Đức Thánh Cha Biển Đức XVI:
Các Bài Giảng trong Tuần Thánh và Đại Lễ Phục Sinh
(tuyển
dịch nguyên văn những lời tiêu biểu trong các bài giảng của ngài)
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch theo tín
liệu được Zenit phổ biến ngày 17,21,23-24/4/2011
Lễ Lá Chúa
Nhật 17/4/2011 Vào Tuần Thương Khó
“Chúa
Giêsu Kitô, Đấng từ Cha đă xuống với chúng ta, và bằng t́nh yêu
thương tử giá của ḿnh, đang nắm tay chúng ta và nâng chúng ta lên
cao….”
… Việc
rước lá hôm nay mang ư nghĩa là một h́nh ảnh của những ǵ sâu xa hơn,
phản ảnh sự kiện là, cùng với Chúa Giêsu, chúng ta bắt đầu cuộc hành
tŕnh của chúng ta trên con đường trường dẫn đến Vị Thiên Chúa hằng
sống. Vấn đề chính yếu ở đây đó là một cuộc tiến lên. Đây là một
cuộc hành tŕnh chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi thực hiện. Thế
nhưng, làm thế nào chúng ta có thể nhịp bước với cuộc tiến lên này?
Nó chẳng vượt ngoài khả năng của chúng ta hay sao? Thật sự là thế,
nó vượt ngoài những khả thể của chúng ta. Từ ban đầu, con người nam
nữ đă ham muốn “được giống như Thiên Chúa” – ngày nay điều này đúng
hơn bao giờ hết – muốn đạt đến tột đỉnh của Thiên Chúa bằng quyền
lực của ḿnh. Tất
cả mọi sáng chế của tinh thần con người tận kỳ cùng đều là một nỗ
lực để làm sao có được những cánh bay hầu vươn lên tới tột đỉnh của
Hữu Thể và trở nên độc lập, hoàn toàn tự do, như Thiên Chúa tự do.
Nhân loại
đă vận dụng để hoàn thành rất nhiều điều: chúng tôi có thể bay!
Chúng tôi có thể thấy, nghe và nói với nhau từ những tận cùng trái
đất này. Thế mà cái sức của trọng lực kéo chúng ta xuống th́ mănh
liệt. Cùng với việc gia tăng về những khả năng của chúng ta cũng có
cả việc gia tăng chẳng những về sự thiện. Các khả thể của chúng ta
đối với sự dữ đă gia tăng và xuất hiện như là những cơn băo tố đe
dọa lịch sử. Những giới hạn của chúng ta vẫn c̣n đó: chúng ta chỉ
cần nghĩ đến các tai ương thảm họa gây ra rất nhiều khổ đau cho nhân
loại trong những tháng gần đây.
Các Giáo
Phụ của Hội Thánh chủ trương rằng đứng ở giữa hai chiều trọng lực.
Trước hết là một trọng lực kéo chúng ta xuống – hướng về vị kỷ, sai
lầm và sự dữ; một trọng lực làm giảm thiểu chúng ta và tách biệt
chúng ta khỏi những tột đỉnh của Thiên Chúa. Trái lại, cũng có một
trọng lực của t́nh yêu Thiên Chúa: sự kiện chúng ta được Thiên Chúa
yêu thương và chúng ta đáp ứng bằng yêu thương lôi kéo chúng ta
hướng lean. Con người t́m thấy ḿnh ở giữa cái trọng lực lưỡng diện
này; hết mọi sự đều lệ thuộc vào việc chúng ta thoát khỏi chiều
trọng lực sự dữ và trở nên tự do để được hoàn toàn thu hút bởi trọng
lực Thiên Chúa là những ǵ làm cho chúng ta nên chuyên chính, là
những ǵ thăng hóa chúng ta và làm cho chúng ta được tự do thực sự.
… Việc
khiêm nhượng của Thiên Chúa là một h́nh thức cực đoan của t́nh yêu
Ngài, và t́nh yêu khiêm hạ này là những ǵ kéo chúng ta lên….
Các
thành đạt lớn lao về kỹ thuật là những ǵ giải phóng và góp phần vào
mức tiến bộ của nhân loại chỉ khi nào chúng được liên hợp với các
thái độ này – ở chỗ bàn tay của chúng ta trở nên thanh sạch và tâm
can của chúng ta trở nên tinh tuyền, ở chỗ chúng ta biết t́m kiếm
chân lư, ở chỗ chúng ta biết t́m kiếm Thiên Chúa và chúng ta để ḿnh
được chạm tới và thử luyện bởi t́nh yêu của Ngài.
