Nếu món ăn Tây tự hào vì
các loại nước xốt, món nào phải đúng xốt
đó, thì người Việt cũng không kém phần
cầu kỳ, tinh tế trong chén nước chấm.
Trong các loại nước chấm
thì nước mắm là thứ nước chấm chủ đạo
của món ăn Việt. Nếu kể tới những thứ
nước chấm khác nữa thì danh sách chắc
chắn phải dài không thua xốt Tây.
Khẩu vị nước mắm ba miền
Khẩu vị của nước mắm
nguyên chất, ở cả ba miền không khác
nhau bao nhiêu. Nhưng chuyển sang nước
mắm pha thì bắt đầu có sự khác biệt rõ
nét.
Miền Bắc thích nước mắm
pha loãng với nước thêm giấm, chanh và
ít đường. Nhưng bí quyết ở chỗ nước để
pha nước mắm nếu muốn ngọt đậm phải dùng
đúng thịt thăn heo nấu hớt bọt thật
trong, nếu có thêm con tôm he cho vào
nước càng thanh hơn. Rồi dùng nước này
pha với nước mắm ngon và các thứ đã kể
trên.
Miền Nam thì dùng nước
dừa xiêm, trái dừa phải vừa nạo, non quá
nước chua, còn để già rám nước sẽ chát.
Mang nước dừa nấu cô với ngọn lửa riu
riu còn hai phần ba hoặc phân nửa là vừa,
dĩ nhiên là khi nấu phải hớt bọt cho
trong nước. Sau đó dùng nước dừa pha với
nước mắm và chanh, đường.
Trừ nước mắm pha với nước
luộc tôm của Huế để ăn bánh nậm, bèo,
bột lọc… còn lại khẩu vị các nơi khác ở
miền Trung thích giữ sự đậm đà của nước
mắm nên chỉ cho ít chanh, đường mà không
thêm nước để pha loãng. Một số địa
phương cũng có nước mắm pha, chủ yếu để
làm giảm độ mặn và tăng thêm hương vị
chứ không pha loãng như hai miền kia.
Như nước mắm ngò của Nha Trang, người ta
dùng ngò rí giã nhuyễn rồi mới cho nước
mắm, chanh, đường vào. Đặc biệt ớt cho
vào chén nước mắm ngò phải là ớt hiểm
còn xanh thì chén nước mắm mới thơm nồng,
xanh biếc một màu.
Vùng Phan Thiết thì có
nước mắm cà và nước mắm thơm. Cà lựa
trái chín mọng, luộc qua nước sôi, bỏ
hạt và lớp vỏ ngoài. Rồi cho vào cối
quết với ớt sừng, tỏi thật mịn, sau đó
cho nước mắm và đường vào. Nước mắm cà
đặc sắc nhờ độ xốp và sánh như một món
xốt màu đỏ cam bắt mắt. Nước mắm thơm
khi chế biến phải chọn trái thơm chín
vàng, vì thơm chín vị chua, ngọt, mùi
thơm lẫn màu sắc vừa tới nhất. Vắt nước
thơm, nấu sôi hớt bọt thật kỹ. Lúc nước
thơm sóng sánh thì cho nước mắm, đường
vào đánh đều là được. Chén nước mắm ánh
màu vàng nền nã toả hương thơm ngan
ngát.
Ớt là gia vị không thể
thiếu trong chén nước mắm của người
Việt. Còn tỏi thì tuỳ ý thích, đa số
nước mắm pha có đủ cả hai vị. Nhưng cách
cho ớt vào chén nước mắm pha ở ba miền
khác nhau chút ít. Miền Bắc thường cắt
từng khoanh ớt đều tăm tắp cho vào nước
mắm. Miền Trung giằm ớt khi ăn để tận
hưởng mùi cay nồng của ớt hoà cùng nước
mắm. Còn Nam bộ thì giã hoặc băm nhuyễn
ớt để lấy vị cay và màu đỏ giúp chén
nước mắm thêm hấp dẫn.
|
Những khạp nước mắm đồng
|
Nước mắm không làm từ cá
biển
Ngoài nước mắm làm bằng
cá biển, một số vùng nhờ sự ưu đãi của
thiên nhiên với nguồn sản vật dồi dào,
người dân địa phương còn chế biến nước
mắm tôm, nước mắm mực, nước mắm cua
đồng, nước mắm cua gạch son…
Chẳng hạn nước mắm cua
đồng của vùng Sóc Trăng. Hàng năm vào
tháng 5 âm lịch, nước vừa nổi ngập đồng
là lúc cả xóm làng rủ nhau đi bắt cua.
