Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mở Năm Đức Tin
11/10/2012-24/11/2013:
Tông Thư “Porta Fidei - Cửa Đức Tin”
Sau đây là bản tóm lược bức Tông Thư mở Năm Đức Tin của Đức Thánh
Cha Biển Đức XVI ban hành ngày 11/10/2011, với những trích đoạn
nguyên văn tiêu biểu và quan trọng về nội dung của văn kiện này (người
dịch tự ư phân chia văn kiện này với những tiêu đề
cho các đoạn để dễ theo dơi tiến tŕnh nội dung của văn kiện, kèm
theo một số phụ chú hay biệt chú riêng liên quan tới một số ư tưởng
đặc biệt của vị giáo hoàng tác giả thần học gia).
Năm
Đức
Tin: Cuộc
hành tŕnh tiến
qua cửa
đức
tin
1- “Cửa
Đức
Tin” (Acts 14:27) bao giờ
cũng
mở
ra cho chúng ta, dẫn
đưa
chúng ta vào sự
sống
hiệp
thông với
Thiên Chúa và mở
lối
vào Giáo Hội
của
Người.
Việc
bước
qua ngưỡng
cửa
này là những
ǵ khả
dĩ
khi lời
Chúa
được
loan báo và cơi ḷng
để
cho ḿnh
được
h́nh thành bởi
ân sủng
biến
đổi.
Việc
tiến
vào qua cửa
này tức
là bắt
đầu
một
cuộc
hành tŕnh kéo dài suốt
cả
cuộc
đời.
Nó bắt
đầu
bằng
phép rửa
(cf Rm 6:4), nhờ
thế
chúng ta có thể
thưa
với
Thiên Chúa là Cha, và nó kết
thúc
ở
cuộc
vượt
qua sự
chết
mà vào sự
sống
đời
đời,
hoa trái của
cuộc
Chúa Giêsu phục
sinh,
Đấng
mong muốn,
nhờ
tặng
ân Thánh Linh, kéo tất
cả
những
ai tin vào Người
tới
với
vinh hiển
của
Người
(cf Jn 17:22). Việc
tuyên xưng
đức
tin vào Ba Ngôi – Cha, Con và Thánh Linh – tức
là tin một
Thiên Chúa duy nhất
là T́nh Yêu (cf 1Jn 4:8): Cha,
Đấng
vào thời
điểm
viên trọn
đă
sai Con của
Ngài
đến
cho phần
rỗi
của
chúng ta; Chúa Giêsu Kitô,
Đấng
trong mầu
nhiệm
tử
nạn
và phục
sinh của
ḿnh,
đă
cứu
chuộc
thế
giới;
Thánh Linh,
Đấng
dẫn
Giáo Hội
qua các thế
kỷ
trong khi chúng ta trông
đợi
cuộc
trở
lại
vinh quang của
Chúa.
2- Từ
khi bắt
đầu
thừa
tác vụ
Thừa
Kế
Thánh Phêrô, tôi
đă
từng
nói
đến
nhu cầu
cần
phải
tái nhận
thức
cuộc
hành tŕnh
đức
tin
để
chiếu
giăi ánh sáng rạng
ngời
hơn
nữa
về
niềm
vui và ḷng nhiệt
thành mới
mẻ
của
cuộc
gặp
gỡ
Chúa Kitô. Trong bài giảng
Lễ
đăng
quang giáo triều
của
ḿnh, tôi
đă
nói rằng:
“Giáo Hội
nói chung và tất
cả
các vị
Chủ
Chiên của
Giáo Hội,
như
Chúa Kitô, cần
phải
bắt
đầu
dẫn
dân chúng băng
qua sa mạc
mà
đến
chốn
sự
sống,
đến
mối
thân t́nh với
Con Thiên Chúa,
đến
với
Đấng
ban cho chúng ta sự
sống
và là một
sự
sống
dồi
dào” [Homily
for the beginning of the Petrine Ministry of the Bishop of Rome
(24 April 2005): AAS 97 (2005), 710.].
Thường
xẩy
ra là Kitô hữu
quan tâm hơn
tới
những
thành quả
về
xă hội,
văn
hóa và chính trị
trong việc
dấn
thân của
họ,
tiếp
tục
nghĩ
đến
đức
tin như
là một
thứ
giả
định
hiển
nhiên
đối
với
cuộc
sống
trong xă hội.