Tất cả mọi phương thức này của việc “tiến lên” chỉ hiệu nghiệm nếu
chúng ta khiêm nhượng nh́n nhận rằng chúng ta cần phải được nâng lên;
nếu chúng ta từ bỏ cái kiêu hănh muốn trở thành Thiên Chúa.
Vấn
nạn làm thế nào con người có thể đạt đến tột đỉnh, khi hoàn toàn trở
thành bản thân ḿnh và hoàn toàn như Thiên Chúa, bao giờ cũng bao
gồm nhân loại.
Vấn nạn
này đă được hăng say tranh luận bởi các triết gia theo trường phái
Platô ở thế kỷ thứ ba và thứ tư. Đối với họ, vấn đề chính yếu đó là
t́m cách thức thanh tẩy nào có thể giải thoát con người khỏi gánh
nặng đè nén họ, nhờ đó giúp họ có thể tiến lean tới tột đỉnh của hữu
thể đích thực của ḿnh, tới tột đỉnh của thần linh. Thánh Âu Quốc
Tinh, trong khi t́m kiếm đường ngay nẻo chính đă từng t́m đến những
thứ triết thuyết ấy. Thế nhưng, cuối cùng ngài đă thấy rằng những
giải đáp của họ c̣n khiếm khuyết, các phương pháp của họ không thật
sự dẫn đến Thiên Chúa. Ngài đă nói với các triết gia ấy rằng: hăy
nh́n nhận rằng quyền lực của con người cùng với tất cả những thứ
thanh tẩy ấy thực sự không đủ sức mang con người đến tột đỉnh của
thần linh, tới tột đỉnh của ḿnh. Rồi ngài đă thêm là con người cần
phải thất vọng về bản thân ḿnh và về đời sống của con người nếu họ
không t́m thấy Đấng hoàn thành những ǵ chính chúng ta không thể
thực hiện; Đấng nâng chúng ta lên tới tột đỉnh của Thiên Chúa bất
chấp nỗi yếu hèn khốn nạn của chúng ta: Chúa Giêsu Kitô,
Đấng từ
Cha đă xuống với chúng ta, và bằng t́nh yêu thương tử giá của ḿnh,
đang nắm tay chúng ta và nâng chúng ta lên cao….
Thứ Năm
Tuần Thánh 21/4/2011 Lễ Sáng Truyền Dầu
“Dầu là biểu hiệu của Thánh Linh, đồng thời hướng chúng ta về Chúa
Kitô: chữ “Christ” (Đấng Thiên Sai) có nghĩa là ‘Đấng được xức dầu’”.
Ở tâm điểm của phụng vụ sáng nay là việc làm phép các loại dầu thánh
– dầu xức cho thành phần dự ṭng, dầu xức kẻ liệt và dầu thánh giành
cho các bí tích thông ban Thánh Linh là bí tích thêm sức, bí tích
truyền chức linh mục và tấn phong giám mục. Nơi các bí tích, Chúa
chạm đến chúng ta bằng các yếu tố của thiên nhiên tạo vật. Mối hiệp
nhất giữa việc tạo dựng và cứu chuộc được trở nên hữu h́nh. Các bí
tích là một thứ thể hiện về thể chất tính của đức tin chúng ta, một
thể hiện bao gồm toàn thể con người, thân xác và linh hồn. Bánh và
rượu là hoa trái của trái đất và lao công của bàn tay con người.
Chúa đă chọn chúng để trở nên nơi hiện diện của Người. Dầu là
biểu hiệu của Thánh Linh, đồng thời hướng chúng ta về Chúa Kitô: chữ
“Christ” (Đấng Thiên Sai) có nghĩa là “Đấng được xức dầu”.
Nhân tính của Chúa Giêsu, bởi mối hiệp nhất của Con với Cha, được
hiệp thông với Thánh Linh và v́ thế “đă được xức dầu” một cách đặc
biệt, được Thánh Thần thấm nhập. Những ǵ xẩy ra một cách biểu hiệu
cho các vị vua và tư tế trong Cựu Ước khi họ được tấn phong làm thừa
tác vụ của ḿnh bằng việc xức dầu xẩy ra hoàn toàn thực sự nơi Chúa
Giêsu: nhân tính của Người được quyền năng của Thánh Thần thấm nhập.
Người hướng nhân tính của chúng ta về tặng ân Thánh Linh. Chúng ta
càng liên kết với Chúa Kitô chúng ta càng nay tràn Thần Linh của
Người, đầy tràn Thánh Thần. Chúng ta được gọi là “Kitô hữu”:
“những kẻ được xức dầu” – thành phần thuộc về Chúa Kitô và v́ thế
được thông dự vào việc xức dầu của Người, được Thần Linh của Người
chạm đến….
