Hiện Tượng Gioan Phaolô
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 546-547 Thứ
Sáu 25/2+4/3/2011
Vào
trưa ngày Thứ Sáu 18/2/2011, Văn Pḥng Báo Chí của Ṭa Thánh, theo
VIS (Vatican Information Service), đă phổ biến một thông báo về việc
diễn tiến của biến cố phong chân phước cho Đức Cố Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II, nguyên văn như sau:
"Việc
phong chân phước cho Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II sẽ là một
biến cố chính yếu được chia ra làm 5 giai đoạn:
"Một
đêm vọng canh thức được Giáo Phận Rôma tổ chức ở Circus Maximus vào
tối Thứ Bảy ngày 30 tháng 4, (sửa soạn từ 8 giờ 30 tới 9 giờ, canh
thức từ 9 tới 10 giờ 30), v́ Giáo Phận Rôma có Người Tôi Tớ Chúa
Đáng Kính này làm giám mục. Đêm canh thức này sẽ được chủ sự bởi Đức
Hồng Y Agostino Vallini, vị tổng đại diện của Đức Thánh Cha ở Giáo
Phận Rôma, nhưng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ hiện diện một cách
linh động qua màn h́nh chiếu.
"Nghi thức phong chân phước sẽ được bắt đầu vào lúc 10 giờ sáng Chúa
Nhật ngày mùng 1 tháng 5 ở Quảng Trường Thánh Phêrô, do chính Đức
Thánh Cha chủ sự. Việc tham dự vào biến cố này không cần phải có vé,
tuy nhiên lối vào Quảng Trường này và các vùng lân cận vẫn được cảnh
sát kiểm soát.
"Việc kính viếng các hài cốt của vị tân chân phước này đều khả dĩ
với mọi tín hữu, được bắt đầu ngay sau nghi thức phong chân phước
Chúa Nhật 1/5. Các hài cốt của vị tân chân phước sẽ được trưng bày
để kính viếng trước Bàn Thờ của Ṭa Ḥa Giải trong Đền Thờ Vatican
kéo dài bao lâu tín hữu c̣n tiếp tục.
"Một
Thánh Lễ Tạ Ơn theo chương tŕnh sẽ được cử hành ở Quảng Trường
Thánh Phêrô vào lúc 10 giờ 30 sáng Thứ Hai ngày 2/5, do Đức Hồng Y
Quốc Vụ Khanh Tarcisio Bertone, SDB, chủ sự.
"Việc
mai táng các hài cốt của vị tân chân phước ở Nguyện Đường Thánh
Sebastian trong Đền Thờ Vatican sẽ diễn ra một cách thầm lặng".
Nếu
Đức Gioan Phaolô II được gọi
là
hay cho là
Hiện Tượng Gioan Phaolô
th́
chính biến cố tuyên phong chân phước cho ngài sắp tới đây cũng rơ
ràng cho thấy ngài quả thực là một hiện tượng, v́ việc tuyên phong
này xẩy ra quá nhanh, chưa từng thấy trong lịch sử Giáo Hội Công
giáo, với phép lạ xẩy ra đúng hai tháng sau khi chết (3/6/2005), và
thời gian trở thành chân phước chỉ có 6 năm 1 tháng sau khi chết
(2/4/2005-1/5/2011), nhanh hơn Mẹ Têrêsa Calcutta nửa tháng, vị nữ
tu sáng lập Ḍng Thừa Sai Bác Ái phục vụ thành phần nghèo khổ nhất
trong các người nghèo, sau khi chết một năm (5/9/2008) đă có phép lạ
và đă trở thành Chân Phước
sau
khi qua đời 6 năm và 1 tháng rưỡi (5/9/1997-19/10/2003). Cả hai vị
chân phước phá kỷ
lục này đều được châm chước hạn kỳ chờ đợi 5 năm sau khi chết: vị nữ
chân phước Têrêsa Calcutta được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II châm
chước vào ngày 12/12/1998, tức sau khi vị nữ chân phước chết 1 năm 3
tháng, và vị nam chân phước Gioan Phaolô II được chính Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI châm chước vào ngày 13/5/2005, tức sau khi chết 1 tháng
10 ngày. Ngoài ra, trong lịch sử Giáo Hội cũng chưa từng xẩy ra
chuyện Vị đương kim Giáo Hoàng tuyên phong chân phước cho vị Giáo
Hoàng ḿnh vừa được kế nhiệm, như trường hợp của Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI với Đức Gioan Phaolô II vị vừa tiền nhiệm của ngài.
Thật
vậy, nói đến Đức Gioan Phaolô II là nói đến các sự lạ lùng xẩy ra
chẳng những cho riêng cá nhân con người mang danh Karol Józef
Wojtyla, một nhân vật lịch sử xuất thân từ Balan vào ngày 18/5/1920,
mà c̣n cho chung thế giới nữa, từ ngày ngài đóng vai tṛ lănh tụ
Giáo Hội Công Giáo Rôma 16/10/1978. Chẳng hạn 3 sự kiện hiển nhiên
bất khả phủ nhận sau đây: 1- Ngài là vị giáo hoàng không phải người
Ư sau 455 năm kể từ năm 1523 và xuất thân từ một nước cộng sản; 2-
Ngài là vị giáo hoàng bị ám sát giữa thanh thiên bạch nhật tại Quảng
Trường Thánh Phêrô ngày 13/5/1981 và là vị giáo hoàng ảnh hưởng đến
biến cố Đông Âu sụp đổ; 3- Ngài là vị giáo hoàng thiết lập Lễ Kính
Ḷng Thương Xót Chúa năm 2000 rồi qua đời ngay sau Lễ Vọng Ḷng
Thương Xót Chúa ngày 2/4/2005, và ngày an táng 8/4/2005 của ngài đă
diễn ra hết sức đông đảo chưa từng thấy trong lịch sử loài người.
1- Vị giáo hoàng không phải người Ư xuất thân từ một nước cộng sản:
Theo
cuốn “All Saints”, do Robert Ellsberg biên soạn, được The Crossroad
Publishing Company ở New York xuất bản năm 1997, trang 415, th́ ngay
vào năm 1947, sau khi giải tội cho vị linh mục trẻ là Karol Wojtyla,
Cha Piô Năm Dấu (1887-1968) đă nói vị linh mục này một mai sẽ làm
giáo hoàng.
Quả
nhiên, có ai ngờ rằng, 31 năm sau, vị linh mục trẻ ấy đă được bầu
lên làm giáo hoàng vào ngày 16-10-1978 và đă chính thức đăng quang
giáo hoàng ngày 22-10-1978, một vị giáo hoàng không phải người Ư sau
455 năm, kể từ năm 1523, lại là một vị giáo hoàng đến từ một nước
Cộng Sản thuộc khối Đông Âu.
Việc
tiên đoán của một vị linh mục thánh thiện và lạ lùng như Cha Piô Năm
Dấu này không phải không có thể xẩy ra. Tuy nhiên, ngay từ thời Cộng
Sản c̣n đang lên, Cha Piô Năm Dấu làm sao lại có thể tiên đoán và
dám khẳng định như thế, nếu không phải ngài được ơn linh ứng về một
con người đặc biệt của Thiên Chúa.