Thực
ra, cái giả
định
này chẳng
những
không c̣n là những
ǵ
được
công nhận
nữa,
trái lại,
nó c̣n thường
bị
công khai chối
từ
[Cf. Benedict
XVI,
Homily at Holy Mass in Lisbon’s “Terreiro do Paço” (11 May
2010): Insegnamenti VI:1 (2010), 673.].
Trong quá khứ
người
ta có thể
công nhận
một
cấu
trúc thống
nhất
về
văn
hóa, phần
lớn
được
chấp
nhận
ở
chỗ
nó căn
cứ
vào nội
dung của
niềm
tin cùng với
các thứ
giá trị
từ
niềm
tin này, nhưng
ngày nay
điều
ấy
dường
như
không c̣n là trường
hợp
được
xă hội
chấp
nhận
rộng
răi, v́ một
cuộc
khủng
hoảng
đức
tin sâu xa
đă
ảnh
hưởng
nhiều
người….
Năm
Đức
Tin: Thời
điểm
- mừng
kỷ
niệm
3 biến
cố
4- Trước
tất
cả
những
điều
ấy,
tôi
đă
quyết
định
công bố
một
Năm
Đức
Tin. Nó sẽ
được
bắt
đầu
vào ngày 11 tháng 10 năm
2012, thời
điểm
kỷ
niệm
50 năm
biến
cố
khai mạc
Công
Đồng
Chung Vaticanô II, và sẽ
kết
thúc vào Lễ
Trọng
Kính Chúa Giêsu Kitô Chúa Chúng Ta là Vua Vũ
Trụ,
ngày 24/11/2013 (phụ
chú
đặc
biệt
của
người
dịch:
ngày này cũng
chính là ngày lễ
Các Thánh Tử
Đạo
trên
Đất
Việt
của
Giáo Hội
ở
Việt
Nam, sau 25 năm
các vị
được
Giáo Hội
tôn phong hiển
thánh bởi
vị
giáo hoàng chân phước
Gioan Phaolô II ngày 19/6/1988).
Ngày khai mạc
11/10/2012 cũng
đánh
dấu
20 năm
kỷ
niệm
việc
ban hành cuốn
Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo,
một
văn
kiện
được
ban hành bởi
vị
Tiền
Nhiệm
của
tôi là Chân Phước
Gioan Phaolô II [Cf.
John Paul II, Apostolic Constitution
Fidei Depositum (11 October 1992): AAS 86 (1994),
113-118.],
với
mục
đích
để
chiếu
soi cho tất
cả
mọi
tín hữu
thấy
được
cái quyền
năng
và vẻ
đẹp
của
đức
tin…. Ngoài ra, chủ
đề
của
Thượng
Nghị
Giám Mục
Thế
Giới
tôi
đă
triệu
tập
vào Tháng 10/2012
đó
là “Cuộc
Tân Truyền
Bá Phúc Âm Hóa
để
Truyền
Đạt
Niềm
Tin Kitô Giáo”.
Đây
sẽ
là một
cơ
hội
tốt
đẹp
để
dẫn
đưa
toàn thể
Giáo Hội
tiến
vào một
thời
gian
đặc
biệt
suy tư
và tái nhận
thức
về
đức
tin.
Đây
không phải
là lần
đầu
tiên Giáo Hội
được
kêu gọi
để
cử
hành một
Năm
Đức
Tin. Vị
Tiền
Nhiệm
khả
kính của
tôi là Người
Tôi Tớ
Chúa Phaolô VI
đă
công bố
năm
này vào năm
1967,
để
tưởng
niệm
cuộc
tử
đạo
của
thánh Phêrô và Phaolô nhân dịp
19 thế
kỷ
hành
động
chứng
nhân tử
đạo
cao cả
của
các vị.
Ngài
đă
nghĩ
đến
nó như
là một
thời
điểm
trọng
đại
đối
với
toàn thể
Giáo Hội
trong việc
thực
hiện
“một
việc
tuyên xưng
đích
thực
và chân thành của
cùng một
niềm
tin”; hơn
nữa,
ngài muốn
việc
này cần
phải
được
vững
mạnh
ở
chỗ
“cá nhân và tập
thể,
tự
do và ư thức,
bên trong và bên ngoài, khiêm tốn
và thẳng
thắn”
[Paul VI,
Apostolic Exhortation Petrum et Paulum Apostolos on the XIX
centenary of the martyrdom of Saints Peter and Paul (22 February
1967): AAS 59 (1967), 196.].