Trong phụng vụ hôm nay, như tôi đă đề cập tới trên đây, có ba thứ
dầu được làm phép. Chúng là 3 chiều kích thiết yếu của đời sống Kitô
giáo là những ǵ giờ đây chúng ta chia sẻ. Trước hết là dầu cho
thành phần dự ṭng. Dầu này cho thấy cách thức đầu tiên họ được Chúa
Kitô và Thần Linh của Người chạm tới – một đụng chạm nội tâm nhờ đó
Chúa Kitô kéo con người đến gần với Người. Nhờ việc xức dầu đầu tiên
này, được thực hiện thậm chí trước cả phép rửa, ánh mắt của chúng ta
hướng về thành phần đang hành tŕnh tiến đến với Chúa Kitô – thành
phần đang t́m kiếm đức tin, đang kiếm t́m Thiên Chúa. Dầu dự
ṭng nói với chúng ta rằng không phải chỉ chúng ta t́m kiếm Thiên
Chúa mà chính Thiên Chúa đang t́m kiếm chúng ta. Sự kiện Ngài đă tự
hóa thân làm người và đă xuống tận vực thẳm của cuộc sống con người,
thậm chí tới bóng tối chết chóc, chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng
Thiên Chúa yêu thương loài người tạo vật của Ngài biết bao…
Thế rồi tới dầu bệnh nhân… Chữa lành là một trong những việc nồng
cốt được Chúa Giêsu trao phó cho Giáo Hội, theo gương Người thực
hiện khi Người hành tŕnh khắp nơi chữa lành kẻ yếu đau tật nguyền.
Thật sự việc chính yếu của Giáo Hội là loan truyền Vương Quốc của
Thiên Chúa. Thế nhưng chính việc loan truyền này cần phải là một
tiến tŕnh chữa lành: “băng bó tâm hồn tan nát”, chúng ta đă nghe
thấy trong bài đọc thứ nhất hôm nay của tiên tri Isaia (61:1).
Việc loan truyền Vương Quốc của Thiên Chúa, của ḷng lành vô hạn
của Thiên Chúa, trước hết cần phải mang lại việc chữa lành cho các
tấm ḷng tan nát đau thương.
Theo bản
tính th́ con người là một hữu thể liên hệ. Thế nhưng, nếu mối liên
hề nền tảng, mối liên hệ với Thiên Chúa, bị lũng đoạn, th́ tất cả
những mối liên hệ c̣n lại cũng bị gián đoạn khủng hoảng nữa…. Chúng
ta không thể nào thực sự lành mạnh nơi thân xác và tâm hồn. V́ thế,
việc chữa lành đầu tiên và nồng cốt diễn ra nơi việc chúng ta gặp gỡ
Chúa Kitô là Đấng ḥa giải chúng ta với Thiên Chúa và băng bó tấm
ḷng tan nát của chúng ta. Thế nhưng ở trên và bên trên công việc
chính yếu này, sứ vụ thiết yếu của Giáo Hội cũng bao gồm việc chữa
lành bệnh tật và khổ đau. Dầu để xức cho bệnh nhân là một biểu hiện
hữu h́nh về bí tích của sứ vụ này…
Sau hết,
thứ ba là thứ dầu cao sang nhất trong các thứ dầu của giáo hội, một
thứ hợp chất giữa dầu oliu và những thứ dầu thảo mộc thơm tho. Nó là
một thứ dầu xức cho các vị tư tế và vua, tiếp tục các truyền thống
xức dầu cao cả của Cựu Ước. Trong Giáo Hội Dầu này được sử dụng
chính yếu cho bí tích thêm xức và truyền cức thánh. Phụng vụ hôm nay
liên kết dầu này với lời hứa của tiên tri Isaia: “Các người sẽ được
gọi là các linh mục của Chúa, người ta sẽ nói về các người như là
thành phần thừa tác viên của Thiên Chúa chúng ta”….
Đối với
tất cả cảm thức xấu hổ về những thua bại của ḿnh, chúng ta không
được quên rằng cả ngày nay nữa vẫn có những tấm gương rạng ngời về
đức tin, thành phần cống hiến niềm hy vọng cho thế giới qua đức tin
và đức mến của họ. Vào ngày 1/5 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
được phong chân phước, chúng ta sẽ nghĩ về ngài, bằng một con t́m
tràn đầy niềm tri ân cảm tạ, như là một đại chứng nhân cho Thiên
Chúa cũng như cho Chúa Giêsu trong thời đại của chúng ta, như là một
con người tràn đầy Thánh Linh…
Thứ Năm
Tuần Thánh 21/4/2011 Lễ Chiều Tiệc Ly
“Những
lời truyền phép biến thể là những ǵ thuộc về việc cầu nguyện này
của Chúa Giêsu…
lời cầu nguyện của Chúa Giêsu mang một ư nghĩa Thánh Thể đặc biệt”
“Thày
thiết tha mong muốn ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi Thày
chịu đau khổ” (Lk 22:15). Bằng những lời này, Chúa Giêsu bắt
đầu cử hành bữa cuối cùng của Người và thiết lập Bí Tích Thánh Thể….
