|
Tinh Thần Tận Hiến Trong Đời Sống Hôn Nhân Gia Đ́nh
nơi trường hợp người chồng hay người vợ ngoại t́nh
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thú thật, khi soạn dọn bài
viết để nói (và sau đó phổ biến trên tờ Thánh Gia như 2 năm trước) theo
đề tài ấn định từ ban đầu là "Tận Hiến Cho Mẹ", tôi đă có ư nói khác với
những ǵ tôi nói hôm ấy, chiều Thứ Bảy, ngày 9/7/2011. Trong thời gian ở
ngay tại Khóa Tĩnh Huấn Gia Đ́nh Tận Hiến Đồng Công 41HK, tôi vẫn suy tư
về đề tài chia sẻ của ḿnh, một mặt để làm sao tŕnh bày vừa mạch lạc về
h́nh thức lại vừa tác động ḷng người về nội dung. Thế rồi, sáng Thứ Bảy,
trong giờ Kinh Phụng Vụ Ban Mai theo thói quen hằng ngày của ḿnh, và sau bài đọc thứ
nhất trong hai bài (ở The Office of Reading) được Giáo Hội giành cho
ngày hôm đó, trích từ Sách Huấn Ca (Sirach) đoạn 47:12-25, tôi đă thấy
được những ǵ tôi cần phải nói, đó là tinh thần tận hiến trong đời sống vợ
chồng, nhất là trong trường hợp người chồng hay người vợ ngoại t́nh. Tức
là giới hạn tinh thần tận hiến vào phạm vi vợ chồng mà thôi, chứ không
bao gồm các lănh vực khác của chung đời sống gia đ́nh, như sống tinh
thần tận hiến trong sứ vụ giáo dục con cái, trong trường hợp gia đ́nh
gặp hoạn nạn thử thách như bị thất nghiệp, tật nguyền, thiên tai v.v.
Cái
đau khổ nhất trong đời sống hôn nhân là ǵ? - Bị phản bội
và ngờ vực!
Để mở đầu cho bài chia sẻ
nội trong ṿng 45 phút, không kể 45 phút hội thảo nhóm và 30 phút đúc
kết chung, tôi đă đặt câu hỏi gợi ư đầu tiên như thế này: "Mẹ Maria đă
sống tinh thần tận hiến ra sao trong cuộc đời hôn nhân của Mẹ?" Sau
3 câu trả lời không đúng như những ǵ tôi muốn nhập đề, tôi hé mở thêm:
"tức là giữa Mẹ và Thánh Giuse!" Tức khắc nhiều người nói chính xác cùng
trả lời một câu như nhau, đó là sự kiện Thánh Giuse tính bỏ Đức Mẹ mà đi! Sau
khi cùng mọi người ôn lại thuộc ḷng đoạn Phúc Âm Thánh Mathêu
(1:18:25), tôi đă phân tích đoạn tŕnh thuật này với 3 điểm chính yếu
sau đây.
Điểm thứ nhất, đó là, qua
đoạn Phúc Âm này, tục lệ Do Thái cho phép trai gái sống với nhau dù mới
đính hôn, bằng không th́ biến cố Truyền Tin không thể nào xẩy ra khi Mẹ
Maria mới chỉ đính hôn với Thánh Giuse và chưa về chung sống với nhau.
Điểm thứ hai liên quan tới
Thánh Giuse. V́ "là người công chính", ngài không thể chấp nhận những ǵ
là sai trái, và cái sai trái ngay trước mắt của ngài bấy giờ là cái thai
trong ḷng người nữ ḿnh đă đính hôn. Tuy thế, theo nguyên tắc ghét tội
nhưng thương người có tội,
ngài vẫn tôn trọng
con người có dính dáng tới cái sai trái ấy, nên ngài đă không tố cáo
người nữ đă đính hôn với ḿnh, trái lại, đă quyết định âm thầm bỏ đi.
Tuy nhiên, hành động bỏ đi của ngài chỉ chứng tỏ rằng ngài không hề có
liên quan ǵ tới cái thai trong bụng người nữ thành Nazarét ấy, một
người nữ đă thuộc về ngài nhưng sau khi đi thăm người chị họ là mẹ của
thai nhi tiền hô Gioan Tẩy Giả 3 tháng trở về đă mang bầu. Thế nhưng,
đối với Mẹ Maria th́ hành động bỏ đi này rất nguy hiểm. Bởi Mẹ có thể bị
ném đá chết khi sinh con không có chồng bên cạnh và dù chồng chưa chết
mà đă góa chồng v.v.
Điểm thứ ba liên quan tới
Mẹ Maria.
Chắc chắn Mẹ Maria biết
được t́nh trạng bối rối của Thánh Giuse. V́ hai bên vẫn có thể gặp nhau
và thăm nhau th́ chẳng lẽ Thánh Giuse không có mắt và chẳng lẽ Mẹ Maria
"thắt lưng buộc bụng" làm như không có ǵ xẩy ra! Trái lại, cho dù không
thể giấu diếm được người nam đă đính hôn với ḿnh, Mẹ Maria vẫn không
ngại gặp Thánh Giuse mỗi khi cần phải gặp. Nhưng Mẹ không hề lên tiếng
để làm sáng tỏ vấn đề, (mà có cố gắng thanh minh biện bạch chăng nữa th́
chắc ǵ Thánh Giuse tin tưởng hay lại càng gây thêm thắc mắc và bối rối),
trái lại, Mẹ vẫn âm thầm chịu đựng, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa,
Đấng duy nhất biết Mẹ là đủ và Ngài sẽ ra tay vào thời điểm của Ngài.
