Đấng Cứu Nhân Trần - 1

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 551 Thứ Sáu 1/4/2011

 

 

Sự thật về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc và Đấng Cứu Chuộc” nơi Đức Gioan Phaolô II

 

Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, căn cứ vào những chủ hướng minh nhiên và hoạt động hiển nhiên trong một thời gian dài 26 năm rưỡi của ḿnh, một thời gian kéo dài đứng vào hàng thứ 3 của lịch sử Giáo Hội Công Giáo, th́ cốt lơi của giáo triều Đức Gioan Phaolô II chính là Mầu Nhiệm Cứu Chuộc.

 

Phải chăng chính Đức Gioan Phaolô II đă chính thức xác nhận điều này khi ngài tự thú trong tác phẩm “Tặng Ân và Mầu Nhiệm Gift and Mystery” (ấn bản Anh Ngữ 1996), một tác phẩm được xuất bản để mừng kỷ niệm 50 năm thụ phong linh mục của ngài, (ở trang 82) như sau:

 

Chúa Kitô là một vị linh mục v́ Người là Đấng Cứu Chuộc của thế giới. Chức linh mục của tất cả thành phần giáo sĩ thuộc về mầu nhiệm Cứu Chuộc. Sự thật này về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc và Đấng Cứu Chuộc đă từng là những ǵ trọng yếu đối với tôi; sự thật ấy đă luôn tồn tại trong tôi qua tất cả những năm tháng ấy, nó đă thấm nhập vào tất cả mọi kinh nghiệm mục vụ của tôi, và nó đă tiếp tục cho tôi thấy những điều phong phú mới mẻ.

 

“Trong 50 năm làm linh mục này, tôi đă nhận thức được rằng, Việc Cứu Chuộc, cái giá phải trả cho tội lỗi, bao gồm cả một thứ phục hồi mới, một loại ‘tân tạo’ nơi toàn thể lănh vực tạo sinh, ở chỗ, nó là những ǵ tái phục hồi con người là một ngôi vị, phục hồi con người được Thiên Chúa dựng nên có nam có nữ, một phục hồi của chân lư sâu xa nhất về tất cả mọi hoạt động của con người, về văn hóa và văn minh của con người, về tất cả những ǵ họ chiếm đạt cùng với các khả năng sáng tạo của họ.

 

“Sau khi tôi được bầu làm Giáo Hoàng, cái động lực thiêng liêng đầu tiên tôi cảm thấy đó là hướng về Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc. Đó là nguồn gốc của bức Thông Điệp ‘Redemptor Hominis – Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần’”. Như tôi đă chia sẻ về tất cả những biến cố này, tôi thấy rơ hơn bao giờ hết cái liên hệ chặt chẽ giữa sứ điệp của bức Thông Điệp này với hết mọi sự ở trong tâm can của con người qua việc họ được thông dự vào chức linh mục của Chúa Kitô”.

 

Thật vậy, nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là những ǵ trực tiếp liên quan đến Tác Nhân Cứu Chuộc là chính Đấng Cứu Chuộc, đến đối tượng được cứu chuộc cho khỏi tội lỗi và sự dữ nhất là trong thời điểm văn hóa sự chết ngày nay là con người hiện đại, và đến đường lối cứu chuộc hiện đại là Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, th́ quả nhiên “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II”.

 

Đúng thế, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chính là Đấng đă chi phối cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II, từ đầu cho đến cuối, cả về lănh vực hoạt động lẫn tâm tưởng của ngài.

 

1) Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chi phối Hoạt Động cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II

 

Trước hết, để mở màn, cho giáo triều của ḿnh, Đức Gioan Phaolô II đă chính thức ban hành bức thông điệp gói ghém tất cả chủ hướng của giáo triều ḿnh vào ngày Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay 4/3/1979, với tựa đề “Redemptor Hominis - Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”.

 

Sau hết, để kết thúc cho giáo triều của ḿnh, ngài đă mở Năm Thánh Thể, năm hướng về, nhận biết và cử hành Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Đấng vẫn c̣n hiện diện trên trần gian qua Bí Tích Thánh Thể và vẫn tiếp tục công cuộc cứu chuộc nhân trần qua Phụng Vụ Thánh Thể.

