Một Gia Đ́nh Nhân Loại Duy Nhất

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI

Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Di Dân và Tị Nạn lần thứ 97 Ngày 27/9/2011

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Ngày Thế Giới Di Dân và Tị Nạn cống hiến cho toàn thể Giáo Hội dịp để suy nghĩ về đề tài liên quan tới hiện tượng di dân đang gia tăng, để cầu nguyện cho các tấm ḷng mở ra với việc đón nhận theo Kitô giáo cũng như với nỗ lực gia tăng công lư và bác ái trên thế giới, những trụ cột làm nền tảng cho việc xây dựng một nền ḥa b́nh đích thực và bền vững. “Thày yêu thương các con thế nào, các con cũng phải yêu thương nhau như thế” (Jn 13:34) là một lời mời gọi được Chúa mạnh mẽ ngỏ cùng chúng ta và liên tục canh tân chúng ta: nếu Chúa Cha kêu gọi chúng ta trở thành những người con yêu dấu trong Người Con chí ái của Ngài, th́ Ngài cũng kêu gọi chúng ta nhận biết nhau như là những người anh chị em trong Chúa Kitô.

 

Cái liên kết sâu xa này giữa tất cả con người là nguyên nhân cho đề tài được tôi chọn để chúng ta cùng suy tư trong năm nay: “Một gia đ́nh nhân loại duy nhất”, một gia đ́nh duy nhất của những người anh chị em ở trong các xă hội đang trở nên đa chủng và đa văn hóa hơn bao giờ hết, nơi mà dân chúng thuộc các tôn giáo khác nhau cũng được kêu gọi để tham gia việc đối thoại, nhờ đó t́m thấy một cuộc chung sống thanh thản và tốt đẹp biết tôn trọng các thứ khác biệt hợp lư. Công Đồng Chung Vaticanô II khẳng định rằng “Tất cả mọi dân tộc chỉ là một cộng đồng duy nhất và chỉ có một nguồn gốc duy nhất, v́ Thiên Chúa khiến toàn thể nhân loại cư ngụ trên mặt trái đất này (cf. Acts 17:26); họ cũng có một cùng đích duy nhất là Thiên Chúa” (Message for the World Day of Peace, 2008, 1). “Việc quan pḥng của Ngài, việc Ngài bày tỏ ḷng thiện hảo, ư định cứu độ của Ngài bao gồm tất cả mọi người” (Declaration Nostra aetate, 1). Bởi vậy, “chúng ta không sống bên nhau thuần túy bởi t́nh cờ; tất cả chúng ta đang tiến phát dọc theo cùng một con đường như những con người nam nữ nhờ đó như là anh chị em” (Message for the World Day of Peace, 2008, 6).

 

Con đường th́ giống nhau, con đường của cuộc sống, thế nhưng những trường hợp chúng ta trải qua trên con đường này th́ khác nhau: nhiều người phải đối đầu với kinh nghiệm khó khăn về việc di dân qua những h́nh thức khác nhau của nó: ở quốc nội hay quốc tế, vĩnh viễn hay tùy thời, v́ kinh tế hay chính trị, tự động hay bị ép buộc. Trong các trường hợp khác nhau, việc ra đi khỏi Xứ sở của ḿnh được tác động bởi các h́nh thức bách hại khác nhau, nên cần phải thoát thân. Hơn nữa, hiện tượng của chính việc toàn cầu hóa, đặc điểm của thời đại chúng ta đây, chẳng những là một tiến tŕnh về xă hội và kinh tế, mà c̣n bao gồm cả “chính nhân loại đang càng ngày càng trở nên liên kết với nhau”, vượt qua những giới tuyến về địa dư và văn hóa. Về vấn đề này, Giáo Hội không ngừng nhắc nhở là cảm quan sâu xa về tiến tŕnh thời đại này cùng với tiêu chuẩn căn bản về đạo lư đă được cống hiến bởi mối hiệp nhất của gia đ́nh nhân loại cũng như việc phát triển của nó hướng tới những ǵ là thiện ích (cf. Benedict XVI, Encyclical Caritas in veritate, 42). Bởi thế, tất cả mọi người đều thuộc về một gia đ́nh duy nhất, thành phần di dân và thành phần dân chúng địa phương tiếp nhận họ, và tất cả đều có cùng quyền lợi trong việc hoan hưởng những sản vật của trái đất là những ǵ có tính chất phổ quát, như giáo huấn về xă hội của Giáo Hội dạy. T́nh đoàn kết và việc chia sẻ được h́nh thành chính là ở chỗ này.