Nơi niềm mong ước thiết tha này của Chúa Giêsu, chúng ta có
thể nhận thấy ḷng mong muốn của chính Thiên Chúa – một t́nh yêu
mong chờ đối với nhân loại, đối với tạo vật của Ngài. Một t́nh yêu
đang chờ đợi giây phút hiệp nhất, một t́nh yêu muốn lôi kéo nhân
loại tới với ḿnh và nhờ đó làm trọn ước muốn của tất cả mọi tạo vật,
v́ tạo vật ngong ngóng trông đợi việc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa
(x Rm 8:19). Chúa Giêsu mong muốn chúng ta, Người chờ đợi
chúng ta. Thế nhưng phần chúng ta th́ sao? Chúng ta có thực sự mong
muốn Người chăng? Chúng ta có náo nức gặp gỡ Người chăng? Chúng ta
có muốn gặp Người, trở nên một với Người, lănh nhận các tặng ân
Người ban cho chúng ta trong Thánh Thể chăng? Hay chúng ta tỏ ra
dửng dưng lạnh lùng, phân tâm và bận bịu về những thứ khác?
Từ những
dụ ngôn về bữa tiệc của Chúa Giêsu chúng ta thấy rằng Người biết hết
tất cả mọi chỗ trống nơi bàn tiệc, biết những lời mời gọi bị chối từ,
biết được cái chẳng hứng thú ǵ đối với Người cũng như với việc gần
gũi Người. Đối với chúng ta, những chỗ trống ở bàn tiệc trong bữa
tiệc cưới này của Chúa, dù có lư hay chăng, không c̣n là một dụ ngôn
mà là một thực tại, nơi chính những xứ sở được Ngài đặc biệt tỏ ra
gần gũi. Chúa Giêsu cũng biết về thành phần khách khứa đến với bữa
tiệc mà không mặc áo cưới – họ đến không phải để hoan hưởng việc
hiện diện của Người mà chỉ theo thói quen, v́ ḷng họ ở một nơi nào
khác. Ở một trong những bài giảng của ḿnh, Thánh Grêgôriô Cả đă đặt
vấn đề là: Ai trong những người này đến mà không mặc áo cưới?
Áo này là ǵ và làm sao có được áo ấy? Ngài đă trả lời rằng
những ai được mời vào có đức tin một cách nào đó. Chính đức
tin mở cửa cho họ. Thế nhưng họ thiếu áo cưới yêu thương. Những ai
không sống đức tin của ḿnh như yêu thương là thành phần chưa sẵn
sàng dự tiệc cưới và bị loại ra ngoài. Mối hiệp thông Thánh Thể đ̣i
phải có đức tin, thế nhưng đức tin đ̣i phải yêu thương; bằng không,
cho dù có đức tin cũng chỉ là một đức tin chết.
… Ở bữa
cuối cùng của ḿnh, hơn bất cứ một sự ǵ khác, đó là việc Chúa Giêsu
cầu nguyện. Thánh Mathêu, Marcô và Luca sử dụng 2 chữ để diễn tả
việc cầu nguyện của Chúa Giêsu ở vào lúc tột điểm của bữa này:
“eucharístesas” và “eulĩgesas” – những động từ “tạ ơn” và “làm phép”.
Tác động hướng lên tạ ơn và tác động hướng xuống làm phép đi với
nhau. Những lời truyền phép biến thể là những ǵ thuộc về việc
cầu nguyện này của Chúa Giêsu. Chính chúng là những
lời cầu nguyện. Chúa Giêsu đă biến nỗi khổ đau của Người thành lời
cầu nguyện, thành một lễ dâng lên Cha cho nhân loại. Việc biến đổi
khổ đau của Người thành t́nh yêu có một mănh lực biến đổi các tặng
ân bấy giờ Người trao ban bản thân ḿnh. Người đă ban những tặng ân
ấy cho chúng ta, để chúng ta và thế giới của chúng ta được biến đổi.
Mục đích tối hậu của việc biến đổi Thánh Thể đó là việc chúng ta
được biến đổi trong mối hiệp thông với Chúa Kitô. Thánh Thể hướng về
con người mới, thế giới mới, những ǵ chỉ có thể xuất phát từ Thiên
Chúa, qua thừa tác vụ của Người Tôi Tớ Thiên Chúa.