Ngài nghĩ
rằng
có thế
toàn thể
Giáo Hội
mới
có thể
tái xác
đáng
“kiến
thức
chính xác về
đức
tin,
để
tái cường
tráng
đức
tin, thanh tẩy
đức
tin, khẳng
định
đức
tin, và tuyên xưng
đức
tin” [Ibid.,
198.].
Cuộc
đại
biến
động
của
năm
ấy
đă
càng hiển
nhiên hóa nhu cầu
cần
phải
thực
hiện
một
cuộc
cử
hành như
thế.
Năm
ấy
được
kết
thúc bằng
Kinh Tin Kính của
Dân Chúa
[Paul VI,
Credo of the People of God, cf. Homily at Mass on the XIX
centenary of the martyrdom of Saints Peter and Paul at the
conclusion of the “Year of Faith” (30 June 1968): AAS 60
(1968), 433-445.],
với
mục
đích
để
chứng
tỏ
cho thấy
rằng
nội
dung thiết
yếu
qua các thế
kỷ
đă
h́nh thành nên cái gia sản
của
tất
cả
mọi
tín hữu
này cần
phải
được
khẳng
định,
hiểu
biết
và
đào
sâu một
cách mới
mẻ,
để
liên lỉ
làm chứng
trong các hoàn cảnh
lịch
sử
rất
khác nhau với
những
hoàn cảnh
ấy
trong quá khứ.
5-
Ở
một
khía cạnh
nào
đó,
vị
tiền
nhiệm
khả
kính của
tôi
đă
thấy
Năm
ấy
như
là “một
thành quả
và là một
nhu cầu
của
giai
đoạn
hậu
công
đồng
[Paul VI,
General Audience (14 June 1967): Insegnamenti V (1967),
801.],
hoàn toàn nhận
thức
được
những
khó khăn
trầm
trọng
vào thời
ấy,
nhất
là
đối
với
việc
tuyên xưng
đức
tin chân thực
cũng
như
việc
giái thích
đức
tin một
cách chính xác.
Đối
với
tôi dường
như
thời
điểm
khai mở
Năm
Đức
Tin trùng hợp
với
thời
điểm
kỷ
niệm
50 năm
khai mạc
Công
Đồng
Chung Vaticanô II sẽ
cống
hiến
một
cơ
hội
tốt
để
giúp dân chúng hiểu
được
rằngnhững
bản
văn
kiện
được
các Nghị
Phụ
Công
Đồng
truyền
lại,
theo lời
của
Chân Phước
Gioan Phaolô II, “đă
không mất
đi
ǵ hết
cái giá trị
hay rạng
ngời
của
chúng.
Chúng cần
phải
được
đọc
một
cách chính xác,
được
biết
đến
một
cách rộng
răi và
được
yêu quí như
những
văn
kiện
quan trọng
và qui chuẩn
của
Huấn
Quyền,
trong Truyền
Thống
của
Giáo Hội…
Tôi cảm
thấy
hơn
bao giờ
hết
có nhiệm
vụ
phải
cho thấy
Công
Đồng
này như
một
đại
hồng
ân
được
ban cho Giáo Hội
trong thế
kỷ
20:
ở
đó
chúng ta t́m thấy
một
địa
bàn vững
chắc
nhờ
đó
chúng ta lănh nhận
các trách nhiệm
của
chúng ta trong một
thế
kỷ
giờ
đây
bắt
đầu”
[John Paul II,
Apostolic Letter
Novo Millennio Ineunte (6 January 2001), 57: AAS 93
(2001), 308.]…
6-
Việc
canh tân của
Giáo Hội
cũng
đạt
được
nhờ
chứng
từ
của
đời
sống
tín hữu:
bằng
chính sự
hiện
hữu
của
họ
trên thế
gian, Kitô hữu
cũng
được
kêu gọi
để
chiếu
tỏa
lời
chân lư
được
Chúa Giêsu
để
lại
cho chúng ta…
Năm
Đức
Tin, theo quan
điểm
này, là một
lời
hiệu
triệu
thực
hiện
việc
hoán cải
đích
thực
và mới
mẻ
về
với
Chúa,
Đấng
Cứu
Chuộc
duy nhất
của
thế
giới…
Năm
Đức
Tin: Tác
động
– Tuyên Xưng
Đức
Tin
7- …
Đức
tin gia tăng
khi nó
được
sống
như
là một
cảm
nghiệm
về
t́nh yêu lănh nhận
và khi nó
được
truyền
đạt
như
là một
cảm
nghiệm
về
ân sủng
và niềm
vui. Nó làm cho chúng ta trở
thành phong phú, v́ nó mở
rộng
tâm can của
chúng ta trong hy vọng
và giúp chúng ta có thể
thực
hiện
chứng
từ
ban sự
sống:
thật
vậy,
nó mở
tâm can và trí óc của
những
ai lắng
nghe
để
đáp
ứng
lời
mời
gọi
của
Chúa trong việc
gắn
bó với
lời
của
Người
và trở
nên môn
đệ
của
Người….