 

Trong giáo triều của ḿnh, Đức Gioan Phaolô II c̣n mở Năm Cứu Chuộc 1983-1984, mừng 1950 năm Ơn Cứu Chuộc, một năm được kết thúc vào ngày Lễ Mẹ Thai Lời 25/3/1984, với việc Ngài hiến dâng chung thế giới và riêng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Đấng Cứu Chuộc.

 

Nhưng biến cố quan trọng nhất đó là ngài đă mở Đại Năm Thánh 2000 để toàn thể Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Lời Nhập Thể là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, một Đại Năm Thánh đă được ngài hướng về ngay từ đầu giáo triều của ngài, như chính ngài đă đề cập tới ở đoạn đầu bức Thông Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” của ngài, một thời điểm kéo dài cả 21 năm trời (1979-2000), không biết ngài có c̣n sống tới đó hay chăng.

 

Thật vậy, để sửa soạn cho Đại Năm Thánh 2000 được tổ chức một cách trọng thể vô tiền (có thể nói cả khoáng hậu) này, ngài đă chẳng những ban hành vào ngày 10/11/1994 bức Tông Thư “Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba – Tertio Millennio Adveniente” để phác họa chương tŕnh sửa soạn xa (1994-1996) và gần (1997-1999), mà c̣n triệu tập các cuộc Thượng Nghị Châu Lục về những chủ đề liên quan đến Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần:

 

Thượng Nghị Giám Mục Phi Châu, với 242 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 10/4-8/5/1994, về chủ đề "Giáo Hội ở Phi Châu với sứ mệnh truyền bá Phúc Âm hướng về năm 2000: 'Các con sẽ là nhân chứng của Thày'", một chủ đề đă được ngài đúc kết trong tông huấn “Ecclesia in AfricaGiáo Hội ở Phi Châu” ban hành ngày 14-9-1995, tại Yaoundé nước Cameroon

 

Thượng Nghị Giám Mục Mỹ Châu, với 233 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 16/11-12/12/1997, với chủ đề "Gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô hằng sống: Con đường dẫn đến Hối Cải, Hiệp Thông và Đoàn Kết", một chủ đề đă được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội ở Mỹ Châu - Ecclesia in America” ban hành dịp ngài thăm Mỹ Châu, tại Mexicô City ngày 22-1-1999;       

 

Thượng Nghị Giám Mục Á Châu, với 191 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 19/4-14/5/1998, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế với Sứ Mệnh Yêu Thương và Phục Vụ của Người ở Á Châu", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội ở Á Châu - Ecclesia in Asia” ban hành ngày 6/11/1999, dịp ngài thăm Á Châu ở Tân Đề Li Ấn Độ;       

 

Thượng Nghị Giám Mục Đại Dương Châu, với 117 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng 23/11-12/12/1998, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô và nhân dân Đại Dương Châu - 'Đi Con Đường của Người, nói Sự Thật của Người và sống Sự Sống của Người'", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội tại Đại Dương Châu - Ecclesia in Oceania” ban hành ngày 22/11/2001, và được ngài, lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, ban hành và gửi đi bằng hệ thống điện toán toàn cầu cho tất cả mọi giáo phận địa phương thuộc châu lục này.           

 

Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu, với 117 vị nghị phụ, nhóm họp lần thứ hai, (lần nhất với 137 vị, vào thời điểm sau Biến Cố Đông Âu 1989, trong thời khoảng 28/11-14/12/1991, ngay trước Biến Cố Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản 25/12/1991), vào thời khoảng 1-23/10/1999 tại Rôma, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô vẫn sống nơi Giáo Hội, Nguồn Mạch Hy Vọng cho Châu Âu", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông huấn “Giáo Hội tại Âu Châu - Ecclesia in Europe” ban hành ngày 28/6/2003.

 

Để kết thúc Đại Năm Thánh 2000 cũng là để mở màn cho một tân thiên kỷ thứ ba Kitô Giáo, Đức Gioan Phaolô II đă ban hành bức Tông Thư “Mở Màn Cho Một Tân Thiên Kỷ – Novo Millennio Ineunte” vào chính ngày Lễ Hiển Linh 6/1/2001, trong đó, ngài nhấn mạnh đến chủ đề “Duc in altum – Hăy ra chỗ nước sâu thả lưới đánh cá”, ở chỗ, (phần 1) gặp gỡ Chúa Kitô (trong năm Thánh 2000); (phần 2) chiêm ngưỡng Dung Nhan Chúa Kitô; (phần 3) bắt đầu lại từ Chúa Kitô; (phần 4) Chứng nhân t́nh yêu.