….. Trong
Bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu cũng cầu nguyện cùng Cha… Mối hiệp nhất Kitô
hữu có thể hiện hữu chỉ khi nào Kitô hữu sâu xa hiệp nhất với Người,
với Chúa Giêsu. Niềm tin tưởng và t́nh yêu đối với Chúa Giêsu, niềm
tin vào việc Người hiệp nhất với Cha và muốn trở nên một với Người
là những ǵ thiết yếu. Bởi vậy, mối hiệp nhất này không phải là
những ǵ thuần nội tâm hay thần bí. Nó cần phải trở nên hữu h́nh,
hữu h́nh đến độ chứng tỏ trước thế gian rằng Chúa Giêsu được Cha sai.
Bởi thế, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu mang một ư nghĩa Thánh
Thể đặc biệt được Thánh Phaolô rơ ràng nêu lên trong bức Thư Thứ
Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô: “Tấm bánh chúng ta bẻ ra không phải là
việc thông dự vào thân ḿnh của Chúa Kitô hay sao? V́ chỉ có một tấm
bánh, chúng ta dù nhiều cũng chỉ là một thân thể duy nhất, v́ tất cả
chúng ta đều tham dự vào một tấm bánh duy nhất” (10:16ff).
… Thánh
Luca giữ cho chúng ta một yếu tố cụ thể về việc cầu nguyện cho hiệp
nhất của Chúa Giêsu: “Simon, Simon, này Satan đă muốn sàng con như
sàng lúa, thế nhưng Thày đă cầu nguyện cho con để con không mất đức
tin; và khi con trở lại, con hăy củng cố anh em con” (22:31)…. Thế
nhưng Thánh Phêrô cần phải hoán cải ở chỗ nào? …
Ở Caesarea Philippi Thánh Phêrô không thể chấp nhận Chúa Giêsu
phải chịu đau khổ và tử giá: nó không hợp với h́nh ảnh của Thiên
Chúa và của Đấng Thiên Sai. Ở Căn Thượng Lầu, ngài không muốn cho
Chúa Giêsu rửa chân ngài: nó không xứng với h́nh ảnh và phẩm vị làm
Thày của Người… Cả chúng ta nữa, tất cả chúng ta cần
phải một lần nữa biết chấp nhận Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô như
Người là chứ không phải theo đường lối chúng ta muốn Người là. Chúng
ta cũng thấy ḿnh khó chấp nhận là Người bị g̣ bó với những giới hạn
của Giáo Hội Người cũng như của thành phần thừa tác viên của Người.
Cả chúng ta nữa cũng không muốn chấp nhận rằng Người tỏ ra bất lực
trong thế giới này. Cả chúng ta nữa t́m cách chữa ḿnh khi việc làm
môn đệ của Người trở thành những ǵ quá ư hy sinh, quá ư nguy hiểm.
Tất cả chúng ta cần một thứ hoán cải giúp chúng ta có thể chấp nhận
Chúa Giêsu nơi chính thực tại của Người vừa là Thiên Chúa vừa là con
người…
Thứ Bảy Lễ
Đêm Vọng Phục Sinh 23/4/2011
“Thế
giới là sản phẩm của Lời, của Logos… Thế nên thế giới này có thể
được cứu độ”.
Việc cử hành phụng vụ Đêm Vọng Phục Sinh sử dụng hai dấu hiệu hùng
hồn. Trước hết lửa
trở thành ánh sáng… Nó nói với chúng ta về Chúa Kitô như ngôi
sao mai đích thực không bao giờ lặn – Vị Chúa Phục Sinh nơi
Người ánh sáng đă chiến thắng tối tăm. Dấu hiệu thứ hai là
nước. Một đàng nó nhắc nhở đến nước của Biển Đỏ,
đến những ǵ là suy yếu và chết chóc, đến mầu nhiệm Thánh Giá. Thế
nhưng giờ đây nó biểu hiệu trước chúng ta như nước suối, một
yếu tố ban sự sống giữa khô cằn. Như thế, nó trở thành h́nh
ảnh của bí tích rửa tội, nhờ đó chúng ta trở thành những kẻ thông
phần vào cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên,
những dấu hiệu lớn lao về thiên nhiên này, ánh sáng và nước, không
phải là những yếu tố cấu tạo duy nhất của phụng vụ Đêm Vọng Phục
Sinh. Một đặc tính thiết yếu khác nữa đó là cuộc gặp gỡ dồi dào với
những lời Thánh Kinh của phụng vụ Vọng Phục Sinh… Giáo Hội
muốn cống hiến cho chúng ta một cái nh́n toàn diện về tất cả lịch sử
cứu độ, bắt đầu từ việc tạo dựng, qua việc tuyển chọn và giải phóng
Yến Duyên đến chứng từ của các vị tiên tri là những ǵ theo đó toàn
thể lịch sử này hướng tới Chúa Giêsu Kitô một cách rơ hơn bao giờ
hết. Theo truyền thống phụng vụ th́ tất cả các bài đọc này
đều được gọi là các lời ngôn xứ. Cho dù cúng không trực tiếp nói với
chúng ta về các biến cố tương lai, chúng cũng có một đặc tính tiên
tri, chúng tỏ cho chúng ta cái nền tảng nội tại và chiều hướng của
lịch sử. Chúng làm cho việc tạo dựng và lịch sử trở nên sáng tỏ đối
với những ǵ là thiết yếu. Nhờ đó chúng d́u dắt và dẫn chúng ta
hướng về Chúa Kitô, chúng tỏ cho chúng ta Ánh Sáng chân thật.