 

“Trong một xă hội càng ngày càng toàn cầu hóa th́ công ích và nỗ lực chiếm đạt công ích không thể nào không bao gồm các chiều kích của toàn thể gia đ́nh nhân loại, tức là, cộng đồng của các dân tộc và các quốc gia, nhờ đó h́nh thành thành đô trần thế trong hiệp nhất và an b́nh, mang lại cho nó ở một mức độ nào đó niềm ngưỡng vọng và tiền thân của một thành đô duy nhất của Thiên Chúa” (Benedict XVI, Encyclical Caritas in veritate, 7). Đây cũng là một chiều kích theo đó mà nh́n vào thực tại của việc di dân. Thật vậy, như Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI đă nhận định trước đây, “t́nh trạng yếu kém về những mối liên hệ huynh đệ giữa các cá nhân và các quốc gia” (Encyclical Populorum progressio, 66), là nguyên nhân sâu xa của t́nh trạng chậm phát triển, và – chúng ta có thể thêm rằng – đă gây tác dụng chính yếu cho hiện tượng di dân. T́nh huynh đệ nhân loại, có những lúc ngỡ ngàng, là cảm nghiệm của một mối liên hệ kết hợp, của mối liên hệ sâu xa với người khá, không giống như tôi, căn cứ vào nguyên sự kiện họ là người. T́nh huynh đệ nhân loại nếu được chấp nhận và sống một cách hữu trách, nó sẽ nuôi dưoơng một đời sống của mối hiệp thông và chia sẻ với tất cả mọi người, đặc biệt là với thành phần di dân; nó nâng đỡ việc hiến ḿnh cho người khác, cho thiện ích của họ, cho thiện ích của tất cả mọi người, ở các cộng đồng chính trị địa phương, quốc gia và thế giới.

 

Đấng Đáng Kính Gioan Phaolô II, nhân dịp cùng Ngày này được cử hành vào năm 2001, đă nhấn mạnh rằng “công ích phổ quát bao gồm toàn thể gia đ́nh chư dân, vượt ra ngoài mọi cái tôi đất nước. Cần phải cứu xét quyền di dân theo chiều kích ấy. Giáo Hội nh́n nhận quyền này nơi mọi người, nơi khía cạnh lưỡng diện của cơ hội ĺa bỏ xứ sở của ḿnh cũng như khả năng đi tới một xứ sở khác để t́m kiếm những điều kiện sống tốt đẹp hơn” (Message for World Day of Migration 2001, 3; cf. John XXIII, Encyclical Mater et Magistra, 30; Paul VI, Encyclical Octogesima adveniens, 17). Đồng thời các Quốc Gia có quyền điều hành các gịng người di dân và bênh vực biên cương bờ cơi của ḿnh, luôn tỏ ra tôn trọng xứng với phẩm vị của từng người và mọi người. Hơn nữa, những người di dân có nhiệm vụ hội nhập vào Xứ sở chủ nhà, tôn trọng luật lệ của nó và căn tính quốc gia của nó. “Cái thách đố đó là làm sao để bao gồm việc tiếp nhận xứng với hết mọi người, nhất là khi cần thiết, với việc tính toán về những ǵ cần thiết cho cả cư dân địa phương lẫn thành phần mới tới để sống một đời sống xứng đáng và an b́nh” (World Day of Peace 2001, 13).

 

Trong bối cảnh ấy, sự hiện diện của Giáo Hội, như là Dân Chúa đang lữ hành qua gịng lịch sử giữa tất cả mọi dân tộc khác, là nguồn tin tưởng và hy vọng. Thật vậy, Giáo Hội “trong Chúa Kitô như là một Bí Tích hay như là một dấu hiệu và dụng cụ cho cả việc hiệp nhất rất chặt chẽ với Thiên Chúa cũng như mối hiệp nhất của toàn thể loài người” (Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution Lumen gentium, 1); và nhờ tác động của Thánh Linh trong Giáo Hội, “việc cố gắng thiết lập t́nh huynh đệ phổ quát không phải là những ǵ vô vọng” (Idem, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 38). Chính Thánh Thể, một cách đặc biệt, cấu tạo nên, trong ḷng Giáo Hội, một nguồn hiệp thông vô tận cho toàn thể nhân loại. Nhờ thế mà Dân Chúa bao gồm “mọi quốc gia, chủng tộc, dân tộc và ngôn ngữ” (Rev 7:9), không phải bằng một thứ quyền linh mà bằng việc phục vụ cao cả đức bác ái. Thật vậy, việc thi hành đức ái, nhâá là đối với thành phần nghèo khổ nhất và yếu kém nhất, là chuẩn mức cho thấy tính chất chân thực của việc cử hành Thánh Thể (cf. John Paul II, Apostolic Letter Mane nobiscum Domine, 28).

 

T́nh trạng của thành phần tị nạn cũng như của những người buộc phải di dân khác, những người là một phâà quan trọng của hiện tượng di dân, cần phải được đặc biệt quan tâm theo chiều hướng của đề tài “Chỉ có một gia đ́nh nhân loại duy nhất”. Đối với những người vượt thoát khỏi bạo lực và bách hại, Cộng Đồng Quốc Tế đă thực hiện những việc dấn thân rơ ràng. Hăy tôn trọng quyền lợi của họ, cũng như mối quan tâm hợp lư về t́nh trạng an ninh và liên kết xă hội, hăy nuôi dưỡng một cuộc chung sống vững chắc và ḥa hợp.

