵ,
tôi
chỉ
mong
mọi
người
tôn
trọng
lẫn
nhau
khi
thảo
luận
về
bất
cứ
vấn
đề
ǵ.
Tôi
vẫn
nhớ
lời
căn
dặn
của
Đức
Bênêđictô
XVI
về
việc
truyền
thông.
Ngài
dùng
bốn
từ
để
diễn
tả
sự
truyền
thông
chân
chính:
trung
thực,
cởi
mở,
tôn
trọng
người
khác,
có
tinh
thần
trách
nhiệm.
Giữ
được
như
vậy,
các
phương
tiện
truyền
thông
sẽ
là
những
phương
tiện
tuyệt
vời
để
loan
báo
Tin
Mừng
t́nh
thương
và
sự
sống.
PV:
Xin
chân
thành
cảm
ơn
Đức
cha.