Ở
Đêm Vọng Phục Sinh, cuộc hành tŕnh dọc theo những con đường của
Thánh Kinh được bắt đầu với tŕnh thuật về việc tạo dựng. Đó là cách
thức phụng vụ muốn nói với chúng ta rằng câu truyện tạo dựng tự nó
là một lời tiên tri.
Nó không phải là tín liệu về các tiến tŕnh ngoại tại là những ǵ
cho thấy xuất hiện vũ trụ và chính con người. Các Giáo Phụ của
Hội Thánh đều đă biết như thế. Các vị không giải thích
câu truyện này như là một tŕnh thuật về tiến tŕnh của nguồn gốc
những sự vật, mà là chỉ hiệu về cái thiết yếu, về khởi điểm và cùng
đích thực sự của hữu thể chúng ta. Vậy chúng ta có thể đặt
vấn đề rằng có thật sự là quan trọng trong việc cần phải nói về tạo
dựng trong Đêm Vọng Phục Sinh hay chăng? Chúng ta chẳng thể bắt đầu
với các biến cố cho thấy Thiên Chúa kêu gọi con người, h́nh thành
một dân tộc cho ḿnh và thiết dựng lịch sử của ḿnh với con người
trên mặt đất này hay sao? Câu trả lời phải là không. Việc bỏ
đi vấn đề tạo dựng sẽ là việc hiểu lầm chính lịch sử của Thiên Chúa
với con người, là việc làm suy giảm nó, việc không thấy được trật tự
cao cả đích thực của nó. Toàn thể lịch sử được Thiên Chúa thiết lập
trở về với nguồn gốc của nó, với việc tạo dựng. Việc tuyên xưng của
chúng ta được bắt đầu bằng những lời: “Chúng tôi tin kính Thiên Chúa
là Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất”. Nếu chúng ta bỏ đi đoạn
đầu này của Kinh Tin Kính th́ toàn thể lịch sử cứu độ trở thành quá
hạn hẹp và quá nhỏ bé. Giáo Hội không phải là một thứ
hiệp hội quan tâm tới các nhu cầu về đạo nghĩa của con người nhưng
lại chỉ giới hạn vào mục tiêu ấy mà thôi. Không, Giáo Hội mang con
người tới chỗ giao tiếp với Thiên Chúa và nhờ đó tới nguồn gốc của
tất cả mọi sự.
Sứ điệp
chính yếu của tŕnh thuật tạo dựng vẫn có thể được định nghĩa một
cách chính xác hơn. Ở những lời mở đầu Phúc Âm của ḿnh, Thánh Gioan
tóm gọn ư nghĩa thiết yếu của tŕnh thuật ấy vào một câu duy nhất:
“Từ ban đầu đă có Lời”. Thật vậy, tŕnh thuật tạo dựng
chúng ta vừa nghe nổi bật với những lời được thường xuyên lập lại:
“Và Thiên Chúa phán…” Thế giới là sản phẩm của
Lời, của Logos, như Thánh Gioan diễn tả, khi ngài sử dụng
một từ ngữ then chốt theo ngôn ngữ Hy Lạp. “Logos” nghĩa là
“lư trí”, là “ư nghĩa”, là “lời nói”. Nó không phải là lư trí
thuần túy và b́nh thường, mà là Lư Trí sáng tạo, Lư Trí tự phát ngôn
và truyền đạt ḿnh ra. Lư Trí này vừa là ư nghĩa vừa
kiến tạo ư nghĩa. Bởi thế tŕnh thuật tạo dựng nói với
chúng ta rằng thế giới này là một sản phẩm của Lư Trí sáng tạo.