Về
phần
vị
linh mục
trẻ
được
tiết
lộ
cho biết
bí mật
tương
lai
đời
ḿnh như
thế,
v́ ḷng khiêm nhượng,
chắc
cũng
không tin cho lắm,
dù rất
cảm
phục
tiếng
tăm
thánh
đức
và
được
ơn
lạ
ḍng Phanxicô này, hay tin th́ cũng
cứ
biết
vậy
trước
lời
tiên báo xa vời
của
ngài. Tuy nhiên, khi tới
thời
điểm
viên trọn,
vị
linh mục
bấy
giờ
là hồng
y nổi
tiếng
ở
Balan và là một
vị
nghị
phụ
năng
nổ
nhất
trong Công
Đồng
Chung Vaticanô II, theo tác giả
George Weigel, trong cuốn
“Witness to Hope” của
ông, do Cliff Street
Books xuất
bản
năm
1999,
ở
những
trang 248
đến
251, th́ các chứng
nhân thân cận
với
vị
được
tiền
định
làm người
thừa
kế
Thánh Phêrô thứ
263 của
Giáo Hội
bấy
giờ
cho biết
rằng,
sau khi nghe tin
Đức
Gioan Phaolô I qua
đời,
ngài
đă
tỏ
ra bối
rối
và bồn
chồn
khác thường,
dường
như
thể
ngài linh cảm
thấy
giờ
của
ngài
đă
điểm.
Trong cuốn
His Holiness – John Paul II and The Hidden History of Our Time của
tác giả
Carl Bernstein và Marco Politi, do Doubleday xuất
bản
năm
1996, trang 152-154 cũng
cho thấy
những
dấu
hiệu
khác thường
như
thế.
Tuy nhiên, tác phẩm
này c̣n cho biết
thêm hai chi tiết
đặc
biệt
nữa,
đó
là, thứ
nhất,
hồng
y Wojtyla có thể
linh cảm
thấy
giờ
của
ḿnh
đă
điểm
bởi
v́ ngài thấy
ḿnh
đă
được
khá phiếu
khi bầu
Giáo Hoàng Gioan Phaolô I rồi.
Chi tiết
thứ
hai mới
hết
xẩy
hơn
nữa,
đó
là lời
của
Dức
Gioan Phaolô I tiên báo về
vị
kế
nhiệm
ḿnh.
Ở
trong 152, chúng ta
đọc
thấy
lời
của
Đức
Gioan Phaolô I nói với
vị
Hồng
Y Quốc
Vụ
Khanh của
ḿnh là Villot
ở
một
bữa
ăn
tối
trước
khi qua
đời
mấy
hôm như
sau:
“Một
người
khác khá hơn
tôi có thể
sẽ
được
chọn.
Đức
Phaolô VI
đă
bổ
nhiệm
vị
thừa
kế
của
ḿnh: Vị
ấy
đă
ngồi
ở
trước
tôi trong Nguyện
Đường
Sistine… Vị
này sẽ
tới,
v́ tôi sẽ
ra
đi”.
Đúng
thế,
Hồng
Y Wojtyla là vị
ngồi
trước
Hồng
Y Albino Luciani, vị
giáo
hoàng 33 ngày (26/8-28/9/1978) như
là một
thời
điểm
để
chuyển
tiếp
và gợi
ư cho vị
thừa
nhiệm
Gioan Phaolô II.
Thế
nhưng,
vấn
đề
được
đặt
ra
ở
đây
là làm thế
nào vị
Đại
Diện
Chúa Kitô thứ
264 trên trần
gian Gioan Phaolô II này,
đang
sống
trong một
đất
nước
cộng
sản,
phải
học
làm linh mục
chui, lại
có thể
trở
thành giáo hoàng như
vậy?
Tức
là,
để
làm giáo hoàng tất
phải
làm giám mục,
nhất
là tổng
giám mục
và hồng
y, nhưng
làm thế
nào ngài
được
tấn
phong giám mục,
rồi
trở
thành tổng
giám mục
và hông y nếu
nhà
nước
cộng
sản
Balan không
đồng
ư hay cho phép, như
là một
qui luật
bất
di bất
dịch
vẫn
thấy
xẩy
ra
ở
các nước
thuộc
khối
cộng
sản?
Cũng
tác giả
cuốn
“His Holiness”, trang 99-101, cho biết
biến
cố
của
vị
tổng
giám mục
Kracow Balan ngày 30/12/1963 rất
lạ
lùng
theo đúng
như
sự
quan pḥng thần
linh của
Đấng
là chủ
tể
lịch
sử
loài người.
Ở
chỗ,
vị
giáo chủ
Balan bấy
giờ
là
Đức
Hồng
Y Wyszynski cần
phải
t́m một
vị
tổng
giám mục
ở
Kracow thay thế
cho vị
vừa
qua
đời
vào năm
1962 là Tổng
Giám Mục
Baziak.
Tuy
nhiên, hai lần
liệt
kê danh sách 3 vị
có thể
thay thế
để
nộp
sang cho Ṭa Thánh
đều
bị
nhà cầm
quyền
cộng
sản
Balan bác bỏ.
Trong hai danh sách này
đều
không có tên của
vị
đang
xử
lư thường
vụ
bấy
giờ
ở
Tổng
Giáo Phận
Kracow này là
Đức
Giám Mục
Wojtyla. Thế
nhưng,
sau khi vị
giáo chủ
Balan là
Đức
Hồng
Y Wyszynski biết
được
ư muốn
của
nhân vật
có quyền
phủ
quyết
hai danh sách của
ngài là Zenon Kliszko, th́ cho dù ngài dường
như
vẫn
cảm
thấy
không hợp
hơn
là không
ưa
Đức
Giám Mục
Wojtyla, cũng
đành
phải
cho tên
của
vị
giám mục
mà ngài cho là nghiêng về
trí thức
hơn
là cứng
rắn
về
chính trị
như
ngài, nhưng
lại
là vị
được
những
tai mắt
đầu
năo
của
nhà cầm
quyền
cộng
sản
Balan bấy
giờ
nghĩ
rằng
có thể
nắm
đầu
và dễ
dàng sai khiến
nên mới
muốn
có tên vị
giám mục
này trong danh
sách thừa
kế
Tổng
Giáo Phận
Kracow.
Mầu
nhiệm thay sự quan pḥng của Thiên Chúa. Khôn ngoan thay đường lối
của Ngài. Ngài không ép buộc cộng sản làm những ǵ ngược với ư của
họ, trái lại, chính lúc họ làm theo ư của ḿnh, ư mà họ cho rằng
khôn ngoan nhất, để có thể củng cố chế độ của họ, để có thể củng cố
địa vị của họ, th́ lại là những ǵ tác hại họ, đến độ đất nước của
họ cũng là của vị giáo hoàng Gioan Phaolô II, vào mùa thu năm 1989,
đă
trở thành nơi đầu tiên phát xuất ra những biến chuyển bất bạo động
mănh liệt và quyết liệt nhất chống lại chế độ cộng sản, đến độ, chỉ
trong ṿng mấy tháng cuối năm này, một thế giới Cộng Sản Đông Âu đă
hoàn toàn tự giải thể. Bởi thế, t́nh trạng tồn tại của những chế độ
cộng sản ở một số nước trên thế giới, (Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn,
Cuba, Cam Bốt), thậm chí cho đến ngày nay, dù không đáng gọi là cộng
sản nữa, v́ trong ruột gan của thành phần cán bộ, từ trên xuống dưới,
đă đầy những tư bản và toàn là tư bản, vẫn là những dấu hiệu hùng
hồn cho thấy, không ai có thể hủy diệt được họ, ngoài một ḿnh Đấng
làm chủ lịch sử loài người, một khi tới thời điểm Ngài ra tay.