Bởi
vậy,
chỉ
nhờ
tin tưởng
mà
đức
tin gia tăng
và trở
nên mạnh
mẽ
hơn;
không có khả
thể
nào khác
để
sở
hữu
tính chất
vững
chắc
đối
với
đời
sống
của
con người
ngoại
trừ
tự
phó ḿnh, một
cách liên tục
mạnh
dần,
vào bàn tay của
một
t́nh yêu dường
như
liên lỉ
gia tăng
v́ có nguồn
gốc
nơi
Thiên Chúa.
8-
Nhân dịp
thuận
lợi
này, tôi muốn
mời
gọi
quí huynh giám mục
của
tôi khắp
nơi
trên thế
giới
hăy liên kết
với
vị
Thừa
Kế
Thánh Phêrô, trong thời
điểm
ân sủng
thiêng liêng
được
Chúa cống
hiến
cho chúng ta
đây,
để
nhắc
lại
tặng
ân
đức
tin quí báu. Chúng ta muốn
cử
hành Năm
này một
cách xứng
đáng
và thành quả.
Việc
suy tư
về
đức
tin cần
phải
được
gia tăng,
để
giúp cho tất
cả
mọi
tín hữu
trong Chúa Kitô
được
gắn
bó một
cách ư thức
và mạnh
mẽ
hơn
với
Phúc Âm, nhất
là trong một
thời
điểm
hết
sức
đổi
thay như
nhân loại
đang
trải
qua. Chúng ta sẽ
có cơ
hội
để
tuyên xưng
đức
tin của
chúng ta vào Chúa Phục
Sinh trong các vương
cung thánh
đường
của
chúng ta trên toàn thế
giới;
trong nhà của
chúng ta và giữa
các gia
đ́nh
của
chúng ta với
nhau,
để
hết
mọi
người
có thể
cảm
thấy
hết
sức
cần
phải
hiểu
biết
hơn
và truyền
đạt
cho các thế
hệ
tương
lai
đức
tin của
tất
cả
mọi
thời
đại.
Các cộng
đồng
tu tŕ cũng
như
các cộng
đồng
giáo xứ,
và tất
cả
các cơ
cấu
giáo hội
cũ
và mới,
cần
phải
t́m cách, trong Năm
này, công khai tuyên xưng
Credo.
9- Chúng ta muốn
Năm
này làm bừng
lên nơi
hết
mọi
tín hữu
niềm
thao thức
tuyên xưng
đức
tin một
cách trọn
vẹn
và xác tín mới,
tin tưởng
và hy vọng.
Nó cũng
là một
dịp
tốt
để
gia tăng
việc
cử
hành
đức
tin trong phụng
vụ,
nhất
là vào Thánh Thể
là “tột
đỉnh
hướng
về
của
hoạt
động
Giáo Hội;
… và cũng
là nguồn
mạch
xuất
phát tất
cả
mọi
năng
lực
của
Giáo Hội”
[Second Vatican
Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy
Sacrosanctum Concilium, 10.].
Đồng
thời
chúng ta biến
nó thành lời
cầu
nguyện
của
chúng ta
để
chứng
từ
của
tín hữu
càng trở
nên uy tín hơn
nữa.