Phản ứng của Mẹ hoàn toàn sống theo tinh thần tận hiến của giây phút
Truyền Tin: "Xin vâng" hay "xin hăy thực hiện nơi tôi những ǵ ngài
truyền" (Lk 1:38). Quả nhiên, Thiên Chúa đă làm sáng tỏ vấn đề khi sai
Thiên Thần báo mộng cho Thánh Giuse. Ngài đă nhận Mẹ Maria về làm vợ,
nhưng không liên hệ với nhau cho tới khi Mẹ Maria sinh con và đặt tên là
Giêsu.
Ngay sau khi dẫn giải vắn
gọn về trường hợp Mẹ Maria đă sống tinh thần tận hiến trong đời sống hôn
nhân vợ chồng như thế, vấn đề thứ hai được đặt ra đó là "cái đau
khổ nhất trong đời sống hôn nhân là ǵ? hay nói ngược lại,
trong đời sống hôn nhân gia đ́nh những ǵ làm cho người chồng
hay người vợ đau khổ nhất?" Mấy câu trả lời được nêu lên, nhưng
không câu nào đúng theo chiều hướng của bài phúc âm vừa được phân tích.
Người chia sẻ mới gợi ư là cái đau khổ nhất trong đời sống hôn nhân mà
một người chồng hay một người vợ cảm thấy nhức nhối nhất và cay đắng
nhất đó là bị người bạn đời của ḿnh phản bội hay bị người bạn đời của
ḿnh ngờ vực, như đă xẩy ra, ở một ư nghĩa khách quan nào đó nơi trường
hợp của Mẹ Maria và Thánh Giuse trong bài Phúc Âm. Tất cả mọi người đều
gật gù và nghiêm chỉnh đồng ư.
Vấn đề thứ ba tiếp tục được
đặt ra là "thế
nào là ngoại t́nh hay ngoại t́nh là ǵ?"
Với câu hỏi hết sức thực tế này, ai cũng đồng ư là tất cả những hành
động nào phạm đến Điều Răn 6 "chớ làm sự dâm dục" với bất cứ ai không
phải là chồng ḿnh hay vợ ḿnh. C̣n Điều Răn Thứ 9 th́ sao? Không ai
chối căi là ngoại t́nh cũng bao gồm cả những ǵ âm thầm kín đáo ở bên
trong con người nữa: "chớ muốn vợ chồng người", nghĩa là bao gồm cả việc
ngoại t́nh bên trong nữa chứ không phải chỉ có hành động tà dâm bên
ngoài thôi.
Bầu không khí của buổi
hướng dẫn có tính cách chia sẻ chủ đề càng trở nên căng thẳng nhưng hào
hứng hơn ở câu hỏi thứ bốn: "Tại sao lại xẩy ra ngoại t́nh nơi
người vợ hay người chồng?" Ba câu trả lời chính xác tức khắc đă
được phát biểu một cách gẫy gọn như kinh nghiệm xót xa sẵn có chỉ chờ
bột phát: 1- v́ chán nhau; 2- v́ thích mới; 3- v́ tham lam.
Chán nhau ở đây ngoài vấn
đề về sinh dục vợ chồng c̣n bao gồm cả phương diện tâm lư vợ chồng: kỵ
nhau qua những thường xuyên đụng chạm nhau gây ra bởi những yếu tố khác
biệt nhau, đối nghịch nhau, thậm chí phạm đến nhau.
Thích mới ở đây không phải
chỉ v́ chán nhau mà c̣n v́ ham thích của lạ, chẳng hạn ở Mỹ quốc cũng
như ở Việt Nam đều có những thứ club vợ chồng để hội đồng làm t́nh với
nhau, giữa chồng này vợ kia hay chồng kia vợ nọ v.v.
Trước khi sang lư do thứ ba
gây ra ngoại t́nh trong đời sống vợ chồng, câu hỏi thứ năm bất ngờ được
nhẩy vào khiến cho thành phần thính giả bị khựng lại một chút và không
đồng nhất với nhau như câu hỏi thứ năm, đó là câu hỏi: "có khi
nào hôn nhân rất hạnh phúc, được chồng hay vợ hết t́nh yêu thương mà
ngoại t́nh vẫn xẩy ra hay chăng?" Sau một giây lát im lặng, câu
trả lời đầu tiên là "có thể", và câu trả lời thứ hai cương quyết nhưng
thoạt tiên có vẻ rụt rè là "có", cuối cùng tiếng "có" mỗi ngày một lớn
hơn và đông hơn, như đẩy ra ánh sáng một sự thật quá ư là phũ phàng
không thể chối căi, có thể
đă cảm nghiệm được từ chính những ai đă thật sự trải qua, không thể phủ
nhận.
Tham lam ở chỗ cho dù đă
được vợ ḿnh hay chồng ḿnh hết ḷng yêu thương chiều chuộng và thủy
chung nhưng vẫn không thể nào ngăn cản nổi người vợ hay người chồng vụng
trộm lén lút ngoại t́nh, cho dù tận đáy ḷng của người vợ hay người
chồng ngoại t́nh này không muốn phá vỡ hạnh phúc hôn nhân đang có của họ cũng
như không muốn đánh mất niềm tin nơi vợ hay chồng ḿnh!