2- Vị giáo hoàng bị ám sát đă ảnh hưởng đến biến cố Đông Âu sụp đổ:
Đúng thế, Quảng Trường Thánh Phêrô, vào lúc 5 giờ chiều ngày
13/5/1981, ngay trước buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần, đă đột
nhiên vang tiếng súng……, thật ra là mấy tiếng súng chứ không phải
một, những tiếng súng vang lên chỉ cách chiếc giáo hoàng xa của Đức
Gioan Phaolô II có 20 bộ (hay 6 thước), khi ngài ở trên chiếc xe này
đang chạy chung quanh quảng trường ấy theo thường lệ để chào tín hữu
đang qui tụ chờ ngài bấy giờ. Hậu quả là viên đạn phát ra từ ṇng
súng lục tự động 9 ly đă xuyên vào thân thể của vị Giáo Hoàng này,
trúng bao tử của ngài, cùi trỏ bên cánh tay phải của ngài và ngón
tay trỏ bên trái của ngài. Ngài đă được cấp tốc đưa vào bệnh viện,
và chỉ khi tới bệnh viện ngài mới hoàn toàn bất tỉnh nhân sự. Cuộc
giải phẫu cứu mạng ngài đă kéo dài 5 tiếng 20 phút, và thân thể ở
vào tuổi gần 61 của ngài bấy giờ đă bị mất đi tới 60% lượng máu
loang chảy trong ḿnh. Tuy nhiên, kể từ biến cố bị ám sát hụt ấy,
sức khỏe của con người vốn yêu chuộng thể thao này đă trở nên suy
kém, cho tới ngày ngài qua đời 24 năm sau bởi một cơn kịch bệnh cuối
cùng, kết thúc cuộc đời gần 85 tuổi đời của ngài
(18/5/1920-2/4/2005).
Cho đến nay người ta vẫn cố gắng điều tra vụ ám sát ĐTC GPII, nhất
là sau ngày ra mắt tác phẩm thứ 5 của ĐTC hôm 22/2/2005, ngày lễ
ngai ṭa thánh Phêrô, tác phẩm mang tựa đề “Hồi Niệm và Căn Tính”,
trong đó, ở phần cuối, ĐTC có đề cập đến biến cố ngài bị ám sát.
Đúng thế, trong lời kết của cuốn sách này, ĐGH đă nhận định về giây
phút bị ám sát như sau:
“Tất cả đều là những ǵ chứng tỏ cho thấy ân sủng thần linh: Agca
đă biết bắn ra sao và chắc chắn anh ta bắn là phải chết. Dường như
có ai đă làm lệch đi viên đạn được bắn tới. Tôi có cảm giác rằng tôi
sẽ sống sót: Tôi cảm thấy đớn đau, tôi đă có lư để lo sợ, nhưng tôi
đă có cảm giác tin tưởng lạ lùng này. Tôi nói với Don Stanislaw là
thư kư riêng của tôi rằng tôi tha thứ cho kẻ tấn công tôi”.
Cũng trong phần cuối sách này ĐTC cũng đề cập tới việc ngài viếng
thăm Ali Agca trong tù vào dịp Giáng Sinh 1983, ngài viết:
“Ali Agca, như mọi người nói, là một tay sát thủ lành nghề. Điều
này có nghĩa là cuộc tấn công không phải do anh ta khởi xướng mà là
một ai đó âm mưu, một ai đó truyền khiến. Trong suốt cuộc gặp gỡ này
rơ ràng là Ali Agca cứ tiếp tục ngẫm nghĩ tại sao cuộc tấn công lại
có thể bất thành được chứ. Có lẽ Ali Agca trực giác thấy rằng, ngoài
quyền lực của ḿnh, ngoài khả năng bắn hạ, c̣n có một quyền lực cao
tay hơn thế nữa. Để rồi anh ta bắt đầu t́m kiếm quyền năng này. Tôi
hy vọng rằng anh ta đă t́m thấy quyền năng ấy”.
Vị giám đốc văn pḥng báo chí ṭa thánh c̣n nói:
“Đức Giáo Hoàng tin rằng Ali Agca không hành động một cách t́nh
cờ”.
Vị giám đốc nhận
định thêm như thế này:
“từ
khi ở trong tù được nói chuyện với Đức Giáo Hoàng, người ta thấy Ali
Agca đă hoàn toàn bị ám ảnh ra sao với mầu nhiệm Fatima. Ở chỗ, anh
ta không thể nào hiểu được có một cái ǵ đó đáng lẽ anh ta phải làm
chủ về phương diện kỹ thuật trong cuộc tấn công Giáo Hoàng lại không
xẩy ra như dự định. Ali Agca chỉ quan tâm tới những vấn đề về kỹ
thuật mà thôi chứ không phải những vấn đề về luân lư”.
Vị giám đốc này tiết lộ cho biết là kẻ ám sát này “không hề xin
Đức Giáo Hoàng thứ tha”.
ĐHY Ratzinger đă cho biết Đức Giáo Hoàng đă nói về Agca như là
“nạn nhân của một thứ lư lẽ lỏng lẻo bất toàn xét về mọi khía
cạnh. Anh ta là một người Hồi giáo, và có lẽ cũng v́ thế mà anh ta
đă rơi vào một cơn lốc sợ hăi làm cho anh ta không bao giờ thoát
khỏi, v́ anh ta tiếp tục tin rằng anh ta là một phần của điềm báo
trong phần thứ ba của Bí Mật Fatima. Thế nhưng, ngoài những suy đoán
này ra, Agca đă không bao giờ tự hỏi ḿnh về những ǵ anh ta làm, sự
kiện rơ ràng về cuộc ám sát vị Giáo Hoàng này chưa hề làm cho anh ta
cảm thấy phiền hà ǵ hết. Anh ta chỉ quan tâm có một điều duy nhất
thực sự đó là anh ta đă bị hụt mất mục tiêu”.
Được các kư giả hỏi về việc có nhận được những bức thư của tay ám
sát ĐTC hay chăng, ĐHY Ratzinger cho biết rằng ngài đă nhận được các
bức thư của Mehmet Ali Agca:
“Anh ta cũng đă viết thư cho tôi mà nói rằng: ‘Xin nói cho tôi
mầu nhiệm Fatima này là ǵ’. Ali Agca tin rằng nơi mầu nhiệm này anh
ta sẽ t́m thấy câu giải đáp về kỹ thuật cho một mầu nhiệm không thể
nào hiểu nổi, đó là cái lư do tại sao cuộc tấn công ĐGH không thành.
Thế nhưng, như ai cũng đă quá biết, cái liên hệ duy nhất giữa Agca
với Fatima là ngày 13/5, và những ǵ anh ta suy nghĩ chỉ hạn hẹp ở
mức độ này thôi”.
Vị giám đốc văn pḥng báo chí ṭa thánh, sau buổi ra mắt tác phẩm
của ĐTC, đă cho các phóng viên truyền h́nh biết nhận định của ḿnh
về anh ta như sau:
“Chúng là những cơn mê sảng, một thứ ám ảnh đă từng đeo đuổi Ali
Agca nhiều năm trời”.