 

Sau hết, để kết thúc giáo triều của ḿnh, (một kết thúc chính ngài cũng không biết sẽ xẩy ra thế nào và bao giờ), ngài đă mở Năm Thánh Thể và ban hành bức Thông Điệp thứ 14, bức thông điệp cuối cùng về Chúa Kitô. Cái trùng hợp ở đây là, trong 14 bức Thông Điệp là các văn kiện có tầm vóc quan trọng vào bậc nhất của thẩm quyền Giáo Hoàng, hai văn kiện đầu và cuối của ngài đều về Chúa Kitô: Nếu bức Thông Điệp thứ nhất về Chúa Kitô, “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis”, có liên quan tới toàn thể nhân loại, th́ bức Thông Điệp thứ 14 về Chúa Kitô có liên quan tới Giáo Hội, tới việc nội bộ Giáo Hội cần phải “duc in altum” để có thể truyền bá phúc âm hóa thế giới tân tiến. Đó là lư do bức Thông Điệp cuối cùng về Chúa Kitô này mới mang tựa đề “Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể – Ecclesia de Eucharistia”.

 

Trên đây là những chứng cớ hiển nhiên cho thấy Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II, một mầu nhiệm, trước hết, liên quan trực tiếp tới tác nhân cứu chuộc là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Đấng đă chi phối toàn thể hoạt động của giáo triều của vị giáo hoàng thứ 264 này.

 

Sau đây là những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô, những ǵ được ngài bày tỏ trong 2 văn kiện tiêu biểu Người nói rơ ràng đến chủ đề Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của ngài, đó là Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần và Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba.

 

(Những chỗ in nghiêng và đậm trong phần trích dịch và trích dẫn ở toàn bài viết này là do người dịch muốn nhấn mạnh đến chủ trương cứu chuộc và ư nghĩa cứu chuộc của vị Giáo Hoàng luôn qui hướng về Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần).

 

2) Những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần:

 

"Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại là Chúa Giêsu Kitô, trung tâm điểm của vũ trụ và của lịch sử" (đây là câu mở đầu cho cả bức thông điệp).

 

Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Trung Tâm Điểm Của Vũ Trụ:

 

"Đấng Cứu Chuộc của thế gian! Nơi Người tỏ hiện, bằng một đường lối mới mẻ và tuyệt vời hơn, chân lư nền tảng liên quan đến việc tạo dựng mà Sách Khởi Nguyên chứng tỏ qua những lần lập đi lập lại: 'Thiên Chúa thấy nó tốt lành' (đoạn 1). Sự tốt lành bắt nguồn nơi Đức Khôn Ngoan và T́nh Yêu Thương. Nơi Chúa Giêsu Kitô, thế giới hữu h́nh mà Thiên Chúa dựng nên cho con người (x.Gen 1:26-30), một thế giới khi tội lỗi đột nhập 'đă lụy thuộc vào sự hư hoại' (Rm 8:20, x.Rm 8:19-22), phục hồi được mối liên hệ với nguồn mạch thần linh nguyên thủy của Đức Khôn Ngoan và của T́nh Yêu Thương...

 

"Khi phân tách một cách sâu xa 'cái thế giới tân tiến này', Công Đồng Chung Vaticanô II đă tiến đến một điểm quan trọng nhất của thế giới hữu h́nh, đó là con người, bằng cách, như Chúa Kitô, tiến sâu vào ư thức con người, và bằng cách chạm đến mầu nhiệm nội tại của con người, cái mà ngôn ngữ thánh kinh cũng như không phải thánh kinh đă diễn tả bằng chữ 'trái tim'. Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc thế gian, là Đấng đă thấu nhập vào mầu nhiệm của con người một cách đặc thù và dứt khoát, cũng như Người đă đi vào 'tâm can' của họ. Bởi thế, Công Đồng Vaticanô II đă có lư khi dạy rằng: 'Sự thật đó là chỉ có ở nơi mầu nhiệm của Lời Nhập Thể mà mầu nhiệm của con người mới được sáng tỏ. V́ Adong, con người đầu tiên, kiểu mẫu của Đấng phải đến (Rm 5:14) là Chúa Kitô. Chúa Kitô, một tân Adong, trong việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về t́nh yêu của Cha, đă hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người họ và làm sáng tỏ ơn gọi cao cả nhất của con người'. Công Đồng tiếp: 'Đấng là h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh (Col 1:15), tự Ḿnh là một con người hoàn hảo, Đấng đă phục hồi nơi gịng dơi Adong cái tương tự giống như Thiên Chúa đă từng bị nguyên tội làm biến dạng đi. Bản tính loài người, nhờ được mặc lấy chứ không bị mất đi trong Người, đă được nâng lên nơi chúng ta tới một phẩm vị khôn sánh. V́, nhờ Việc Nhập Thể của Người, Người, là Con Thiên Chúa, một cách nào đó, đă hiệp nhất ḿnh với mỗi một người. Người đă làm việc với đôi tay nhân loại, Người đă suy nghĩ với trí khôn nhân loại. Người đă tác động với ư muốn nhân loại, và Người đă yêu thương với trái tim nhân loại. Được sinh hạ bởi Trinh Nữ Maria, Người thực sự là một ngựi trong chúng ta, giống như chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi' (Gaudium et Spes, đoạn 22). Người là Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại". (đoạn 8).