Vẫn ngoại
t́nh cho dù đă có được hạnh phúc thật sự trong đời
sống hôn nhân gia đ́nh
Để khai triển thêm về
trường hợp ngoại t́nh v́ tham lam này, tôi đă chứng minh bằng hai câu
truyện: một từ Thánh Kinh Cựu Ước và một trong cuộc sống thực tế đời
thường.
Câu truyện ngoại t́nh v́
tham lam trong Thánh Kinh Cựu Ước đó là câu truyện về Thánh Vương Đavít,
được thuật lại trong Sách Samuel quyển thứ 2 đoạn 11, trong đó, người ta
thấy rằng có một buổi chiều tối Vua Đavít đang đi dạo trên sân thượng
th́ trông thấy xa xa có một phụ nữ nhan sắc đang tắm. Sau khi biết được
gốc gác của bà ta, Vua liền cho triệu bà ta vào cung và ăn nằm với bà ấy.
Khi biết tin bà có thai Vua liền triệu chồng bà là Uria về để 2 lần t́m
cách cho vợ chồng họ gần gũi nhau, nhưng bất thành nên Vua ra lệnh sát
hại người chồng nơi trận chiến bằng gươm giáo của quân thù.
Trường hợp ngoại t́nh của
Vua Đavít rất đặc biệt và lạ lùng, đáng lẽ không thể nào xẩy ra nơi một
con người đầy niềm tin, bác ái và đạo đức như vậy. Vua là một con người
đầy niềm tin, ở chỗ, cho dù chỉ là một thiếu niên nhỏ người non dại
cũng đă thắng được Goliát to con lớn tướng đầy kinh nghiệm chiến trường
và ngạo mạn (xem 1Sam 17:32-58). Vua là một con người đầy bác ái vị tha,
ở chỗ, đă tha chết cho kẻ thù ḿnh là Vua Saolê hai lần chỉ v́ ghen hận
đă đem quân đi lùng giết Đavít (xem hai đoạn 24 và 26). Vua là một con
người đạo đức khi nghĩ đến Ḥm Bia Chúa và ra lệnh cung nghinh về
Giêrusalem là nơi vua cư ngụ trong lâu đài nguy nga tráng lệ (xem 2Sam
đoạn 6). Chưa hết, vấn đề muốn nhấn mạnh ở đây là Vua Đavít đă có một
gia đ́nh nhiều thê lắm thiếp đông con đến thế mà vẫn c̣n tḥm thèm t́nh
dục. Ở Hebron khi cai trị Xứ Giuđa 7 năm vua đă có 7 người vợ, mỗi bà
đều có một người con trai với vua, trừ người con gái của Vua Saulê bị
son sẻ v́ khinh thường vua khi thấy vua nhẩy múa trước Ḥm Bia được cung
nghinh về Thành Giêsurusalem (xem 2Sam 6:16,20-23), và ở Giêrusalem khi
cai trị toàn dân Yến Duyên (Israel) 33 năm nữa, vua lấy thêm thê và
thiếp, trong đó có cả người đàn bà vua ngoại t́nh, và đă sinh thêm được
11 người con trai con gái khác nữa (xem 2Sam 5:13-15).
Câu truyện ngọai t́nh v́
tham lam trong đời thường được một người vợ trẻ ở Việt Nam thuật lại
dưới nhan
đề là "từ 'say nắng' đến mất chồng"
như thế này. Trước hết, chị ta có một gia đ́nh rất hạnh phúc: "Tôi
đi làm về trong một tâm trạng cực kỳ vui vẻ. Tháng lương đầu tiên đấy.
Tháng lương đầu tiên trong đời, tháng lương đầu tiên sau hạnh phúc được
làm vợ anh, được làm mẹ của bé Thanh Tùng. Rồi những ngày dài ở nhà
trông con, thu vén nhà cửa, chuẩn bị bữa ăn đón anh đi làm về. Anh ôm cả
hai mẹ con, hôn tôi rồi mới bế con, nhấc bổng nó lên quá đầu, rúc mặt
vào quả ớt tí xíu của nó. Tôi sung sướng ngất ngây trong hạnh phúc làm
mẹ, làm vợ như thế..."
Sau
đó, chị kể lại t́nh trạng làm việc với một người Mỹ để lĩnh lương hằng
tháng của ông như sau:
"Học
tṛ của tôi là một người nước ngoài đứng tuổi đă biết tiếng Việt ít
nhiều giờ muốn học nâng cao. Tôi dạy ông tiếng Việt qua tiếng Anh nhưng
ngược lại, ông lại bổ túc tiếng Anh cho tôi qua giao tiếp bằng cả hai
thứ tiếng, do đó ông tiến bộ rất nhanh... Tôi cứ nghe ông nói, cứ nh́n
vào đôi mắt long lanh biếc xanh của ông, mỗi lúc càng long lanh hơn. Đôi
mắt ấy cũng chăm chắm nh́n vào mắt tôi. Và khi ngừng nói, ông đưa cả hai
tay qua chiếc bàn hẹp, miệng vừa hỏi ‘Đúng không nào?’, hai tay vừa giữ
chặt lấy hai bên đầu tôi, vừa vươn người sang, nghiêng đầu hôn tôi. Tôi
vội đưa hai tay gỡ tay ông ra, nhưng không được. Tôi có giẫy ra khỏi cái
miệng ông cứ gắn chặt lấy miệng tôi, nhưng không lại! Cảm thấy không
phải với anh, đêm ấy tôi chủ động gợi ư, nhưng anh không hưởng ứng. Công
việc vắt kiệt sức anh sau ngày làm việc ở cơ quan mà vẫn phải đem về nhà
làm mới xong. Anh mải mê với công việc, không mảy may nhận ra rằng,
thỉnh thoảng tôi lại nh́n trộm anh, lại đưa tay lên môi, lên má. Ngay cả
lúc soi gương tôi vẫn như nh́n thấy dấu vết tội lỗi trên mặt. Sau cái
hôn hôm ấy, ông đặc biệt ân cần với tôi và chăm sóc th́... tôi chưa bao
giờ được ai chăm sóc như thế, kể cả anh. Cũng chưa thấy một người đàn
ông nào chăm sóc một phụ nữ như thế. Ông dắt tôi lên cầu thang như thể
dắt tay một đứa bé mới tập đi. Qua một rănh nước, ông xốc nách tôi, (chắc
ông chủ vườn tưởng chúng tôi là vợ chồng) và dù việc ấy chỉ xảy ra trong
giây lát, nhưng cái cảm giác bay bổng, lâng lâng trong cánh tay mạnh mẽ
của ông th́ không ǵ so được. Cái cảm giác tin cậy khi đi bên ông làm
cho tôi dễ chịu và thích thú. Những buổi đi làm như thế, thật sự là
những ngày vui của tôi. Tôi chải chuốt kỹ càng hơn, bắt đầu quan tâm tới
các loại mỹ phẩm chăm sóc mái tóc, làn da và mong ngóng nhanh đến ngày
đi làm....