Như vậy tŕnh thật này nói với chúng ta rằng chẳng những không
thiếu vắng lư trí và tự do ở nguồn gốc của tất cả mọi sự, trái lại
nguồn gốc của mọi sự là Lư Trí sáng tạo, là t́nh yêu và tự do. Ở đây
chúng ta đối diện với một lựa chọn tối hậu là những ǵ đang được
tranh luận nguy hiểm giữa tin tưởng và không tin tưởng, đó là phải
chăng cái vô tri, thiếu tự do và thuần ngẫu nhiên là nguồn gốc của
hết mọi sự, hay là lư trí, tự do và t́nh yêu là nguồn gốc của hữu
thể? Cái chính yếu thuộc về những ǵ vô tri hay thuộc về những ǵ lư
trí?...
Là thành
phần tín ngưỡng, căn cứ vào tŕnh thuật tạo dựng và vào Thánh Gioan,
chúng ta trả lời rằng lư trí có từ ban đầu. Tự do có từ ban đầu. Bởi
thế là một con người thật là tốt lành. Không phải trường hợp
xẩy ra là trong một vũ trụ nới rộng ở vào giai đoạn sau này, tại một
góc cạnh tí xíu nào đó của vũ trụ này, đă tiến hóa một cách t́nh cờ
một số hữu thể sống động có khả năng lư luận và cố gắng t́m kiếm
những ǵ là lư lẽ trong thiên nhiên tạo vật, hay mang lư lẽ vào đó.
Nếu con người chỉ là một sản phẩm thuần ngẫu nhiên ở một nơi
nào đó bên lề vũ trụ này th́ sự sống của họ không có lư hay thậm chí
là một cái ǵ t́nh cờ của thiên nhiên. Nhưng không, Lư Trí có
đó ngay từ ban đầu: Lư Trí sáng tạo, thần linh. Và v́ là Lư Trí, Lư
Trí này cũng tạo nên tự do; và v́ tự do có thể bị lạm dụng nên cũng
có những quyền lực tác hại thiên nhiên. Thế nên có thể nói
có một hàng kẻ đen đậm đă từng được vạch định ngang qua giữa cấu
trúc của vũ trụ cũng như ngang qua bản tính của con người. Thế
nhưng, bất chấp cái nghịch đảo này, tự ḿnh tạo vật vẫn là
những ǵ tốt lành, sự sống vẫn đẹp, bởi ngay từ ban đầu là Lư Trí
thiện hảo, là tính yêu sáng tạo của Thiên Chúa. Thế nên thế giới này
có thể được cứu độ. Thế nên chúng ta có thể và cần phải đặt
ḿnh về bên của lư trí, tự do và t́nh yêu – về phía của Thiên Chúa
là Đấng yêu thương chúng ta đến độ đă chịu khổ v́ chúng ta, để từ
cái chết của Người, xuất hiện một sự sống mới, tối hậu và chữa lành.
Tŕnh
thuật Cựu Ước về việc tạo dựng chúng ta đă nghe rơ ràng cho thấy
trật tự của các thực tại này. Thế nhưng nó c̣n dẫn chúng ta đi xa
hơn nữa. Tŕnh thuật này đă cấu tạo một tiến tŕnh tạo dựng trong
khuôn khổ của một tuần lễ dẫn đến Ngày Hưu Lễ là ngày tŕnh thuật
này hoàn thành. Đối với dân Yến Duyên th́ Ngày Hưu Lễ là ngày tất cả
mọi sự tham phần vào việc nghỉ ngơi của Thiên Chúa, ngày mà cả con
người lẫn con thú, chủ nhân lẫn nô lệ, lớn cũng như bé, đều được
liên kết với tự do của Thiên Chúa. Bởi thế, Ngày Hưu Lễ là một
diễn tả về Giao Ước giữa Thiên Chúa và con người và thiên nhiên tạo
vật. Như thế, mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và con
người không trở thành một cái ǵ bề ngoài, với một cái
ǵ đó sau này được thêm thắt vào một thế giới đă hoàn toàn được dựng
nên. Giao Ước mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người
này là những ǵ sẵn có ở tầm mức sâu thẳm nhất của thiên nhiên tạo
vật. Phải, Giao Ước này là nền tảng nội tại của việc tạo dựng, như
việc tạo dựng là những giả thiết bề ngoài của Giáo Ước này vậy.
Thiên Chúa tạo dựng nên thế giới này để có một nơi cho Ngài thông
đạt t́nh yêu của Ngài, và từ đó, việc đáp ứng yêu thương có thể
hướng về Ngài. Theo quan điểm của Thiên Chúa th́ con tim của con
người, thành phần đáp ứng Ngài th́ cao cả hơn và quan trọng hơn toàn
thể vũ trụ vật chất bao la vô tận này, v́ tất cả vũ trụ này giúp
chúng ta có thể thoáng thấy một điều ǵ dó về sự uy nghi cao cả của
Thiên Chúa.