Vào ngày 15/2, tức sau khi Nữ Tu Lucia, thụ khải Fatima cuối cùng
qua đời 2 ngày, anh ta đă gửi cho một tờ nhật báo một bản văn mang
tựa đề “Bức Thư Ngỏ với Vatican”. Trong bản văn này, anh ta bày tỏ
niềm cảm thông với việc qua đời của vị nữ tu, và nhấn mạnh rằng bí
mật Fatima có liên quan đến ngày tận thế, và yêu cầu Vatican vạch
mặt tên Phản Kitô (Quỉ Vương).
Ở phần phụ trương cuốn “Hồi Niệm và Căn Tính” của ḿnh (ấn
bản Anh ngữ, Rizzoli, New York, 2005), chính Đức Gioan Phaolô II đă
cho biết những ǵ xẩy ra sau tiếng súng nổ và sau khi ngài được đưa
vào bệnh viện thế này:
“Tôi đă không tỉnh dạy cho đến ngày hôm sau, vào khoảng buổi trưa”
(trang 161).
Cũng trong phần phụ trương này, (ở trang 163-164), ngài c̣n cho biết
thêm về con người ra tay ám sát ngài như sau:
“Vào khoảng Giáng Sinh năm 1983, tôi đă thăm kẻ tấn công tôi đang
bị nhốt trong tù. Chúng tôi nói chuyện lâu giờ. Aĺ Agca, ai cũng
đều biết, là một tay sát thủ chuyên nghiệp. Tức là cuộc tấn công này
không phải bởi sáng kiến riêng tư của anh ta, mà là từ ư nghĩ của
một người khác; một người nào đó đă sai khiến anh ta thực hiện điều
này. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi, Aĺ Agca vẫn c̣n tỏ ra lấy
làm ngạc nhiên không hiểu tại sao một cuộc cố t́nh ám sát như vậy mà
lại có thể bất thành cho được. Anh ta đă rất ư là thận trọng xếp đặt
mọi sự, chú ư tới từng chi tiết nhỏ một. Thế mà nạn nhân được nhắm
tới của anh ta lại thoát chết. Làm sao có thể xẩy ra như thế được cơ
chứ? Cái hay là ở chỗ t́nh trạng bối rối của anh ta đă dẫn anh ta
tới vấn đề về đạo giáo. Anh ta muốn biết về bí mật Fatima, và bí mật
này thực sự là ǵ. Đó là mối quan tâm chính của anh ta; anh ta muốn
biết điều này hơn bất cứ một cái ǵ khác. Có lẽ những vấn nạn dai
dẳng đă cho thấy rằng anh ta đă nắm được một điều ǵ đó thực sự là
hệ trọng. Aĺ Agca có lẽ đă cảm thấy được rằng có một quyền lực cao
cả, vượt trên cả quyền lực của anh ta, trên cả khả năng bắn giết
nữa. Bởi vậy anh ta đă bắt đầu t́m kiếm quyền lực cao cả này. Tôi hy
vọng và cầu xin cho anh ta t́m thấy quyền lực cao cả ấy”.
Căn cứ vào những chi tiết mới nhất từ tác phẩm “Hồi Niệm và Căn
Tính” của ĐTC GPII về vụ ngài bị ám sát, một ủy ban của quốc hội Ư
đă quyết định mở lại hồ sơ vụ này. Vị chủ tịch của Ủy Ban Điều Tra
của Quốc Hội này là ông Paolo Guoffanti đă cho các cơ quan Ư biết
hôm Thứ Tư 23/2/2004 là “Chúng tôi sẽ lập tức mở lại vụ tấn công Đức
Giáo Hoàng này”. Ông này nói thêm là cuộc tái điều tra ấy sẽ được
bắt đầu bằng “việc thu tích hồ sơ theo thủ tục liên quan đến tội ác
ghê tởm ấy, bằng cách mở lại những ǵ liên quan tới Nga Sô, cả KGB
lẫn GRU” là cơ quan t́nh báo quân sự của Nga. Vị chủ tịch này khẳng
định là quyết định tái điều tra vụ này được thực hiện “sau những
điều được chính Đức Giáo Hoàng chứng thực về nguồn gốc ư hệ của tội
ác này”. Tờ nhật báo Corriere della Sera xuất bản ở Ư vào ngày
30/3/2005 đă cho biết người ta đă t́m phá thấy hồ sơ về vụ ám sát
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II năm 1981, và căn cứ theo sở mật vụ
của cộng sản Đông Đức ngày xưa th́ hồ sơ cho thấy mật vụ KGB của
cộng sản Nga đă ra lệnh cho nhân viên t́nh báo của Bulgaria thi hành
âm mưu ám sát ĐGH.
Thế nhưng, dù loài người có chủ mưu và âm mưu sát hại người của
Thiên Chúa, vẫn không ra khỏi việc quan pḥng thần linh vô cùng khôn
ngoan và toàn năng của Ngài, như việc Ngài đă dùng cộng sản để đưa
ngài lên làm tổng
giám mục
vào đầu thập niên 1960, khi Công Đồng
Chung Vatican II (11/10/1962-8/12/1965) vừa khai mạc được ít lâu.
Nếu vụ ám sát ĐTC GPII liên quan đến Bí Mật Fatima, như chính ĐTC đă
thấy h́nh ảnh của ḿnh nơi vị giám mục áo trắng bị sát hại trong
phần thứ ba Bí Mật Fatima, sau khi ngài đọc phần bí mật này v́ sự vụ
ám sát xẩy
ra vào ngày liên hệ đến Fatima,
th́ nguyên do ngài bị ám sát là v́ Thiên Chúa muốn làm cho Mẹ được
nhận biết và yêu mến, qua việc ngài bị ám sát không chết vào chính
ngày
13/5
kỷ niệm biến cố Fatima, nhờ đó, ngài đă nhận ra được dấu chỉ thời
đại và mới dứt khoát đáp ứng điều trời cao chính thức yêu cầu được
ngỏ cùng chị Lucia từ ngày 13/6/1929, song vẫn chưa được thực hiện,
đúng hơn đă được thực hiện mà chưa hoàn toàn đúng theo ư Chúa, đó là
việc Đức Thánh Cha hiệp cùng với hàng giáo phẩm trên thế giới hiến
dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, một việc hiến
dâng cuối cùng ngài đă thực sự hoàn thành vào ngày 25/3/1984 và quả
thực đă làm cho Nước Nga trở lại ngày 25/12/1991, sau Biến Cố Đông
Âu năm.