"Hôm ấy, anh
có một b́nh hoa hồng cho tôi, một gói thịt lợn nạc quay, thơm mùi lá móc
mật mà anh nhờ một người bạn chạy tàu Lạng Sơn mua về, món ăn tôi thích
nhất. Một đôi tất chân dài để tôi đi với váy ngắn, và khi bé Thanh Tùng
đă ngủ say là một cuộc làm t́nh rất nồng nàn.
Nhưng anh không thể ngờ rằng, nguyên nhân của sự nồng nàn hơn mọi lần
như thế, chính là v́ trong lúc ấy tôi đă... nghĩ đến ông. Một phụ nữ c̣n
chưa hiểu bao nhiêu về đàn ông, ngay cả với chồng ḿnh cũng chưa hiểu ǵ
cho lắm, lại gần gũi như thế, với một người đàn ông mà cái ǵ cũng có
sức hấp dẫn mạnh mẽ kỳ lạ, kể cả tấm thân đàn ông cao lớn với nước da
trắng hồng của ông. Làm sao bứt ra khỏi sức cám dỗ ấy? Và việc ấy đă đến
với ông và tôi trong suốt một buổi học, chỉ sau ngày sinh của tôi có một
ngày. Tôi lao vào cuộc truy hoan, với niềm đam mê khoái lạc rất đàn bà,
mà với sự từng trải của ḿnh, lần nào ông cũng biết thổi bùng nó lên làm
tôi cứ mê đi rất lâu. Nhưng, rồi một hôm, ông bỗng bảo tôi rằng phải về
nước gấp và đưa cho tôi một chiếc phong b́ khá dày: 'Coi như chúng ta đă
thanh lư hợp đồng'. Tôi tái mặt thất thần. Người vẫn c̣n bừng bừng ngất
ngây sau trận mây mưa cuồng phong, bỗng rũ ra như tàu dưa héo chợ chiều.
Tôi không thể gào lên, không thể chửi ông. Không phải v́ tôi không biết
chửi, mà v́ biết rằng, ḿnh không thể chửi người ta được, ngoài việc
phải chửi rủa, phải xỉ vả chính ḿnh. Tôi phóng xe đến nhà con bạn đă
giới thiệu hợp đồng này, th́ nó cũng như đứa chết rồi: 'Thằng mắt xanh,
mũi lơ của tao cũng biến rồi. Thật ra, cái thằng của mày sơi tiếng Việt
từ lâu rồi. Tao kéo mày vào cuộc, để tính sang bên ấy cho có bạn có bè.
Ai ngờ!'. Mở cửa vào nhà, vừa định bấm nút máy thu h́nh theo thói quen
cho đỡ trống nhà, tay tôi đă vội rụt lại. Một mảnh giấy màu vàng dính
vào giữa màn h́nh: 'Ngẫu nhiên anh phát hiện ra ḿnh bị phản bội. Không
ǵ có thể biện hộ được đâu. Vĩnh biệt em!'".
Phần của bài nói trên đây vừa đủ cho 45 phút theo chương tŕnh ấn định.
Tôi chấm dứt tại đây
làm cho nhiều người tỏ ra hết sức tiếc xót. Bởi thế, phần
hội thảo theo nhóm 45 phút và phần đúc kết 30 phút sau đó đă được yêu
cầu băi bỏ để nghe
tôi
nói
tiếp. Thế là sau 15 phút giải lao, tôi đă tiếp tục phần hai của bài nói,
phần
chẳng những liên quan tới phán quyết của Mạc Khải Thánh Kinh
đối
với
thành phần làm chồng làm vợ sống ngoại t́nh, mà c̣n liên quan tới cả
nguyên nhân gây ra ngoại t́nh cùng phương thế phải làm sao để sống tận
hiến trong đời
sống hôn nhân khi bị người chồng hay người vợ của ḿnh
phản bội cũng như để
có thể thủy chung với nhau.