 

Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Trung Tâm Điểm Của Lịch Sử

 

"Thiên Chúa đă đi vào lịch sử nhân loại, và như là một con người, Ngài đă trở nên một người đi làm lịch sử này, một người trong muôn ngàn triệu triệu con người, song đồng thời cũng Chuyên Biệt! Qua việc Nhập Thể, Thiên Chúa đă ban cho sự sống con người một chiều kích mà Ngài đă định ban cho con người ngay từ ban đầu: Ngài đă ban cho họ chiều kích này một cách dứt khoát - bằng một đường lối dành riêng cho một ḿnh Ngài mà thôi, hợp với t́nh yêu và ḷng thương vĩnh hằng của Ngài, hợp với niềm tự do của Thiên Chúa - và Ngài cũng đă ban nó bằng một ḷng bao dung để chúng ta, khi xét đến nguyên tội và suốt gịng lịch sử tội lỗi của nhân loại, cũng như xét đến những lầm lẫn của trí khôn con người, ư muốn và con tim của ḿnh, có thể bồi hồi lập lại những lời của phụng vụ thánh: 'Ôi lỗi lầm diễm phúc... đă làm cho chúng ta được một Đấng Cứu Chuộc cao cả như vậy' (Tụng Ca Lễ Vọng Phục Sinh)..." (đoạn 1).

 

"Thập giá trên đồi Canvê mà Chúa Giêsu Kitô - một Con Người, Con của Trinh Nữ Maria, được nghĩ là con của Giuse Nazarét - 'để lại' cho thế giới này, cũng là một biểu hiện mới mẻ về t́nh phụ tử đời đời của Thiên Chúa, Đấng mà trong Người, một lần nữa, đến gần nhân loại, gần với mỗi một con người, khi ban cho Người 'Thần chân lư' (Jn16:13) ba lần thánh.

 

"Việc mạc khải này của Cha và việc tuôn đổ Thánh Linh để đóng một niêm ấn không phai nḥa trên mầu nhiệm cứu chuộc đă nói lên ư nghĩa của cây thập giá và cái chết của Đức Kitô. Vị Thiên Chúa của việc tạo dựng được mạc khải như là một Vị Thiên Chúa của việc cứu chuộc, như Vị Thiên Chúa 'trung tín với chính ḿnh' (1Thes 5:24), cũng như trung tín với t́nh yêu thương của Ngài đối với nhân loại và thế gian, một t́nh yêu Ngài đă mạc khải vào ngày tạo dựng. T́nh yêu của Ngài là một t́nh yêu không rút lui trước bất cứ một cái ǵ đ̣i Ngài phải dùng đến phép công thẳng. Bởi thế, 'v́ chúng ta, (Thiên Chúa) đă làm cho Người (Con) là Đấng không biết đến tội lỗi thành tội lỗi' (2Cor 5:21; x.Gal 3:13). Nếu Người 'thành tội lỗi', Người là Đấng không bao giờ có một tội lỗi nào, th́ tỏ ra rằng t́nh yêu luôn luôn cao trọng hơn tất cả mọi tạo vật, một t́nh yêu là chính Ḿnh Người, v́ 'Thiên Chúa là t́nh yêu' (Jn 4:8,16). Trên tất cả mọi sự, t́nh yêu vĩ đại hơn cả tội lỗi, hơn cả yếu đuối, hơn cả 't́nh trạng hư hoại của tạo vật' (Rm 8:20); nó mạnh hơn cả sự chết; nó là một t́nh yêu luôn luôn sẵn sàng để nâng cao và tha thứ, luôn luôn sẵn sàng để đi gặp người con hoang đàng (x.Lk 15:11-32), luôn luôn mong đợi 'cuộc thể hiện của con cái Thiên Chúa' (Rm 8:18) là thành phần được kêu gọi 'đến vinh quang sẽ được tỏ hiện' (Thánh Tomas tiến sĩ). Việc mạc khải của t́nh yêu này cũng được diễn tả như mạc khải của ḷng thương xót; và trong lịch sử của con người, mạc khải của t́nh yêu và ḷng thương xót này đă mặc một h́nh thức và mang một danh hiệu: đó là Giêsu Kitô" (đoạn 9).