Tuy nhiên,
cảm nghiệm Phục Sinh và vượt qua của Kitô giáo giờ đây đ̣i chúng ta
một bước nữa. Ngày Hưu Lễ là ngày thứ bảy của tuần lễ. Sau 6 ngày là
giai đoạn ở một nghĩa nào đó con người tham phần vào việc tạo dựng
của Thiên Chúa, th́ Ngày Hưu Lễ là ngày nghỉ ngơi. Thế nhưng,
một cái ǵ đó hoàn toàn chưa từng có đă xẩy ra ở Giáo Hội sơ khai:
đó là vị trí của Ngày Hưu Lễ, ngày thứ bảy, được thay thế bởi ngày
thứ nhất. Là ngày của cộng đồng phụng vụ, nó là ngày hội ngộ với
Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Chúa Phục Sinh, đă gặp gỡ
thành phần môn đệ của Người vào ngày thứ nhất, Chúa Nhật, sau khi họ
thấy ngôi mộ trống. Cấu trúc của tuần lễ bị đảo ngược.
Nó không c̣n hướng về ngày thứ bảy, như thời điểm tham dự vào việc
nghỉ ngơi của Thiên Chúa. Nó được bắt đầu vào ngày thứ nhất như là
ngày gặp gỡ Vị Chúa Phục Sinh. Cuộc hội ngộ này xẩy ra một cách mới
mẻ ở hết mọi việc cử hành Thánh Thể, khi Người lại tiến vào một lần
nữa giữa thành phần môn đệ của Người và ban ḿnh cho họ, để cho ḿnh
có thể nói được họ chạm tới, ngồi vào bàn với họ. Việc thay
đổi này hoàn toàn là những ǵ ngoại thường, khi xét tới Ngày Hưu Lễ,
ngày thứ bảy được coi là ngày hội ngộ với Thiên Chúa, đă được sâu xa
hết sức bắt nguồn từ Cựu Ước. Nếu chúng ta cũng lưu ư tới chuyển
động từ tới vấn đề làm việc hươớg tới ngày nghỉ ngơi tương đương với
nhịp sống tự nhiên, th́ bản chất sâu sắc của việc thay đổi này thậm
chí c̣n lạ lùng hơn nữa. Việc phát triển cách mạng này đă xẩy
ra vào ngay đầu của lịch sử Giáo Hội có thể được cắt nghĩa cỉ bằng
sự kiện là một cái ǵ đó hoàn toàn mới mẻ đă xẩy ra vào ngày đó.
Ngày đầu trong tuần lễ là ngày thứ ba sau cái chết của Chúa
Giêsu. Nó là ngày khi Người tỏ ḿnh cho các môn đệ như Vị Chúa Phục
Sinh. Thật vậy, cuộc hội ngộ này có một cái ǵ đó đảo lộn về
nó. Thế giới này đă thay đổi. Con người đă chết giờ đây đang sống
với một sự sống không c̣n bị chết chóc đe dọa nữa. Một h́nh thức mới
của sự sống đă được mở màn, một chiều kích mới của thiên nhiên tạo
vật. Ngày đầu tiên này, theo tŕnh thuật của Sách Khởi
Nguyên, là ngày thiên nhiên tạo vật được bắt đầu. Giờ đây nó là ngày
của thiên nhiên tạo vật một cách mới mẻ, nó đă trở thành ngày của
việc tân tạo.
Chúng ta
cử hành ngày đầu tiên này. Làm như thế, chúng ta cử hành Thiên Chúa
Hóa Công và việc tạo dựng của Ngài. Phải, chúng ta tin tưởng Thiên
Chúa, Đấng Tạo Thành trời đất. Và chúng ta cử hành Vị Thiên Chúa đă
hóa thân làm người, Đấng đă chịu khổ, chết đi, được mai táng và sống
lại. Chúng ta cử hành cuộc vĩnh viễn chiến thắng của Đấng Hóa Công
và của việc Ngài tạo dựng. Chúng ta cử hành ngày này như là
nguồn gốc và là đích điểm của cuộc sống chúng ta. Chúng ta cử hành
nó v́ giờ đây, nhờ Chúa Phục Sinh, nó vĩnh viễn được ấn định là lư
trí mạnh hơn vô trí, chân lư mạnh hơn gian dối, t́nh yêu mạnh hơn
chết chóc. Chúng ta cử hành ngày này v́ chúng ta biết rằng cái hàng
kẻ đen đậm vạch ngang qua thiên nhiên tạo vật không tồn tại đến muôn
đời nữa. Chúng ta cử hành nó v́ chúng ta biết rằng những lời ở cuối
tŕnh thuật tạo dựng giờ đây vinh viễn được nên trọn: “Thiên Chúa đă
thấy hết mọi sự Ngài đă làm rất tốt đẹp” (Gen 1:31). Amen.