Việc
tái nhận
thức
nội
dung của
một
đức
tin
được
tuyên xưng,
cử
hành, sống
động
và nguyện
cầu
[Cf. John Paul
II, Apostolic Constitution
Fidei Depositum (11 October 1992): AAS 86 (1994), 116]
và việc
suy niệm
về
tác
động
của
đức
tin, là một
công việc
hết
mọi
tín hữu
cần
phải
coi như
là việc
của
ḿnh, nhất
là trong thời
gian của
Năm
n ày….
10- … Việc
tuyên xưng
bằng
môi miệng
ngược
lại
cho thấy
rằng
đức
tin bao gồm
việc
công khai làm chứng
và dấn
thân. Một
Kitô hữu
có thể
không bao giờ
nghĩ
đến
niềm
tin như
là một
tác
động
riêng tư.
Đức
tin là việc
chọn
đứng
về
bên Chúa
để
sống
với
Người
(biệt
chú của
người
dịch:
tư
tưởng
này của
Đức
Thánh Cha Biển
Đức
XVI
được
ngài chủ
trương
từ
khi c̣n là giáo sư
đại
học
và
đă
được
ngài bày tỏ
trong cuốn
“Introduction to Christianity” xuất
bản
từ
năm
1968,
ở
phần
I, chương
1,
đoạn
5: “Faith as standing firm and understanding”).
Việc
“đứng
về
bên Người”
hướng
tới
một
sự
hiểu
biết
về
các lư do tin tưởng.
Đức
tin, chính v́ nó là một
tác
động
tự
nguyện,
cũng
đ̣i
hỏi
trách nhiệm
xă hội
nữa
đối
với
những
ǵ người
ta tin tưởng.
Giáo Hội
trong Ngày Lễ
Ngũ
Tuần
chứng
tỏ
hoàn toàn rạng
ngời
chiều
kích công khai này của
việc
tin tưởng
và loan báo
đức
tin của
con người
một
cách mạnh
mẽ
cho hết
mọi
người.
Chính tặng
ân Thánh Linh làm cho chúng ta xứng
hợp
với
sứ
vụ
và kiến
cường
chứng
từ
của
chúng ta, làm cho nó nên thẳng
thắn
và dũng
cảm.
Việc
tuyên xưng
đức
tin là tác
động
vừa
cá nhân vừa
cộng
đồng.
Chính Giáo Hội
là chủ
thể
chính của
đức
tin. Theo
đức
tin của
cộng
đồng
Kitô giáo, mỗi
một
cá nhân lănh nhận
phép rửa,
một
dấu
chỉ
hiệu
lực
để
gia nhập
thành phần
dân tín hữu
để
được
ơn
cứu
độ.
Như
chúng ta
đọc
thấy
trong Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo:
“’Tôi tin’ là
đức
tin của
Giáo Hội
được
tuyên xưng
riêng tư
bởi
từng
tín hữu,
chính yếu
khi lănh nhận
phép rửa.
‘Chúng tôi tin’ là
đức
tin của
Giáo Hội
được
tuyên xưng
bởi
các vị
giám mục
họp
công
đồng
hay phổ
quát hơn
bởi
cộng
đống
tín hữu
cử
hành phụng
vụ.
‘Tôi tin’ cũng
là Giáo Hội,
mẹ
của
chúng ta, khi
đáp
ứng
Thiên Chúa bằng
đức
tin dạy
chúng ta vừa
thưa
‘tôi tin vừa
thưa
‘chúng tôi tin’” [Catechism
of the Catholic Church,
167]
….
Một mặt chúng ta không
được quên rằng trong bối cảnh về văn hóa của chúng ta, rất là nhiều
người, trong khi không công nhận là ḿnh có được tặng ân đức tin,
thế mà vẫn chân thành t́m kiếm ư nghĩa tối hậu và sự thật cuối cùng
của đời sống họ và của thế giới này. (Biệt chú của người dịch: ở
đây Đức Thánh Cha muốn nói đến một thành phần đă được ngài mới nhắc
đến trong chuyến tông du Đức quốc, trong bài
giảng
cho Thánh Lễ
ở
Touristic airport, Freiburg im Breisgau Chúa Nhật
25/9/2011, cũng
như trong Biến Cố Assisi, ở đoạn kết bài diễn từ ngày Thứ Năm
27/10/2011, đó là thành phần bất khả thần tri - agnosticism).