 

"Con người không thể nào sống mà không yêu thương. Họ măi là một hữu thể không hiểu được ḿnh, đời sống của họ vô nghĩa, nếu t́nh yêu không tỏ hiện cho họ thấy, nếu họ không gặp gỡ t́nh yêu, nếu họ không cảm nghiệm được nó và làm cho nó thành của ḿnh, nếu họ không mật thiết liên kết với nó. Đó là, như đă nói đến, lư do tại sao Đức Kitô Đấng Cứu Chuộc 'hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người họ'. Nếu chúng ta cần diễn tả, th́ đây là chiều kích nhân loại của mầu nhiệm của việc cứu chuộc. Trong chiều kích này, con người, một lần nữa, t́m được sự cao cả, phẩm vị và giá trị thuộc về nhân tính của họ. Nơi mầu nhiệm của việc cứu chuộc, con người được 'thể hiện' một cách mới mẻ, và, một cách nào đó, được tạo dựng một cách mới mẻ. Con người được tạo dựng một cách mới mẻ! 'Không c̣n Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ; v́ anh em tất cả là một trong Đức Giêsu Kitô' (Gal 3:28). Con người muốn hiểu ḿnh hoàn toàn - không chỉ hợp với những tiêu chuẩn và mức độ trực tiếp, bán phần, thường nông cạn, hay ảo tưởng về hữu thể ḿnh - họ phải đến gần Chúa Kitô, với nỗi khắc khoải và lo âu của họ, cả với nỗi yếu đuối và tội lỗi của họ, với sự sống và cái chết của họ. Như thế, họ phải vào trong Người với tất cả cái tôi riêng của họ, họ phải 'thích hợp' và đồng hóa với toàn thể thực tại của mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc để t́m thấy chính ḿnh. Nếu tiến tŕnh sâu xa này xẩy ra nơi họ, th́ họ mới sinh hoa trái, chẳng những nơi việc tôn thờ Thiên Chúa, mà c̣n nơi cả sự bỡ ngỡ lạ lùng về ḿnh nữa. Con người quí hóa là chừng nào trước mắt của Hóa Công, khi họ 'được một Đấng Cứu Chuộc cao cả như vậy' (tụng ca Lễ Vọng Phục Sinh), và một khi Thiên Chúa 'đă ban Con duy nhất của ḿnh' là để con người 'không phải chết nhưng được sự sống đời đời' (Jn 3:16)”. (đoạn 10).

 

3) Những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô trong Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba:

 

Chúa Giêsu Kitô là một khởi sự mới cho tất cả mọi sự… là măn nguyện của ước vọng cho mọi tôn giáo trên thế giới

 

“Chúa Kitô, đấng cứu chuộc thế giới, là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, nên không có một danh hiệu nào khác ở dưới gầm trời này có thể cứu được chúng ta (x.Acts 4:12). Như chúng ta đọc thấy trong Thư gửi cho các tín hữu Êphêsô: ‘Nơi Đức Kitô, chúng ta nhờ máu của Người mà được ơn cứu chuộc, được ơn tha thứ những lỗi phạm của ḿnh, theo ân sủng dồi dào Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên chúng ta. V́ Thiên Chúa đă tỏ cho chúng ta, bằng tất cả khôn ngoan và sáng suốt... mục đích của Ngài đă phác họa nơi Chúa Kitô một dự án cho thời điểm viên trọn, mục đích đó là hiệp nhất tất cả trong Người, những sự trên trời cùng những sự dưới đất’ (1:7-10). V́ thế, Chúa Kitô, Ngôi Con là một với Chúa Cha, là Đấng mạc khải dự án của Thiên Chúa cho tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là cho con người. Theo một câu đáng nhớ của Công Đồng Chung Vaticanô II th́ Chúa Kitô ‘hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người và làm sáng tỏ ơn gọi cao trọng của họ’ (hiến chế Gaudium et Spes, đoạn 22). Người tỏ cho chúng ta ơn gọi này bằng việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về t́nh yêu của Cha” (đoạn 4).


“Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Chúa của vũ trụ, cũng là Chúa của lịch sử, một lịch sử mà Người là ‘Alpha và Omega’ (Rev.1:8;21:6), là ‘nguyên thủy và là cùng đích’ (Rev.21:6). Nơi Người, Chúa Cha đă nói lên một lời thực sự về con người và về lịch sử của họ. Lời này được diễn tả một cách tóm gọn và hùng hồn qua Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái: ‘Bằng nhiều thể nhiều cách, xưa kia Thiên Chúa đă nói với cha ông chúng ta nhờ các tiên tri; thế nhưng, trong những ngày sau hết này, Ngài đă nói với chúng ta qua Người Con’ (Heb.1:1-2)” (đoạn 5).


“Chúa Giêsu được sinh ra từ dân tuyển chọn để hoàn tất lời hứa mà Abraham đă lănh nhận và các tiên tri liên tục nhắc nhớ. Các tiên tri nhân danh Thiên Chúa và thay cho Ngài mà nói. Thật vậy, công cuộc của Cựu Ước được sắp xếp chính là để sửa soạn và loan truyền cho việc Đức Kitô đến, Đấng cứu chuộc hoàn vũ, cũng như cho vương quốc mà Người thiết lập. Bởi thế, những cuốn sách của Cựu Ước măi măi là một chứng cớ cho một giáo thuyết thần linh xác thực (x. hiến chế Mạc Khải đoạn 15). Giáo thuyết này đă đạt mục tiêu của nó nơi Đức Kitô: đúng thế Chúa Giêsu không chỉ ‘nhân danh Chúa’ mà nói như các vị tiên tri, mà Người chính là Thiên Chúa nói bằng Lời hằng sống nhập thể của ḿnh. Ở đây chúng ta chạm đến một điểm chính yếu làm cho Kitô giáo khác với tất cả mọi tôn giáo khác, những tôn giáo diễn tả việc con người t́m kiếm Thiên Chúa từ những thời cổ xưa nhất. Khởi điểm của Kitô giáo bắt nguồn từ việc Lời nhập thể. Như thế, không phải là con người t́m kiếm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói với chính con người, và chỉ cho con người đường nẻo để con người có thể đến với Ngài. Đó là điều đă được công bố trong Phần Nhập Đề của Phúc Âm thánh Gioan: ‘Chưa có ai đă từng thấy được Thiên Chúa; Người Con duy nhất, Đấng ở trong ḷng Cha, Người đă tỏ Cha ra’ (Jn.1:18). Như thế, Lời nhập thể làm thỏa nguyện ước vọng nơi tất cả các đạo giáo của nhân loại. Chính Thiên Chúa đă làm cho con người được thỏa nguyện, ngoài mọi ước mong của con người. Đó là một mầu nhiệm của ân sủng.

 

“Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không c̣n là một ‘cuộc kiếm t́m Thiên Chúa một cách mù quáng’ (Acts 17:27) nữa, mà là một đáp ứng của đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tỏ ḿnh ra. Nó là một đáp ứng mà con người nói với Thiên Chúa như với Hóa Công, với một Người Cha, một đáp ứng đă thành hiện thực nhờ một con người cũng chính là Ngôi Lời, mà nơi Người, Thiên Chúa đă nói với từng người, và nhờ Người mỗi người có thể đáp lại Thiên Chúa. C̣n nữa, cũng ở nơi con người này mà mọi tạo vật đáp lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô là một khởi sự mới cho tất cả mọi sự. Nơi Người, tất cả mọi sự có; chúng được thăng hóa rồi được trả về cho Hóa Công là Đấng dựng nên chúng. Như thế, Đức Kitô là măn nguyện của ước vọng cho mọi tôn giáo trên thế giới, nên Người là tầm mức viên trọn đích thực duy nhất của họ. Thiên Chúa nói thẳng với con người nơi Đức Kitô thế nào, tất cả loài người và toàn thể tạo vật cũng tự ḿnh nói với Thiên Chúa trong Đức Kitô như vậy, thực sự đó là việc tự hiến ḿnh cho Thiên Chúa. Mọi vật trở về với cội nguồn của ḿnh là vậy. Chúa Giêsu Kitô làm cho mọi sự tái tạo (x.Eph.1:10), đồng thời làm hoàn tất mọi sự trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm vinh danh Thiên Chúa. Tôn giáo có nền tảng nơi Đức Kitô là một tôn giáo vinh quang; nó là một tầm vóc mới mẻ của sự sống để chúc tụng vinh quang Thiên Chúa (x.Eph.1:12). Tất cả mọi tạo vật thực sự là một biểu hiện của vinh quang Người. Đặc biệt con người (vivens homo) là sự hiển linh của vinh quang Thiên Chúa, một loài được kêu gọi để sống bằng sự sống viên trọn trong Thiên Chúa” (đoạn 6)

 

Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa chẳng những nói với loài người mà c̣n t́m kiếm họ nữa.

 

“Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa chẳng những nói với loài người mà c̣n t́m kiếm họ nữa. Việc Con Thiên Chúa nhập thể chứng tỏ là Thiên Chúa đi t́m kiếm con người. Chúa Giêsu nói về việc t́m kiếm này như t́m kiếm một con chiên lạc đàn (x.Lk.15:1-7). Đó là một cuộc t́m kiếm mà khởi điểm bắt đầu từ cơi ḷng của Thiên Chúa và đích điểm ở nơi việc nhập thể của Ngôi Lời. Nếu Thiên Chúa đi t́m con người, loài được dựng nên theo h́nh ảnh Ngài và giống như Ngài, là v́ đời đời Ngài yêu thương họ nơi Ngôi Lời, và trong Đức Kitô Ngài muốn nâng họ lên danh phận làm một người con được thừa nhận. Thế nên, Thiên Chúa đi t́m kiếm con người là sở hữu đặc biệt của Ngài bằng một đường lối không giống như các tạo vật khác. Con người là sở hữu của Thiên Chúa bởi việc yêu thương chọn lựa: Thiên Chúa t́m kiếm con người theo tấm ḷng hiền phụ rung cảm của ḿnh.

 

“Tại sao Thiên Chúa lại t́m kiếm con người? Là v́ con người đă bỏ Ngài mà đi, ẩn ḿnh đi như Adong đă làm trong Vườn Địa Đàng (x.Gn.3:8-10). Con người đă để cho ḿnh bị kẻ thù của Thiên Chúa (x.Gn.3:13) làm lạc hướng. Satan đă đánh lừa con người, làm cho con người tin rằng họ cũng là một thần linh, như Thiên Chúa, họ có khả năng biết lành biết dữ, cai trị thế giới theo ư ḿnh mà không cần phải căn cứ vào ư muốn thần linh (x.Gn.3:5). Đi t́m kiếm con người qua Con của ḿnh như thế là Thiên Chúa muốn chinh phục con người, để họ rời bỏ những đường nẻo gian ác đă dẫn họ càng ngày càng đi sai lạc. ‘Làm cho họ rời bỏ’ những đường nẻo này nghĩa là làm cho họ hiểu được rằng họ đang đi sai đường lạc hướng; nghĩa là chế ngự sự dữ ở bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử loài người. Chế ngự sự dữ: đó là ư nghĩa của việc cứu chuộc. Điều này đă được thực hiện nơi việc hy sinh của Đức Kitô, nhờ đó loài người được cứu cho khỏi nợ nần tội lỗi và được ḥa giải cùng Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đă làm người, nhận lấy một thân xác và một linh hồn trong cung ḷng một Trinh Nữ, chính v́: để trở nên một hy tế cứu độ hoàn hảo. Tôn giáo của mầu nhiệm Nhập Thể là một tôn giáo của ơn cứu thế, nhờ hiến tế của Đức Kitô, một hiến tế chiến thắng sự dữ, tội lỗi và chính sự chết. Chấp nhận cái chết trên thập giá là Đức Kitô cùng một lúc vừa tỏ bày sự sống vừa thông ban sự sống, v́ Người đă sống lại và sự chết không c̣n làm ǵ được Người nữa” (đoạn 7).