Biến cố ngày 13/5/1981 quả thực
là một biến cố hết sức quan trọng, có thể được gọi là “Tiếng Súng
Lệnh” được trời cao báo động cho biết những ǵ sắp sửa xẩy ra ở
Âu Châu nói riêng cũng như trên thế giới nói chung, trong lịch sử
hiện đại của loài người, ở vào cuối thiên kỷ thứ hai Kitô giáo và
cuối thế kỷ 20 văn minh tân tiến. Thế mà, nhiều cuốn sách nổi tiếng
viết về vị Giáo Hoàng đến từ “một xứ sở xa xôi” kỳ lạ như một
“dấu chỉ thời đại” này đă hoàn toàn bỏ qua, như cuốn “Witness to
Hope” của tác giả George Weigel (Cliff Street Books / Harper
Collins, 1999, dầy 992 trang, khổ 6 x 9 in), hay cuốn “Man of the
Century” của Jonathan Kwitny (Henry Holt and Company, 1997, dầy
754 trang, khổ 6 x 9 in). Chỉ có cuốn “His Holiness” của Carl
Bernstein và Marco Politi (Doubleday, 1996, dầy 582, cỡ 6 x 9 in) là
đề cập đến biến cố này khá kỹ, ở những trang 293-300, và 478-483,
trong đó, hai vị tác giả của cuốn sách, (trong 8 chương có 2 chương
về Cộng sản: chương 5 - “Làm Rung Động Đế Quốc” và chương 7 -
“Cuộc Sụp Đổ của Cộng Sản”), đă đề cập tới chẳng những chính
biến cố và cuộc điều tra nội vụ, mà c̣n đến cả tác dụng của biến cố
này nơi bản thân vị Giáo Hoàng qua việc ngài hiến dâng Nước Nga theo
Bí Mật Fatima, để rồi từ đó và nhờ đó đi tới hiện tượng Đông Âu năm
1989. Tác phẩm này (ở trang 480) đă móc nối cái trùng hợp giữa việc
hiến dâng Nước Nga theo Bí Mật Fatima của vị Giáo Hoàng này vào
tháng 3/1984, với việc xuất hiện của vị thủ lănh cuối cùng Cộng Sản
Liên Bang Sô Viết là Mikhail Gorbachev ngay năm sau đó, cũng vào
Tháng 3, một
nhân vật thiên định cho cuộc sụp đổ hoàn toàn chế độ và chủ nghĩa
cộng sản ở Đông Âu và Liên Sô, vị lănh tụ cuối cùng của cộng sản
Liên Sô này đă phải công nhận ảnh hưởng chính yếu bất khả thiếu của
Vị Giáo Hoàng đến từ Balan Gioan Phaolô II này.
Thứ Tư 24/3/2004, áp ngày Lễ Mẹ Thai Lời 25/3 hằng năm, ĐTC đă dùng
buổi triều kiến chung hằng tuần này, buổi triều kiến Ngài vẫn chia
sẻ giáo lư từ năm 1979 đến bấy giờ, để nhắc lại mục đích của việc
Ngài tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ 20 năm trước đây,
vào dịp kết thúc Năm Thánh Cứu Chuộc, 25/3/1984 như sau:
“Tôi đặc biệt nhớ đến ngày 25/3 năm 1984, Năm Thánh Cứu Chuộc.
Hai mươi năm đă qua đi từ ngày ở Quảng Trường Thánh Phêrô, hiệp nhất
về tinh thần với tất cả các giám mục trên thế giới được ‘triệu tập’
trước đó, Tôi đă hiến dâng tất cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm
Nguyên Tội Mẹ Maria để đáp ứng lời yêu cầu của Đức Mẹ ở Fatima”.
Tuy ở đây ĐTC không nói đặc biệt đến việc hiến dâng Nước Nga cho Mẹ,
nhưng Ngài đă xác nhận là Ngài có ư làm điều ấy “để đáp ứng lời yêu
cầu của Đức Mẹ ở Fatima”, tức đáp ứng việc hiến dâng Nước Nga cho
Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Đó là lư do trong lời hiến dâng của
ḿnh bấy giờ, tức vào ngày 25/3/1984, Đức Thánh Cha đă nói một cách
khôn khéo nguyện cầu cùng Mẹ như sau:
“Chúng con hôm nay đặt ḿnh trước nhan Mẹ trong năm mừng kỷ niệm
ơn cứu rỗi. Chúng con xin hợp với tất cả mọi chủ chăn trong Giáo
Hội làm thành một thân thể và một tập đoàn, đúng như ư của Chúa
Kitô muốn các tông đồ hiệp nhất với thánh Phêrô. Trong mối liên
kết hiệp nhất này, chúng con đọc những lời hiến dâng mà chúng
con muốn bao gồm một lần nữa hy vọng của Giáo Hội cũng như lo âu đối
với thế giới ngày nay. Bốn mươi năm về trước, rồi 10 năm sau đó, tôi
tớ của Mẹ là Đức Giáo Hoàng Piô XII, chứng kiến cảnh khổ đau của gia
đ́nh nhân loại, đă phó thác và hiến dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, đặc biệt là nhân dân mà Mẹ yêu
thương và quan tâm cách riêng. Cũng thế giới của mọi
người và mọi dân tộc này trước mắt của con hôm nay đây, con xin lập
lại việc phó thác và hiến dâng mà vị tiền nhiệm của con đă thực hiện
ở Ṭa Thánh Phêrô: thế giới của kỷ nguyên thứ hai đang kết thúc, thế
giới tân tiến, thế giới của chúng con hôm nay! Một cách đặc
biệt, chúng con xin phú thác và hiến dâng cho Mẹ tất cả những
người và những dân nước cần được phú thác và dâng hiến. Chúng
con chạy đến với sự bảo hộ của Mẹ, Thiên Chúa Thánh Mẫu: xin đừng
chê chối lời cầu xin chúng con dâng lên Mẹ trong cơn khẩn trương của
chúng con”.
3- Vị giáo hoàng Totus Tuus của Ḷng Thương Xót Chúa:
Hiện Tượng Gioan Phaolô II, như đă tŕnh bày và nhận định ở hai phần
trên, trước hết được diễn ra khi ngài trở thành vị giáo hoàng xuất
hiện từ một nước cộng sản Balan, và sau đó lại là vị giáo hoàng đă
làm sụp đổ chế độ và chủ nghĩa cộng sản ở chung Âu Châu, nhưng đặc
biệt nhất và lạ lùng nhất phải kể đến, sau hết, là thời điểm ngài
qua đời, thời điểm xẩy ra vào đêm Thứ Bảy Đầu Tháng, ngày 2/4/2005,
lúc 9 giờ 37 phút, sau khi ngài tham dự Thánh Lễ cuối cùng tại pḥng
của ngài, lại chính là Thánh Lễ Vọng Ḷng Thương Xót Chúa cho Chúa
Nhật 3/4/2005, Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, Chúa Nhật được ngài,
trong Thánh Lễ Phong Thánh cho Chị Nữ Tu đồng hương Balan Faustina
của ḿnh ngày 30/4/2000, đă thiết lập như Lễ Kính Ḷng Thương Xót
Chúa, đúng như Chúa Giêsu đă muốn qua người nữ sứ giả Faustina của
Người.
Thời điểm
ngài chết vào đêm Thứ Bảy Đầu Tháng sau Lễ Vọng Kính Ḷng Thương Xót
Chúa quả thực đă cho thấy linh đạo sống và tác hành thừa tác vụ của
ngài, một linh đạo được tóm gọn trong hai chữ "Totus Tuus", một khẩu
hiệu được ngài lấy trong tác phẩm Luận Về Ḷng Thành Thực Sùng Kính
Mẹ Maria của Thánh Long Mộng Phố (Louis de Montfort), số 233, nguyên
văn câu Latinh như sau: "Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua
sunt.
Accipio Te in mea omnia. Praebe mihi Tuum, Maria",
nhưng được Thánh Long Mộng Phố viết như thế này: “Ôi Chúa Giêsu
yêu dấu, nhờ Mẹ Maria là Người Mẹ Thánh của Chúa, tất cả những ǵ
con là đều là của Chúa và tất cả những ǵ con có là của Chúa –
Totus Tuus”.