 

Cũng trong trường hợp của những ai bị buộc phải di dân, th́ cần phải nuôi dưỡng t́nh đoàn kết bằng “việc dự bị” t́nh yêu thương xuất phát từ chỗ coi cúng ta là một gia đ́nh nhân loại duy nhất, và đối với tín hữu Công giáo, những phần tử của Nhiệm Thể Chúa Kitô: thật vậy, chúng ta cần phải cảm thấy ḿnh lệ thuộc vào nhau, tất cả đều phải tỏ ra có trách nhiệm đối với anh chị em của ḿnh trong nhân loại, cũng như đối với những ai tin tưởng trong niềm tin. Như tôi đă có dp nói: “Vic đón nhn các t nn nhân và t ḷng hiếu khách đối vi h, đối vi mi người, là mt c ch cn phi có ca t́nh đoàn kết nhân loi, nh đó h không cm thy b l loi cô độc gây ra bi s bt dung và th ơ lănh đạm” (General Audience, 20 June 2007: Insegnamenti II, 1 [2007], 1158). Điu này có nghĩa là nhng ai b buc phi ĺa xa nhà ca và x s ca ḿnh s được giúp đỡ trong vic t́m kiếm mt nơi h có th sng trong an b́nh và an toàn, nơi h có th làm vic và được hưởng các quyn li cùng thi hành các nhim v hin hành trong X s đón nhn h, góp phn cho công ích mà không quên chiu kích tôn giáo ca đời sng.

 

Sau hết, tôi mun ng mt ư nghĩ đặc bit, cũng được h tr bng vic nguyn cu, vi các sinh viên ngoi quc và quc tế, thành phn cũng là mt thc ti đang gia tăng trong đại hin tượng di dân. Đây cũng là mt thành phn quan trng v xă hi liên quan ti vic h tr v X s gc gác ca ḿnh nhjư là các nhà lănh đạo tương lai. H là thành phn cu to nên “nhng chiếc cu ni” v văn hóa và kinh tế gia nhng X s ca h vi các X s ch nhà, và tt c đều thc s hướng đến vic h́nh thành nên “mt gia đ́nh nhân loi duy nht”. Đó là mt xác tín cn phi h tr đối vi vic dn thân cho thành phn sinh viên hi ngoi và cn phi kèm theo c vic chú trng ti nhng vn đề c th ca h, như các khó khăn v tài chính hay cái khn khó bi cm thy l loi mt ḿnh đối din vi chính môi trường rt khác bit v xă hi và đại hc, cũng như nhng khó khăn ca vic hi nhp. V vn đề này, tôi mun nhc nh là “vic thuc v mt cng đồng đại hc… là vic đứng giao đim ca các nn văn hóa đă tng h́nh thành nên thế gii tân tiến” (John Paul II, To the Bishops of the United States of America of the Ecclesiastical Provinces of Chicago, Indianapolis and Milwaukee on their ad limina visit, 30 May 1998, 6: Insegnamenti XXI, 1 [1998] 1116). trường hc cũng như đại hc, nn văn hóa ca mt tân thế h được thành h́nh, ch, kh năng ca h trong vic thy nhân loi như là mt gia đ́nh được kêu gi hip nht nên mt trong đa din là nhng ǵ l thuc vào nhng cơ cu t chc y.

 

Anh ch em thân mến, thế gii ca thành phn di dân th́ rng ln và đa dng. Nó có được nhng cm nghim tuyt vi và ha hn, cũng như, tiếc thay, cũng có rt nhiu cm nghim khác có v thm thương và bt xng v con người và v các xă hi được cho là dân s. Đối vi Giáo Hi thc ti này to nên mt du hiu hùng hn ca thi đại chúng ta càng cho thy chng nhng ơn gi ca nhân loi là vic h́nh thành nên mt gia đ́nh nhân loi duy nht, mà c̣n đồng thi c nhng khó khăn, thay v́ liên kết nó li th́ gây chia r nó và phân mnh nó ra. Chúng ta đừng mt hy vng và hăy cùng nhau cu cùng Thiên Chúa là Cha ca tt c mi người, giúp chúng ta – đích thân mi người – tr thành mt con người nam n có kh năng kiến to nên mi liên h huynh đệ, nh đó gia tăng vic hiu biết và trân quí nhau gia các dân tc và các nn văn hóa nhng lănh vc v xă hi, chính tr và cơ cu t chc. Vi nhng nim hy vng y, nh Rt Thánh N Maria là Ngôi Sao Bin - Stella Maris chuyn cu, tôi thân ái ban Phép Lành Ṭa Thánh cho tt c mi người, nht là cho thành phn di dân và t nn cũng như cho hết mi người hot động trong lănh vc này.

 

Tại Castel Gandolfo, ngày 27 tháng 9 năm  2010

 

Giáo Hoàng Biển Đức XVI

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/migration/documents/hf_ben-xvi_mes_20100927_world-migrants-day_en.html