Tối đến cua đồng bắt cặp đen nghẹt cả
mặt ruộng trống đang chờ sạ lúa, cua bắt
đến lúc mỏi tay, không còn thùng chứa
nữa thì ngưng. Cua mang về bóc mai rửa
sạch, giã nhỏ trộn với tỏi, thính gạo,
đường, muối hột rồi nhận vào diệm hoặc
thau đem phơi nắng khoảng tuần lễ.
Lúc cua trở màu đỏ au thì
đem nấu nước mắm. Công đoạn nấu rất quan
trọng, tốn cả ngày trời, phải hớt thật
sạch bọt và xác cua thì nước mắm mới để
được lâu. Nước mắm nấu xong có màu đỏ
cánh gián trong vắt, vị ngọt đậm, mùi
khá nặng không thể lẫn với bất cứ thứ
nước mắm nào khác. Nước mắm cua đồng
dùng để nêm nếm, ăn với canh chua cá
lóc… ngon hết biết.
Nước mắm cua gạch son
miệt U Minh, là một kiểu nước chấm tươi
quá xá cầu kỳ. Từ khi muốn ăn cho đến
khi được ăn phải chờ mất đúng một tuần.
Cua gạch son rửa sạch, bỏ vào hũ, rồi
muối đúng bảy ngày. Sau đó lấy ra đánh
tan gạch cua với lòng đỏ trứng gà,
đường, trộn với thịt cua được lấy từ con
cua đã muối.
Một con cua chỉ làm được
bốn chén nước chấm nhỏ, do đó khi được
chia phần, mạnh ai nấy "ôm" chén nước
mắm của mình chấm với bánh tráng cuốn,
vì muốn có chén thứ hai thì ráng… chờ 7
ngày nữa. Nước chấm cua gạch son không
thể làm nhiều để dành được, vì sang ngày
thứ tám thì chúng chuyển mùi, đổi vị để
trở thành mắm như ba khía.
Mắm nào món đó
Canh chua dứt khoát phải
ăn với nước mắm y, có khi cho chút
chanh, ớt, nếu dùng bất kỳ thứ nước chấm
nào khác cũng đều hỏng. Bánh cuốn, chả
giò, bánh xèo, cơm tấm phải ăn với nước
mắm pha chua ngọt. Nước mắm ngò, nước
mắm cà, nước mắm thơm xem ra có duyên nợ
với cá biển, mực, ốc vì nó làm tăng
hương vị hải sản lại dễ tiêu hoá. Món cá
thì lại khác, mỗi loại cá đều có một thứ
nước mắm khác nhau. Cá trê nướng thì có
nước mắm gừng, cá rô thì nên ăn bằng
nước mắm xoài, hay nước mắm me thì
chuyên trị các món lươn…
Thử dùng cá trê nướng
chấm nước mắm chua ngọt xem, miếng cá
trở nên nhàn nhạt, xam xảm, cái mùi cá
trên sau bữa ăn cứ ám ảnh khẩu vị thật
khó chịu. Còn lỡ dùng nước mắm gừng với
cá hú, cá tra thì… khó lòng nuốt nổi.
Nhiều món ăn, ngon hay
dở, được quyết định bởi chất lượng chén
nước mắm. Cái hồn của món ăn Việt chính
là nước mắm. Nấu phải nêm bằng nước mắm,
cá kho, thịt kho ướp bằng nước mắm,
chiên, xào, nướng, luộc… với bất cứ món
ăn nào cũng phải có nước mắm. Nước mắm
đã thấm vào huyết quản của mỗi người từ
thuở bé thơ cho đến lúc trưởng thành, nó
đã hình thành và ảnh hưởng sâu sắc đến
khẩu vị của từng người. Cho dù đi bất cứ
đâu họ không thể nào quên được hương vị
đậm đà tinh tế trong chén nước mắm quê
nhà. Đó chính là một phần của đất nước,
con người là hương vị quê nhà trong ký
ức không thể phai mờ của từng người
Việt.
Nước Mắm Đồng
Bây giờ, người dân quê
tôi không ai tự làm nước mắm theo kiểu
ấy nữa, đã có những công ty, những xí
nghiệp công nghiệp sản xuất nước mắm,
đóng chai hàng loạt dán nhãn hiệu “nước
mắm Phú Quốc”, nhưng nếm vào miệng chẳng
thấy hương vị ngọt đằm thắm của cá biển
chút nào. Muốn biết chất ngọt của cá
biển nó ra làm sao, nếu có dịp, bạn hãy
theo một chuyến tàu đánh bắt ra khơi.