Bởi thế có thể gọi Đức Gioan Phaolô II là Vị Giáo Hoàng Totus Tuus
của Ḷng Thương Xót Chúa. Nếu Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là vị Giáo
Hoàng thần học gia về Thánh Kinh và Phụng Vụ, một thần học gia đă
đặc biệt góp phần vào hai Hiến Chế Phụng Vụ Thánh và Hiến Chế Mạc
Khải Lời Chúa trong Công Đồng Vaticanô II, th́ Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II là vị Giáo Hoàng triết gia về nhân bản đă góp phần chính
yếu vào hai Hiến Chế c̣n lại là Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân về
chính căn tính của Giáo Hội và Hiến Chế Vui Mừng Và Hy Vọng
về môi trường mục vụ của Giáo Hội liên quan đến con người và thời
đại tân tiến của họ.
Bức Thông Điệp đầu tay mở màn cho giáo triều của Đức Gioan Phaolô II
là Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis, ban hành
ngày 4 tháng 3 năm 1979, một thông điệp như để dẫn giải và khai
triển lời ngài trấn an và kêu gọi thế giới cũng như con người thời
đại “Đừng sợ” trong bài giảng cho Lễ Đăng Quang Giáo Hoàng Chúa
Nhật 22/10/1978 của ngài. Chúng ta có thể
coi đoạn sau đây như đoạn cốt lơi của toàn thông điệp Đấng Cứu Chuộc
Nhân Trần của ngài:
"Con người không thể nào sống mà không yêu thương. Họ măi là một hữu
thể không hiểu được ḿnh, đời sống của họ vô nghĩa, nếu t́nh yêu
không tỏ hiện cho họ thấy, nếu họ không gặp gỡ t́nh yêu, nếu họ
không cảm nghiệm được nó và làm cho nó thành của ḿnh, nếu họ không
mật thiết liên kết với nó. Đó là, như đă nói đến, lư do tại sao Đức
Kitô Đấng Cứu Chuộc 'hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con
người họ'. Nếu chúng ta cần diễn tả, th́ đây là chiều kích nhân loại
của mầu nhiệm của việc cứu chuộc. Trong chiều kích này, con người,
một lần nữa, t́m được sự cao cả, phẩm vị và giá trị thuộc về nhân
tính của họ. Nơi mầu nhiệm của việc cứu chuộc, con người được 'thể
hiện' một cách mới mẻ, và, một cách nào đó, được tạo dựng một cách
mới mẻ. Con người được tạo dựng một cách mới mẻ! 'Không c̣n Do Thái
hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ; v́ anh em tất cả là một
trong Đức Giêsu Kitô' (Gal 3:28). Con người muốn hiểu ḿnh hoàn toàn
- không chỉ hợp với những tiêu chuẩn và mức độ trực tiếp, bán phần,
thường nông cạn, hay ảo tưởng về hữu thể ḿnh - họ phải đến gần Chúa
Kitô, với nỗi khắc khoải và lo âu của họ, cả với nỗi yếu đuối và tội
lỗi của họ, với sự sống và cái chết của họ. Như thế, họ phải vào
trong Người với tất cả cái tôi riêng của họ, họ phải 'thích hợp' và
đồng hóa với toàn thể thực tại của mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc
để t́m thấy chính ḿnh. Nếu tiến tŕnh sâu xa này xẩy ra nơi họ, th́
họ mới sinh hoa trái, chẳng những nơi việc tôn thờ Thiên Chúa, mà
c̣n nơi cả sự bỡ ngỡ lạ lùng về ḿnh nữa. Con người qúi hóa là chừng
nào trước mắt của Hóa Công, khi họ 'được một Đấng Cứu Chuộc cao cả
như vậy' (tụng ca Lễ Vọng Phục Sinh), và khi Thiên Chúa 'đă ban Con
duy nhất của ḿnh' để con người 'không phải chết nhưng được sự sống
đời đời' (Jn 3:16)”.
Bởi thế chúng ta không lạ ǵ, vào lần tông du thứ 8 cũng là lần cuối
cùng về quê hương Balan của ḿnh vào năm 2002, Đức Gioan Phaolô II
đă chẳng những tóm gọn t́nh h́nh nhân loại hết sức thảm thương sau
26 năm rưỡi làm giáo hoàng của ḿnh mà c̣n cống hiến cho họ một con
đường giải thoát để mang lại cho họ "vui mừng và hy vọng", đó là con
đường quay về với Ḷng Thương Xót Chúa. Ngài đă huấn dụ trong Bài
Giảng Thánh Lễ Phong 4 tân Chân Phước Balan Chúa Nhật 18/8 tại
Blonie Park ở Krakow Balan, đoạn 3 như sau:
Có lẽ v́ thế kỷ 20, mặc dù có những thành đạt không thể chối căi về
nhiều lănh vực, cũng đă bị ghi dấu một cách đặc biệt bởi mầu nhiệm
lỗi lầm “mystery of iniquity”.
Chúng ta đă tiến vào ngàn năm mới với di sản vừa thiện vừa ác này.
Những chân trời mới trong việc phát triển đang mở ra trước nhân
loại, kèm theo đó có cả những cái nguy hiểm chưa từng có. Con người
thường sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, thậm chí đặt ḿnh vào
vị thế của Thiên Chúa nữa. Họ tự cho ḿnh quyền hành của một Vị Tạo
Hóa trong việc can thiệp vào mầu nhiệm sự sống con người. Họ muốn
định đoạt sự sống con người bằng cách léo lái việc truyền giống cũng
như muốn thiết định giới hạn sự chết. Khi loại trừ lề luật thần linh
và những nguyên tắc luân lư, họ công khai tấn công cơ cấu gia đ́nh.
Bằng những cách thức khác nhau, họ cố gắng làm cho Thiên Chúa phải
im hơi lặng tiếng nơi tâm can của con người; họ muốn làm cho Thiên
Chúa “hoàn toàn khuất bóng” nơi văn hóa và lương tâm các dân tộc.
“Mầu nhiệm lầm lỗi” tiếp tục đánh dấu cái thực tại của thế giới này.
Cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy, con người
mới sống trong nơm nớp lo sợ về tương lai, lo sợ về t́nh trạng trống
rỗng, lo sợ phải khổ đau, lo sợ bị hủy diệt. Có lẽ chính v́ lư do
này mà Chúa Kitô, qua việc sử dụng chứng từ của một Nữ Tu thấp hèn,
đă đến với thời đại của chúng ta để tỏ cho chúng ta thấy một cách rơ
ràng nguồn mạch sống khuây khỏa và hy vọng ở nơi t́nh thương đời đời
của Thiên Chúa. Sứ điệp t́nh yêu nhân hậu cần được vang vọng một
cách mạnh mẽ một lần nữa. Thế giới cần đến thứ t́nh yêu này. Đă đến
thời giờ cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi người: cho
các kẻ trị v́ và thành phần bị áp bức, cho những ai có bản tính và
phẩm vị bị tiêu ma trong mầu nhiệm lỗi lầm. Đă đến lúc sứ điệp Ḷng
Thương Xót Chúa có thể làm cho các tâm hồn tràn đầy hy vọng và trở
nên tia sáng cho một nền văn minh mới, một nền văn minh yêu
thương”.