Người vợ ngoại t́nh: “con điếm
vô liêm sỉ” - Người chồng ngoại t́nh: thứ đàn ông nô lệ đàn bà
Trước hết, về thành phần làm vợ ngoại t́nh, được tiêu biểu nơi Dân Yến
Duyên (Israel) luôn bỏ Vị Thiên Chúa duy nhất của ḿnh, Đấng đă tự động
kư giao ước yêu thương với dân tuyển
chọn này,
nhưng họ vẫn mù quáng sống ngoại t́nh tà dâm với các thứ ngẫu tượng giả
dối do chính họ nghĩ ra, Mạc Khải Thánh Kinh đă phán quyết về họ trong
Sách Tiên Tri Êzêkiên (16:30-34) như thế này:
·
"Ngươi
hoang dâm nhục dục là chừng nào! Chúa là Thiên Chúa phán ngươi đă hành
động tất cả những điều ấy như một thứ gái điếm vô liêm sĩ (shameless
prostitute)... Người vợ ngoại t́nh, thay v́ ở với chồng, lại tư thông
với người khác. Tất cả mọi thứ gái điếm đều nhận thù lao. C̣n ngươi,
ngươi lại tặng quà cho tất cả các t́nh nhân của ngươi, ngươi đem quà
tặng chúng để từ khắp mọi miền chung quanh chúng đến mà đàng điếm với
ngươi. Như thế, khi hoang dâm, ngươi đă đi làm chuyện ngược đời khác với
các người đàn bà khác!"
Mạc
Khải Thánh Kinh gọi thành phần làm vợ ngoại t́nh là
những
"con
điếm vô liêm sỉ", và họ là thành phần gái điếm ngược đời, bởi họ
chẳng những không nhận thù lao mà c̣n tặng quà cho những ai đến với họ
nữa. Nghĩa là, như cùng cuốn Sách Tiên Tri này cho biết,
ở câu 15, v́ họ kiêu hănh về nhan sắc của họ và được khen là đẹp, tức là
ai ngưỡng mộ nhan sắc của họ và khen nịnh họ, khéo ve vuốt họ, th́ họ
hiến thân cho người ấy, thỏa măn t́nh dục của người ấy như một thứ quà
tặng cho người ấy:
·
“Ngươi
đă cậy ḿnh có nhan sắc, ỷ vào danh tiếng của ngươi để đàng điếm và
hoang dâm với mọi khách qua đường là thành phần ngươi thuộc về”.
C̣n
đối với người chồng ngoại t́nh, được tiêu biểu nơi trường hợp của Vua
Solomon, một con người quyền uy danh giá, khôn ngoan thông sáng và giầu
sang phú quí nhất thiên hạ, đến độ, như Sách Huấn Ca ở đoạn 47 cho biết,
về tinh thần vua có "kiến thức bao trùm vũ trụ" (câu 15) và "danh tiếng
lừng vang khắp nơi" (câu 16), và về vật chất có "vàng nhiều như sắt...
bạc nhiều như ch́" (câu 18),
"thế mà đă trao thân cho bọn nữ giới, để cho họ thống trị thân xác của
ḿnh" (câu 19).
Nếu nhan sắc và hấp lực thu hút là những ǵ tiêu biểu cho nữ giới nói
chung và cho người vợ nói riêng để được thương yêu chiều chuộng, th́
quyền uy danh giá, khôn ngoan kiến thức và giầu sang phú quí là những ǵ
tiêu biểu cho chung nam giới và cho riêng thành phần làm chồng, những
yếu tố then chốt được nữ giới yêu chuộng
ham muốn và cần cho người làm vợ. Solomon có tất cả
những ǵ là quyền uy, khôn ngoan và giầu sang, nhưng đă trở thành nô lệ
cho nữ giới, cho 700 vợ và 300 thiếp (xem 1Kings 11:3), và đă phải xây
cất các đền chùa để tôn thờ những thần ngoại bang theo đ̣i hỏi của tất
cả các nàng thê thiếp của ḿnh (xem 1Kings 11:7-8).
Thật ra, trường hợp của
Solomon không phải là trường hợp ngoại t́nh trắng trợn như của Đavít
vương phụ của ḿnh. Thế nhưng, những cuộc hôn nhân của Solomon với đông
đảo các người vợ ngoại bang, thành phần tôn thờ các thứ tà thần, là
những cuộc hôn nhân bất hợp pháp, hoàn toàn trái với ư muốn của Thiên
Chúa Tối Cao (xem 1Kings 11:2). Bởi thế, ở một nghĩa nào đó, các cuộc
hôn nhân này, trước nhan Thiên Chúa, là những cuộc sống chung vợ chồng
bất chính, chẳng khác ǵ ngoại t́nh vậy.
Như
thế, theo ngôn từ Mạc Khải Thần Linh th́ những chồng ngoại t́nh là
thành phần nam nhân làm nô lệ đàn bà hơn là chiếm đoạt nữ giới:
"đă trao thân cho bọn nữ giới, để cho họ thống trị thân xác của ḿnh".
Vấn
đề được đặt ra ở đây là nếu
Vua Đavít thánh đức như thế và Vua Solomon khôn ngoan như vậy mà c̣n
ngoại t́nh đến
khủng khiếp không thể nào tưởng tượng nổi
như thế
th́ chúng ta tầm thường về
cả đạo hạnh lẫn kiến thức
làm
sao có thể sống thủy chung vợ chồng, làm sao tuyệt đối tránh được những
hành động ngoại t́nh phạm đến điều răn thứ 6, (như
hôn hít,
sờ mó, giao hợp
v.v.)
và / hay có những giao tiếp
ngoại t́nh phạm đến điều răn thứ 9, (như nhớ
nhung người ta, thích gần gũi nói chuyện với người ta, lén lút ăn trưa
với họ, nhận quà tặng của họ, tặng quà cho họ, gọi điện thoại cho họ,
thư từ hay text cho họ, chụp h́nh với họ, giữ h́nh của họ, làm ǵ cũng
nghĩ đến họ, cũng v́ họ, hoặc kín đáo nh́n ngắm các bộ phận sexy của
người ta, thậm chí ngay trong lúc vợ chồng ân ái với nhau mà tâm trí lại
nghĩ tưởng đến h́nh ảnh người khác v.v.)!