Việc t́m kiếm này là một ‘tựa đề – preamble’ cho đức tin, v́ nó dẫn
con người trên con đường dẫn đến mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thật vậy,
lư trí của con người chất chứa một đ̣i hỏi về ‘những ǵ là vĩnh viễn
vững chắc và lâu bền’ [Benedict XVI,
Address at the Collège des Bernardins, Paris (12 September
2008): AAS 100 (2008), 722.] Cái đ̣i hỏi này là những ǵ tạo
nên một hiệu triệu thường xuyên, được in ấn bất khả xóa mờ trong tâm
can của con người, trong việc lên đường t́m kiếm Đấng không phải là
chúng ta t́m kiếm Ngài mà là Ngài đă đến t́m gặp chúng ta [Cf. Saint
Augustine, Confessions, XIII:1.]. Đức tin mời gọi chúng ta và
mở ḷng chúng ta ra một cách trọn vẹn cho cuộc hội ngộ ấy.
Năm
Đức
Tin: Nắm
Vững
– Giáo Lư Công Giáo
11-
Để
tiến
đến
một
thứ
kiến
thức
có hệ
thống
về
nội
dung của
đức
tin, tất
cả
mọi
người
có thể
t́m thấy
trong cuốn
Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo
một
dụng
cụ
quí báu bất
khả
thiếu.
Nó là một
trong những
hoa trái quan trọng
nhất
của
Công
Đồng
Chung Vaticanô II…
Theo chiều
hướng
ấy,
Năm
Đức
Tin sẽ
phải
thấy
được
một
nỗ
lực
chung trong việc
tái nhận
thức
và học
hỏi
nội
dung nền
tảng
của
đức
tin
được
tổng
luận
một
cách có hệ
thống
và bố
cục
trong cuốn
Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo….
Trong chính cấu
trúc của
ḿnh, cuốn
Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo
được
khai triển
theo
đức
tin
đúng
với
các vấn
đề
to lớn
của
cuộc
sống
hằng
ngày. Từ
trang này sang trang khác, chúng ta thấy
rằng
những
ǵ
được
tŕnh bày
ở
đó
không phải
là lư thuyết
mà là một
cuộc
hội
ngộ
với
Con Người
đang
sống
trong Giáo Hội.
Việc
tuyên xưng
đức
tin
được
tiếp
nối
bởi
phần
về
đời
sống
bí tích, trong
đó
Chúa Giêsu hiện
diện,
hoạt
động
và tiếp
tục
xây dựng
Giáo Hội
của
Người.
Không có phụng
vụ
và các bí tích, việc
tuyên xưng
đức
tin thiếu
mất
hiệu
năng,
v́ nó thiếu
ân sủng
hỗ
trợ
cho chứng
từ
của
Kitô hữu.
Cùng một
qui chuẩn
như
thế,
giáo huấn
của
Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo
này về
đời
sống
luân lư có
được
tất
cả
ư nghĩa
của
ḿnh nếu
được
liên hệ
với
đức
tin, phụng
vụ
và cầu
nguyện.
(Biệt
chú của
người
dịch:
ở
đây
Đức
Thánh Cha, vị
hồng
y nguyên Tổng
Trưởng
Tín Lư
Đức
Tin
đặc
trách soạn
thảo
cuốn
Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo, cho biết
về
bố
cục
rất
chặt
chẽ
của
văn
kiện
quan trọng
này giữa
4 phần
chính yếu,
theo thứ
tự
là:
Đức
Tin, Phụng
Vụ,
Luân Lư và Cầu
Nguyện.
Mà riêng phần
luân lư lại
không
ở
ngay sau phần
tín lư là
Đức
Tin mà lại
được
xếp
sau cả
phần
Phụng
Vụ
bao gồm
các bí tích là v́ nếu
không có
ơn
Chúa xuất
phát từ
Phụng
Vụ
th́ Kitô hữu
sẽ
không thể
nào sống
đức
tin nơi
đời
sống
luân lư, và thậm
chí không thể
nào sống
đời
cầu
nguyện,
v́
đời
sống
cầu
nguyện,
ở
phần
cuối
cuốn
giáo lư, cũng
là tác
động
đáp
ứng
mạc
khải
thần
linh là những
ǵ
được
chất
chứa
nơi
phần
1 về
tín lư và phần
2 về
bí tích).