Chính v́ xác tín được rằng “Thế giới
cần đến thứ t́nh yêu này” và
cũng chính v́ cảm thấy rằng:
“Đă đến thời giờ cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi
người” mà Đức Gioan Phaolô II đă sống và làm tông đồ cho
Ḷng Thương Xót Chúa qua các việc ngài làm trong suốt giáo triều dài
26 năm rưỡi của ngài, chẳng hạn như 14 sự kiện sau đây:
1.
Ngày 4/3/1979 ban hành Thông Điệp
Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis
2.
Ngày 30/11/1980 ban hành Thông Điệp về Chúa Cha Giầu Ḷng Thương
Xót – Dives in Misericordia
3.
Ngày 11/2/1984 ban hành
Tông Thư Đau Khổ Cứu Độ – Salvifici Doloris
4.
Ngày 13/5/1992, thiết
lập Ngày Thế Giới Bệnh Nhân
cử hành hằng năm vào Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2
5.
Ngày 10/11/1994 ban hành Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến
dọn mừng Đại Năm Thánh 2000, trong đó bao gồm cả việc
khởi xướng chiến dịch giảm nợ nần quốc tế
cho các nước nghèo
6.
Ngày 25/3/1995 ban hành Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống -
Evangelium Vitae,
trong đó
bao gồm cả việc
đẩy mạnh cuộc
vận động chống án tử h́nh trên thế giới
7.
Ngày 13/2/2000 trong Đại Năm Thánh cử hành Ngày Ḥa Giải để
thay cho toàn thể Giáo Hội
công khai và chính thức
xin lỗi và thứ lỗi
8.
Ngày 30/4/2000 phong Hiển Thánh cho Nữ Tu Maria Faustina, Sứ
Giả của Ḷng Thương Xót Chúa
9.
Ngày 14/6/2000 tay sát thủ Ali Agca ra khỏi tù chung thân do
ngài xin Tổng Thống Ư quốc ân xá cho anh ta trong năm 2000
10.
Ngày 1/1/2002 ban Sứ Điệp cho Ngày Thế
Giới Ḥa B́nh với chủ đề “Ḥa B́nh
Không Thể Thiếu Công Lư, Công Lư Không Thể Thiếu Thứ Tha”
11.
Ngày 17/8/2002 long trọng hiến dâng loài người cho Ḷng
Thương Xót Chúa khi cung hiến Đền Thờ Ḷng Thương Xót Chúa ở Balan
12.
Ngày 1/2/2005 bắt đầu cuộc
khổ nạn với cơn bệnh quyết liệt cuối đời
13.
Ngày 22/2/2005 phổ
biến tác phẩm cuối đời “Hồi Niệm và
Căn Tính – Memory and Identity” liên quan đến sự dữ và
Ḷng Thương Xót Chúa
14.
Ngày 3/4/2005 huấn từ dọn sẵn cho trưa Chúa Nhật II Phục Sinh như một
Di Chúc cho Giáo Hội về việc chiêm ngưỡng và loan truyền Ḷng Thương
Xót Chúa cho một thế giới đáng thương.
Như thế, Đức Gioan Phaolô II quả thực là Vị Giáo Hoàng Totus Tuus
của Ḷng Thương Xót Chúa đă mang "vui mừng và hy vọng" đến cho thế
giới càng văn minh con người càng buồn chán, càng lo âu và càng bạo
loạn. Đó là mục đích chính yếu của 104 chuyến tông du của vị giáo
hoàng có giáo triều dài thứ ba trong lịch sử Giáo Hội, dài 26 năm
rưỡi (16/10/1978-2/4/2005). Và v́ thế, khi ngài vừa nằm xuống, nhân
loại đă mau mắn và nhiệt liệt đáp lễ ngài, từ thành phần lănh đạo
chư quốc và quốc tế (200 vị) lẫn thành phần giới trẻ, bằng cách
đông đảo (khoảng 3 triệu người, trong đó có 6000 phóng viên đủ loại)
tuốn về Vatican tham dự Lễ An Táng của ngài, (không kể
khoảng 2 tỉ người theo dơi qua truyền h́nh),
và thành phần tham dự tại chỗ c̣n
cố gắng kính viếng thi thể của ngài, (cho
dù phải đợi cả ngày cho 1 giây phút ngắn ngủi ngắm nh́n), một thân
xác vốn đầy thể lực và thể thao nhưng đă bắt đầu quằn quại với bệnh
nạn kể từ sau khi bị ám sát chết hụt vào ngày 13/5/1981. Sau đây là
những nhận định của chính vị giáo hoàng kế nhiệm ngài về tác
dụng cái chết của ngài.
Trong Sứ Điệp đầu tiên ngỏ cùng Hồng Y Đoàn ngày 20/4/2005:
“Cái chết của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và những ngày sau đó,
đối với Giáo Hội cũng như toàn thế giới là một thời điểm đặc biệt ân
sủng. Nỗi đớn đau cả thể về cái chết của ngài cùng cái trống không
lưu lại nơi tất cả chúng ta đă được tôi luyện bởi tác động của Chúa
Kitô Phục Sinh, một tác động, trong những ngày dài này, được tỏ hiện
nơi một triều sóng tin tưởng, yêu thương và đoàn kết thiêng liêng,
những ǵ đă lên đến tuyệt đỉnh vào lễ an táng trọng thể của ngài.
“Chúng ta có thể nói rằng, lễ an táng của Đức Gioan Phaolô II
thực sự là một cảm nghiệm phi thường về những ǵ tỏ ra cho thấy một
cách nào đó quyền năng của Thiên Chúa là Đấng, qua Giáo Hội của
Ngài, muốn h́nh thành một đại gia đ́nh bao gồm tất cả mọi dân tộc,
bằng quyền lực liên kết của Sự Thật và Yêu Thương. Trong giờ lâm
chung, giống như Sư Phụ và Chúa của ḿnh, Đức Gioan Phaolô II đă tôn
vinh giáo triều lâu dài và thành công của ḿnh, bằng việc củng cố
dân Kitô giáo trong đức tin, qui tụ họ lại bên ngài và làm cho cả
nhân loại cảm thấy liên kết với nhau hơn...
“Vào lúc này đây, kư ức của tôi nhớ lại cảm nghiệm không thể nào
quên được tất cả chúng ta đă trải qua với cái chết và lễ an táng cho
Đức Gioan Phaolô II tiếc thương. Quanh thi thể của ngài, nằm trên
mặt đất trống, các vị lănh đạo chư quốc đă qui tụ lại, cùng với dân
chúng thuộc tất cả mọi giai cấp xă hội, nhất là giới trẻ, để tỏ ḷng
măi măi gắn bó quí mến và ca ngợi ngài. Toàn thể thế giới đă tin
tưởng nh́n vào ngài. Đối với nhiều người th́ việc tham dự đông đảo
này, một cuộc tham dự được các phương tiện truyền thông phóng đại
đến cả những nơi xa xôi của hành tinh này, như thể là việc nhân loại
văn minh tân tiến, một nhân loại bị hoang mang sợ hăi và bất ổn,
đang tự hỏi ḿnh về tương lai, muốn đồng thanh yêu cầu vị Giáo Hoàng
này giúp đỡ”.