Khi mẻ cá vừa kéo từ dưới nước lên, bạn
bắt lấy những con cá nục chuối, cá thu
hay cá bạc má còn nhảy soi sói, lấp
lánh, dưới ánh mặt trời. Bạn cho chúng
ngay vào nồi nước đang sôi sùng sục, chờ
cá vừa chín tới, vớt ra dĩa, dùng đôi
đũa xé từng miếng lớn thịt cá trắng
phau, chấm vào chén muối ớt vừa giã rồi
ăn liền tại chỗ, đó chính là vị ngọt
tươi giòn tự nhiên từ cá. Muối ớt phải
được đâm bằng ớt chỉ thiên chín đỏ còn
tươi và muối hột Bạc Liêu, hột nào hột
nấy bự bằng ngón chân cái, lấy chày gỗ
giã cho nó lại thành những hột nhỏ như
hột ớt thì mới ngon.
Người Việt ai mà không
biết thứ chất lỏng làm cho bữa ăn đậm
đà, ngon miệng nổi tiếng khắp nơi, chất
nước màu nâu vàng sóng sánh như mật ong
rừng, vị ngọt đậm đà mùi cá và mặn tê
đầu lưỡi tên gọi là nước mắm. Nhưng mấy
ai biết rõ nước mắm có từ bao giờ, và để
có chất nước mắm ấy phải kỳ công chắt
lọc tinh túy từ con cá như thế nào.
Ngày xưa, dân Việt ven
biển làm nước mắm bằng cách thủ công,
trong nhà thường có cái thùng bằng ván
(gỗ) bự cao quá đầu người, bề vòng lớn
cỡ ba người lớn ôm mới giáp, xung quanh
được kiềng đai bằng những vòng dây mây
vót mỏng và dẻo, đánh lại thành cọng lớn
bằng cườm tay như dây thừng, bên hông
thùng phía dưới thấp có một cái vòi bằng
ống tre để rút nước trong thùng ra, kêu
là thùng ủ nước mắm. Bình thường, cái
vòi tre này luôn luôn được nút kỹ bằng
lá buông khô và một loại gỗ trắng, mềm,
xốp, khi hút nước thì nở ra khít rịt
(chuyên dùng để làm nút chai) kêu là gỗ
cặc bần. Thùng được để trong những căn
nhà có vách, mái che đàng hoàng phía sau
nhà ở chính. Cá biển đánh bắt được, sau
khi phân loại để bán tươi liền ở chợ, để
ở nhà ăn, để làm khô, còn lại những thứ
vụn vặt, cá nhỏ người ta tận dụng làm
nước mắm. Cá rửa sạch, để ráo, cho vào
thùng cây, cứ một lớp cá dày cỡ 1 gang
tay, lại đến một lớp muối hột dày y như
vậy, lần lần cho đến đầy miệng thùng,
trên cùng là lớp muối hột dày hơn những
lớp bên dưới. Rồi lấy những tàu lá buông
khô thật lớn đậy phủ lên trên, bịt kín
miệng thùng lại. Thùng nước mắm để ủ như
vậy khoảng một năm, người ta rút cái nút
gỗ bên hông thùng ra để hứng nước mắm.
Chất nước sánh như mật ong, thơm mùi cá
này chảy ra kêu là nước mắm nhỉ.
Sau khi lấy nước nhỉ
người ta nấu nước muối đổ vào thùng, để
ngâm chừng ba tháng thì rút ra lấy nước
nhứt, rồi nước nhì, nước ba… cũng tương
tự. Càng về sau, thời gian ngâm càng ít
và chất nước mắm cũng bớt đậm đà hơn.
Cho đến khi thịt cá trong thùng đã rã
kiệt chỉ còn xương, thì người ta mới bắc
thang leo vào thùng hốt xác cá ra làm
thức ăn gia súc, rửa sạch thùng, phơi
thùng thật khô để chuẩn bị ngâm tiếp.
Nước mắm nhỉ rất ngon và
hiếm, thường thì người làm chỉ để trong
nhà ăn dần chớ không bán, người ta chỉ
bán nước nhứt, hai, ba mà đã được coi là
“hảo hạng” lắm rồi. Chan một chút nước
mắm này vào chén cơm nóng bốc khói, và
vào miệng, mùi nước mắm thơm phức bốc
lên, vị ngọt tự nhiên của cá, vị mặn đậm
đà, đằm thắm của muối biển, hòa vào cơm,
thật không gì ngon ngọt bằng, ăn hoài
không biết chán, ăn hết cả nồi cơm to
đùng vẫn còn thèm. Nước mắm ngâm sau bán
giá rẻ hơn, người ta dùng để nấu các món
kho, làm cho mùi vị món kho Việt Nam vô
cùng đặc biệt.