Bởi
thế, vấn đề thứ sáu được đặt ra đó là nếu
muốn tránh khỏi rơi vào t́nh trạng ngoại t́nh th́ phải làm sao?
Xin thưa, chẳng những bề ngoài phải xa tránh dịp tội và bề trong c̣n
phải sống tinh thần tận hiến nữa.
Phải xa tránh
dịp tội và
sống
tinh thần tận hiến
Trước hết, phải làm sao để
có thể tránh dịp tội, tức là phải làm sao để đừng rơi vào trong ṿng ảnh
hưởng (được gọi là từ trường) của nam châm, tức rơi vào khoảng cách hay
phạm vi chắc chắn bị nam châm thu hút không thể cưỡng lại được. Đó là
làm sao đừng để cho ḿnh có t́nh cảm với bất cứ một ai không phải là vợ
ḿnh hay chồng ḿnh. Một khi đă có t́nh cảm th́ thật là khó ḷng mà dứt
ra được. Thà mất lịch sự c̣n hơn mất linh hồn, mất hạnh phúc hôn nhân
gia đ́nh (một tràng pháo tay tự động bột phát vang lên từ phía thính
giả). Bất cứ cảm xúc nào hướng về một người không phải là chồng hay vợ
của ḿnh đều là những thứ t́nh cảm lăng loàn, xuất phát từ t́nh dục, dẫn
đến t́nh dục và chỉ là t́nh dục, phạm đến Điều Răn Thứ 9.
Sau nữa, dịp tội không
phải ở nơi nhan sắc và hấp lực của nữ giới, hoặc nơi quyền lực, tài
giỏi, danh tiếng hay giầu sang của nam giới, mà là ở chính bản thân con
người. Bằng không, nếu căn nguyên tội là do người khác th́ tôi phạm tội
người khác xuống hỏa ngục thay tôi! Đó là lư do, ở Bài Giảng Phúc Đức
Trọn Lành Trên Núi, Chúa Giêsu đă khẳng định là: "Nếu mắt phải của các
con nên dịp tội cho các con th́ hăy móc nó đi... Nếu tay phải của các
con nên dịp tội cho các con th́ hăy chắt nó đi..." (Mt 5:29-30). Ở đây
chúng ta nên chú ư đến 2 chi tiết trong lời Chúa dạy. Chi tiết thứ
nhất là "mắt" và "tay", chứ không phải các cơ quan khác trong cơ thể: V́
"mắt" là cơ quan tiêu biểu cho ḷng muốn (liên quan tới điều răn thứ 9),
và "tay" là cơ quan tiêu biểu cho việc làm (liên quan tới điều răn thứ
6). Chi tiết thứ hai là vị trí của mắt và tay, ở bên "phải": "mắt phải"
và "tay phải", chứ không phải "tay trái" hay "mắt trái" hoặc "mắt" hay
"tay" nói chung, nghĩa là tất cả những ước muốn và việc làm cố t́nh
của con người phạm đến riêng điều răn thứ 6 và thứ 9 đều có tội và cần
phải tránh ("móc nó đi", "chặt nó đi") mới có thể giữ ḿnh trong sạch và
thủy chung trong đời sống hôn nhân vợ chồng.
Đúng thế, theo tâm lư và
kinh nghiệm đời thường th́ t́nh cảm (thường ở nơi nữ giới) và t́nh dục
(thường ở nơi nam giới) là những ǵ quả thực xuất phát từ giác quan của
con người: xuất phát từ con mắt của nam giới và lỗ tai của nữ giới, một
tâm lư và kinh nghiệm rất xác thực với Mạc Khải Thánh Kinh nữa.
Nơi nam giới, t́nh dục gắn
liền với con mắt và xuất phát từ con mắt. Mạc Khải Thánh Kinh đă khẳng
định về nam giới như sau: "Các con đă nghe thấy giới luật 'các ngươi
không được ngoại t́nh'. Điều Thày bảo các con đó là bất cứ ai dâm ô nh́n
ngắm một người phụ nữ th́ đă ngoại t́nh với họ ở trong tư tưởng của ḿnh
rồi" (Mt 5:27-28). Thánh Vương Đavít cũng chỉ v́ bất chợt nh́n thấy một
người nữ kiều diễm đang tắm mà đùng một cái đă sa ngă phạm cả tội ngoại
t́nh lẫn tội sát nhân. Adong cũng chỉ nên một xác thịt với Eva khi nh́n
thấy nàng sau giấc mộng sâu và nhận biết nàng là "xương bởi xương tôi và
thịt bởi thịt tôi" (Gen 2:23). Thực tế cũng cho thấy nam giới thường bị
cám dỗ ngắm nh́n và có khuynh hướng thích ngắm nh́n thân thể của nữ
giới, ở những bộ phận vốn hấp dẫn đàn ông của họ, ở cả đằng sau của họ
(tóc dài, eo thon, mông đầy, cẳng cao v.v.) lẫn đằng trước của họ (ngực
nở, mặt xinh, da mịn, mắt t́nh v.v.).