12- Trong Năm
này, bởi
thế,
cuốn
Sách Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo
sẽ
trở
thành một
dụng
cụ
để
cung cấp
việc
trợ
giúp thực
sự
cho
đức
tin, nhất
là
đối
với
những
ai quan tâm
đến
việc
giáo huấn
Kitô hữu
rất
quan trọng
trong môi trường
văn
hóa của
chúng ta.
Để
đạt
được
mục
đích
ấy,
tôi
đă
mời
gọi
Thánh Bộ
Tín Lư
Đức
Tin, bằng
việc
ḥa hợp
với
các Phân Bộ
liên hệ
của
Ṭa Thánh, phác họa
một
Ghi Chú, cung cấp
cho Giáo Hội
và cá nhân tín hữu
một
số
hướng
dẫn
về
việc
làm sao sống
Năm
Đức
Tin này một
cách hiệu
nghiệm
nhất
và thích
đáng
nhất,
để
phục
vụ
niềm
tin và việc
truyền
bá phúc âm hóa.
Giờ
đây
đức
tin,
ở
một
mức
độ
nhiều
hơn
trong quá khứ,
đang
trở
thành vấn
đề
cho một
loạt
những
vấn
nạn
xuất
phát từ
một
tâm thức
thay
đổi,
một
tâm thức,
nhất
là ngày nay, giới
hạn
lănh vực
của
những
ǵ là vững
chắc
có tính cách hữu
lư vào lănh vực
của
các thứ
khám phá về
khoa học
và kỹ
thuật
mà thôi. Tuy nhiên, Giáo Hội
không bao giờ
sợ
chứng
tỏ
rằng
không thể
nào có chuyện
xung khắc
giữa
đức
tin và khoa học
đích
thực,
v́ cả
hai, cho dù có những
đường
lối
khác nhau, vẫn
hướng
về
chân lư
[
Cf. John Paul II, Encyclical Letter
Fides et Ratio (14 September 1998), 34, 106: AAS
91 (1999), 31-32, 86-87]
13- Một
điều
hết
sức
quan trọng
trong Năm
này
đó
là việc
hồi
tưởng
về
lịch
sử
đức
tin của
chúng ta, một
lịch
sử
được
ghi dấu
thật
sự
bởi
một
mầu
nhiệm
khôn lường
đan
kết
giữa
thánh
đức
và tội
lỗi.
Trong khi thánh
đức
đề
cao việc
đóng
góp trọng
đại
được
những
con người
nam nữ
thực
hiện
cho việc
tăng
trưởng
và phát triển
cộng
đồng
bằng
chứng
từ
đời
sống
của
họ,
th́ tội
lỗi
cần
phải
gợi
lên trong mỗi
một
người
công việc
chân thành và liên tục
hoán cải
để
cảm
nghiệm
được
t́nh thương
của
Chúa Cha giành cho hết
mọi
người.
Năm
Đức
Tin: Sống
Đức
Ái
14- …
Đức
tin thiếu
đức
ái không sinh hoa trái ǵ, trong khi
đức
ái thiếu
đức
tin sẽ
là một
cảm
thức
liên lỉ
băn
khoăn
ngờ
vực.
Đức
tin và
đức
ái
đều
cần
đến
nhau,
ở
chỗ
mỗi
đức
giúp nhau tiến
theo con
đường
thích hợp
của
ḿnh…
15- …
Điều
thế
giới
đặc
biệt
cần
ngày nay
đó
là chứng
từ
khả
tín của
thành phần
được
minh thức
trong tâm trí nhờ
lời
Chúa, và có khả
năng
mở
ḷng trí của
nhiều
người
ra trong việc
ước
muốn
Thiên Chúa và sự
sống
chân thực,
một
sự
sống
khôn cùng.
Ban
hành tại
Ṭa Thánh Phêrô Rôma ngày 11/10/2011, năm
thứ
bảy
của
Giáo Triều
tôi.
Giáo
Hoàng Biển
Đức
XVI
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa
Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/motu_proprio/documents/hf_ben-xvi_motu-proprio_20111011_porta-fidei_en.html