Trong Diễn Từ Tất Niên với Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005:
“Việc đáp ứng xẩy ra khắp thế giới trước cái chết của vị Giáo
Hoàng này là việc hết ḷng bày tỏ ḷng tri ân về sự kiện là ngài đă
hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa v́ thế giới khi thi hành thừa tác
vụ của ngài; một lời tạ ơn cho sự kiện là trong một thế giới đầy hận
thù và bạo lực này, ngài đă dạy một cách mới mẻ t́nh yêu thương và
khổ đau trong việc phục vụ tha nhân; có thể nói ngài đă tỏ cho chúng
ta thấy trong xác thịt Đấng Cứu Chuộc, việc cứu chuộc, và đă cống
hiến cho chúng ta niềm tin tưởng rằng, thật ra sự dữ không phải là
phán quyết tối hậu trên thế gian này”.
Trong Bài Giảng Lễ Giỗ 3 năm của Đức Gioan Phaolô II:
"Ngày 2/4 đă trở nên sâu đậm trong kư ức của Giáo Hội như là ngày
của Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II chào biệt thế giới này.
Chúng ta hăy sống lại cảm xúc của những giờ phút buổi chiều Thứ Bảy
hôm ấy, khi mà tin tức của việc ngài qua đời được nghe thấy bởi một
đám rất đông dân chúng đang nguyện cầu đầy ở Quảng Trường Thánh
Phêrô. Trong ṿng có ít ngày mà Đền Thờ Vatican và Quảng Trường này
đă thực sự trở nên tâm điểm của thế giới. Một gịng người hành hương
liên tục tuôn đến kính viếng thi hài của vị Giáo Hoàng đáng kính và
lễ an táng của ngài là một chứng từ cuối cùng cho thấy ḷng quí mến
và cảm mến ngài đă chiếm được nơi tâm linh của rất nhiều tín hữu và
dân chúng ở khắp cùng trái đất".
Tuy
nhiên, trước khi có một Lễ An Táng vô tiền và có thể khoáng hậu này
của Vị Giáo Hoàng Totus Tuus của Ḷng Thương Xót Chúa, vị Giáo Hoàng
mang “vui mừng và hy vọng” của Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần
– Redemptor Hominis đến cho thế giới tân tiến đang quằn quại
và chới với trong mầu nhiệm lỗi lầm,
ngài
đă được nên giống Chúa Kitô sống cuộc vượt qua cuối đời. Trong bài
Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 2/4/2006 kỷ niệm đúng một năm băng hà
của vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II, ĐTC Biển Đức XVI đă chia sẻ về
những ngày cuối đời của ngài như sau:
“Vào ngày 2/4 năm ngoái, một ngày như hôm nay đây, Vị Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta đă sống vào những giờ phút như
thế này đoạn hành tŕnh cuối cùng của đời ngài, một cuộc hành tŕnh
đức tin, đức mến và đức cậy, một cuộc hành tŕnh đă để lại một nét
đậm nơi lịch của Giáo Hội cũng như của nhân loại. Cuộc khổ nạn và
cái chết của ngài giống như một giai đoạn kéo dài của Tam Nhật Phục
Sinh.
“Tất cả chúng ta vẫn c̣n nhớ các h́nh ảnh về cuộc Đi Đường Thánh Giá
cuối cùng của ngài hôm Thứ Sáu Tuần Thánh: V́ không đến được Hí
Trường Colosseum, ngài đă theo dơi đường thánh giá từ nguyện đường
riêng của ngài, tay ôm cây thập giá. Thế rồi, vào Chúa Nhật Phục
Sinh, ngài đă ban phép lành ‘urbi et orbi’, song không thể nói lên
lời nào, mà chỉ lấy tay ra dấu mà thôi. Đó là một phép lành đớn đau
và cảm kích được ngài lưu lại cho chúng ta như chứng từ cao cả nhất
về việc ngài cương quyết hoàn thành sứ vụ của ngài cho tới cùng…..
“Trong những năm cuối cùng của ngài, Chúa đă dần dần tước lột ngài
khỏi tất cả mọi sự, để làm cho ngài hoàn toàn nên giống Người. Và
khi ngài không c̣n tông du được nữa, sau đó thậm chí không c̣n bước
đi được nữa, sau cùng đến nỗi không c̣n nói được nữa, th́ cử chỉ của
ngài, việc loan báo của ngài được biến thành những ǵ thiết yếu, đó
là việc ban tặng bản thân ḿnh cho đến cùng….”
Và ngay sau khi ngài vừa qua đời, hiện
tượng lạ lùng nhất xuất phát từ Vị Giáo Hoàng xưng tội hằng tuần và
là
Tông Đồ Chúa T́nh Thương này không phải là Thánh Lễ An Táng chưa
từng thấy của ngài sau đó 6 ngày, hay là phép lạ chữa lành phần xác
cho một nữ tu xẩy ra sau đó 2 tháng, mà là phép lạ phần hồn xẩy ra
ngay sau đó cho nhiều linh hồn trên thế giới cũng như ở ngay tại khu
vực Vatican.
Trong tác phẩm
"God's Choice" của tác giả George Weigel, do Harper Perennial xuất
bản năm 2005, ở trang 82 đă thuật lại rằng sau khi giải tội vào
chiều Thứ Bảy như thường lệ, một chiều Thứ Bảy lịch sử bởi biến cố
qua đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II theo giờ ở Miền Tây Hoa Kỳ
(Vatican đi trước địa phương này 6 tiếng), Cha Jay Scott Newman, cha
sở Nhà Thờ Công Giáo Thánh Maria ở Greenville, South Carolina, cho
biết là ngài đă bắt được 6 con cá kếch sù, nặng từ 30 đến 40 năm
chưa xưng tội, và từng người trong họ đều trả lời cho ngài rằng sở
dĩ họ t́m về với Ḷng Thương Xót Chúa là v́ cái chết của Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II, một cái chết chỉ 4 tiếng đồng hồ sau đă mang về
cho Chúa 6 tâm hồn xa cách Chúa tưởng chừng vĩnh viễn ấy.
Chưa
hết, ở trang 94, cùng vị tác giả này c̣n cho biết, dọc theo con
đường Via della Conciliazione, một con đường rộng lớn đầy những cửa
hàng, vào đêm Thứ Năm, 7/4/2005, lúc mà đă có khoảng 2 triệu người
được phúc chiêm ngắm thi thể của Đức Gioan Phaolô II lần cuối cùng,
trong khi đó c̣n cả chục ngàn người nữa vẫn đang canh thức qua đêm đợi
chờ cho tới phiên của ḿnh trước khi không c̣n được phép để sửa soạn
cho Thánh Lễ An Táng hôm sau, th́ cũng có những hàng dài đầy những
con người dọc hai bên con đường ấy đang chờ xưng tội với các vị linh
mục đeo giây stolla ngồi ở trên những bậc thềm của hầu hết các cửa
hàng, như để dọn ḿnh xứng đáng tham dự Thánh Lễ An Táng của vị được
dân chúng gọi là
Đại Gioan Phaolô II và là vị đă được đột phát hô lên Thánh
Ngay, kèm theo bằng những tràng vỗ tay ngay trong thánh
lễ an táng, một cử chỉ hân hoan vui mừng hoàn toàn ngược đời chưa
từng thấy ở một lễ an táng nào, nhưng lại là một dấu hiệu của cuộc
phục sinh nơi vị giáo hoàng một đời "sống
là Đức Kitô và chết là một thắng lợi" (Phil 1:21).