Nơi nữ giới, t́nh cảm gắn
liền với lỗ tai và xuất phát từ lỗ tai. Mạc Khải Thánh Kinh cũng xác
nhận như thế, ở chỗ Evà đă nghe rắn quỉ cám dỗ và đă sa ngă phạm tội mất
ḷng Chúa (xem Gen 3:1-5,13). Evà sau khi nghe Adong nhận biết ḿnh xuất
phát từ chàng nên chàng bỏ cha mẹ mà gắn bó với ḿnh th́ nàng cùng chàng
nên một thân thể (xem Gen 2:23-24).
Theo tâm lư tự nhiên, nữ
giới thích được nịnh hót, cho dù là những lời họ biết là giả trá không
thật, chẳng hạn khen họ đẹp cho dù họ không đẹp, khen họ trẻ cho dù họ
không trẻ. V́ nữ giới sống theo cảm t́nh hơn là lư trí mà những ǵ đánh
trúng tâm lư của họ là ăn tiền, là lôi kéo được họ một cách dễ dàng.
Chính v́ nữ giới nặng t́nh cảm mà trong nam giới, thành phần được đa số
nữ giới tự nhiên yêu thích là thành phần nghệ sĩ (nhạc sĩ, ca sĩ, họa
sĩ, nhiếp ảnh gia v.v.). Tất nhiên thành phần nam giới có tiền và có
quyền cũng được họ mộ mến theo đuổi. Nếu "trai tài gái sắc" th́, trong
số nam nhân nghệ sĩ hay có thế lực, ai khéo "tán tỉnh", sẽ dễ dàng lấy
được ḷng nữ giới và chiếm được t́nh cảm của họ, bởi t́nh cảm của nữ
giới xuất phát từ lỗ tai, từ những ǵ họ nghe bùi tai.
Có thể nói một khi chiếm
được t́nh cảm của nữ giới th́ kể như chiếm được cả con người của họ,
chiếm được niềm tin tưởng
tuyệt đối của họ,
con tim của họ, và tất nhiên cả thân xác của họ là tặng
vật quí báu họ dùng để đáp lễ những lời khen tặng chúc tụng của t́nh
nhân: “Đối với anh em đẹp hơn vợ anh nhiều… Anh cảm thấy thật hạnh phúc
khi ở bên em, khi được
nói chuyện với em… Chỉ có
em mới hiểu anh và thương anh thật mà thôi… Giờ đây nếu cần phải chọn
hay được chọn lại th́ anh chọn em chứ không phải vợ anh… Anh bị lỡ mất
rồi, khi lấy nàng, cho tới bây giờ anh mới t́m thấy được
hạnh phúc đích thật ở nơi
em… Anh không thể sống thiếu em đâu… Đừng bỏ anh nhé… Em là lẽ sống của
đời anh...”
Kinh nghiệm cho thấy, nếu
người nữ cố ư lắng nghe những lời tán tỉnh th́ thế nào cũng bị ám ảnh và
ngả vào ṿng tay của người
đàn ông không
phải là chồng ḿnh. Để tránh dịp tội và phạm tội ngoại t́nh, hăy tránh
cho xa những con người như thế, những gă sở khanh biết ḿnh có chồng mà
c̣n theo đuổi, đừng đến gần họ và nhất là đừng để họ nói vào tai ḿnh.
Về phía nam
nhân cũng thế, kinh nghiệm cho thấy, khi bất chợt thấy một bộ phận nào
hấp dẫn nơi người nữ, người đàn ông nói chung và người có vợ nói riêng
phải làm chủ ḿnh liền, bằng cách quay đi chỗ khác, hay hướng về Chúa
ngay, thầm thĩ cầu nguyện cùng Chúa, chứ đừng tiếp tục nh́n cho kỹ hơn
và nh́n thêm những bộ phận khác của đối tượng đang thu hút ḿnh, bằng
không, sẽ không thể nào tránh được tội phạm đến điều răn thứ 9. Có một
anh chia sẻ là trong văn pḥng làm việc của anh, dưới quyền anh có cả
gần 20 người nữ ở đủ mọi lứa tuổi, trong số đó có một số người nữ ăn
mặc đến độ có thể nh́n thấu hết mọi sự, khiến anh phải âm thầm than lên
rằng “lạy Chúa, xin cứu con khỏi giờ này”.
Tránh dịp tội
mà thôi chưa đủ. Thực tế cho thấy có những cái bất ngờ xẩy ra ngoài tầm
kiểm soát của chúng ta. Chẳng hạn như chợt nh́n thấy những ǵ cần phải
tránh né, hay nghe thấy những ǵ không đáng nghe. Và một khi những ấn
tượng ấy lọt vào mắt và vào tai, chúng ta rất khó xua đuổi chúng ta,
trái lại, cứ bị chúng ám ảnh và quấy nhiễu, như những con ma chập chờn
theo đuổi chúng ta, khiến chúng ta bất an nếu cố gắng chống trả, hay
chiều theo nếu chúng ta cảm thấy khoái thú.
Đó là lư do bề
trong chúng ta cần phải ư thức sâu xa rằng hôn nhân là một ơn gọi, và
người vợ hay chồng của ḿnh là người Thiên Chúa đă cho ở với ḿnh. Bởi
thế nếu chúng ta phản bội họ là chúng ta, trước hết và trên hết, phản
bội chính Chúa, Đấng xe duyên kết nghĩa cho chúng ta, là chúng ta tháo
gỡ những ǵ Thiên Chúa đă nối kết ràng buộc (xem Mt 19:6). Ngược lại,
nếu chúng ta là nạn nhân bị chồng hay vợ phản bội, bằng hành động ghê
tởm trắng trợn gian dâm ngoại t́nh của họ, tuy theo nguyên tắc (xem Mt
19:9) được phép ly dị họ, v́ họ đă phạm đến chính yếu tính làm nên hôn
nhân, chúng ta vẫn có thể tiếp tục sống với họ, bằng cách tha thứ cho họ
một khi họ thực t́nh ăn năn thống hối và dứt khoát cương quyết trở về
với chúng ta, nhờ đó t́nh yêu vợ chồng của chúng ta mới thực sự phản ảnh
t́nh yêu trọn hảo của Thiên Chúa đối với Dân Yến Duyên.
Có một chị
nhận định là người vợ thường dễ tha thứ cho người chồng ngoại t́nh nhưng
người chồng lại khó tha thứ cho người vợ ngoại t́nh! Tôi đă trả lời rằng
đó là v́, trước hết bởi ảnh hưởng của nền văn hóa nói chung và văn hóa Á
Đông nói riêng, chồng được năm thê bảy thiếp. Vợ được coi là sở hữu của
chồng, thuộc về chồng, không được thuộc về ai nữa. Sau nữa, theo tâm lư,
sở dĩ vợ dễ tha cho chồng ngoại t́nh là v́ cái tai của vợ, một khi nghe
chồng năn nỉ và xin lỗi là mềm ḷng ngay; c̣n chồng, không thể nào chấp
nhận được một người đàn ông nào khác chiếm đoạt thân thể của vợ ḿnh,
nhất là khi người vợ của ḿnh lại tự động và ngoan ngoăn hiến dâng thân
thể cho hắn hoan hưởng! Khi người vợ ngoại t́nh th́, theo quan niệm
chung, thân thể của người vợ bị coi là ô uế, nhơ nhớp, ghê tởm.
Tóm lại, tinh
thần tận hiến trong đời sống hôn nhân vợ chồng bao gồm 5 ư thức thiết
yếu sau đây:
1.
Hôn nhân là một ơn gọi chứ không phải là một thứ pro-choice tùy
ư, thích hay hợp th́ ở, không thích hay không hợp nữa th́ bỏ đi lấy
người khác;
2.
Thiên Chúa là Đấng đă nhiệm mầu xe duyên kết nghĩa vợ chồng cho
chúng ta, chúng ta chỉ nhận thức và chấp nhận nhau trong Ngài và như
Ngài an bài;
3.
Người vợ hay người chồng của chúng ta là người Chúa cho ở với
chúng ta và chính chúng ta đă ư thức và long trọng tuyên hứa một cách tự
do chấp nhận họ và sống đời với họ;
4.
Chúng ta phải liên lỉ thủy chung với họ, chỉ yêu thương gắn bó
với một ḿnh họ, không được phản bội họ, cả bề trong lẫn bề ngoài, theo
nhân đức thanh tịnh của đời sống hôn nhân vợ chồng;
5.
Chúng ta cần tha thứ cho người nên một thân thể với ḿnh, nếu
chẳng may họ lỡ sa ngă phạm tội ngoại t́nh bề trong hay bề ngoài cách
nào, một khi họ thành tâm thống hối ăn năn xin lỗi chúng ta.
Tôi đă dọn sẵn
vấn đề cần được hội thảo sau bài chia sẻ trên đây của tôi như thế này:
Xin hăy đọc lại thật kỹ bài phúc âm Thánh Gioan về tiệc cưới Cana
(2:1-11) rất quen thuộc sau đây và trả lời 2 câu hỏi:
1- Bài phúc âm này có liên hệ ǵ tới tinh thần tận hiến và việc tận hiến
cho Mẹ Maria hay chăng? 2- Nếu không: tại sao? Nếu có: ở chỗ nào và nếu
mang ra áp dụng thực hành th́ có chắc chắn sẽ thật sự công hiệu?
Tôi cũng đă có
ư định giải đáp 2 câu hỏi được đặt ra trong phần hội thảo nhóm này vào
lúc đúc kết như sau: Nếu ở tiệc cưới Cana là nơi chỉ quen biết với Mẹ
mà Mẹ Maria c̣n tự động can thiệp vào một t́nh huống nhỏ mọn về vật
chất, th́ Mẹ làm sao có thể không lo đến phần rỗi vô cùng cao quí của
thành phần con cái Mẹ! Nếu ở tiệc cưới Cana chủ tiệc và đôi tân hôn
không biết ḿnh thiếu rượu mà Mẹ c̣n để ư tới, th́ Mẹ làm sao không ân
cần chăm sóc cho những đứa con biết ḿnh bé mọn yếu đuối dại khờ nên tự
nguyện tận hiến cho Mẹ! Nếu ở tiệc cưới Cana người ta cho dù có biết
ḿnh thiếu rượu cũng chẳng biết Mẹ là ai mà kêu cầu mà Mẹ c̣n tự động ra
tay cứu giúp, th́ Mẹ làm sao chê chối lời kêu cầu của con cái Mẹ chứ!
Nhất là trong những lúc vợ chồng thiếu rượu: không c̣n đức thanh tịnh vợ
chồng với nhau, và không c̣n niềm tin tưởng nơi nhau...
|
|