Cha tôi, một nông dân
xuất thân từ miệt U Minh Hạ (Cà Mau)
thời “khai hoang lập ấp” vùng đất mới
hoang sơ này, nên món ăn gì từ thiên
nhiên vùng ấy ông cũng biết làm. Cha tôi
thường cho tôi nếm thứ nước mắm thủ công
ấy, rồi dạy cho tôi phân biệt hương vị
chất ngọt tự nhiên của cá trong nước
mắm, và cái ngọt “công nghiệp” từ đường
mía, đường hóa học, chất cam thảo mà
người bán pha thêm vào nước mắm, để bán
được nhiều lời (lãi) hơn.
Bây giờ, người dân quê
tôi không ai tự làm nước mắm theo kiểu
ấy nữa, đã có những công ty, những xí
nghiệp công nghiệp sản xuất nước mắm,
đóng chai hàng loạt dán nhãn hiệu “nước
mắm Phú Quốc”, nhưng nếm vào miệng chẳng
thấy hương vị ngọt đằm thắm của cá biển
chút nào. Muốn biết chất ngọt của cá
biển nó ra làm sao, nếu có dịp, bạn hãy
theo một chuyến tàu đánh bắt ra khơi.
Khi mẻ cá vừa kéo từ dưới nước lên, bạn
bắt lấy những con cá nục chuối, cá thu
hay cá bạc má còn nhảy soi sói, lấp lánh,
dưới ánh mặt trời. Bạn cho chúng ngay
vào nồi nước đang sôi sùng sục, chờ cá
vừa chín tới, vớt ra dĩa, dùng đôi đũa
xé từng miếng lớn thịt cá trắng phau,
chấm vào chén muối ớt vừa giã rồi ăn
liền tại chỗ, đó chính là vị ngọt tươi
giòn tự nhiên từ cá. Muối ớt phải được
đâm bằng ớt chỉ thiên chín đỏ còn tươi
và muối hột Bạc Liêu, hột nào hột nấy bự
bằng ngón chân cái, lấy chày gỗ giã cho
nó lại thành những hột nhỏ như hột ớt
thì mới ngon. Ngoài cách làm nước mắm
bằng cá biển với “quy mô” thùng lớn, cha
tôi còn biết làm nước mắm đồng bằng các
loại tôm, cua, ốc… vụn vặt bắt được
ngoài ruộng, hoặc nghêu, sò biển. Vào
mùa nghêu, cha tôi ra chợ mua hàng chục
ký nghêu, con nào con nấy nhỏ bằng ngón
tay đem về luộc kỹ lấy nước luộc nghêu
làm nước mắm, xác nghêu, vỏ nghêu đem
đốt làm phân trồng cây. Nếu nấu bằng cá,
tôm, cua vụn thì cũng y như vậy, tức là
luộc thật kỹ chúng trong nước cho chúng
ra hết chất ngọt, lược bỏ xác bằng miếng
vải mùng. Xong thêm muối và một số cây,
lá, trái gì đó vô nấu lại. Nước mắm đồng
không cần ủ lâu, nấu xong trong ngày,
chờ nguội đổ vô chai thủy tinh nút kín
là hôm sau lấy ra ăn được liền. Bí quyết
nấu nước mắm đồng là nấu xong để ăn dần
được lâu, mà nước mắm không bị ôi, thiu,
thúi gì hết. Tôi thấy cha tôi thường cho
thêm vào nước mắm đồng khi nấu, một ít
mắt khóm (là thứ khi gọt khóm người ta
cắt ra bỏ, không ăn được) để nước mắm
trong và thêm chất ngọt. Hồi đó, mỗi lần
nấu, cha tôi thường bắt tôi phải học
cách làm. Lúc đó, tôi còn nhỏ, chưa biết
gì là “giá trị văn hóa ẩm thực khẩn
hoang” nên tôi cãi lại, không chịu học:
“Chời ơi! Cha nấu làm chi cho mệt dị. Có
tiền ra chợ, muốn bao nhiêu nước mắm nhỉ
cũng có, người ta bán đầy chợ kìa.”Người
miền Tây có thói quen thắng nước màu để
kho cá, kho thịt cho món ăn thêm bắt mắt,
ngon miệng. Có hai cách thắng nước màu:
dùng đường với nước lã và đường với chút
mỡ (hoặc dầu ăn). Nếu dùng đường với
nước lã thì người ta cho đường vào chảo
bắc lên bếp, chờ đường sôi bọt cua màu
nâu thì đổ nước lã vào, quấy đều thành
một chất sền sệt màu nâu đỏ, kêu là nước
màu. Để nguội đổ nước màu vào keo thủy
tinh cất, lúc nào dùng thì lấy ra cho
một muỗng canh vào nồi thịt cá, trộn đều,
cho thêm bột ngọt, nước mắm vào ướp cho
thấm rồi bắt nồi lên bếp kho.
Nếu dùng mỡ thì mỗi lần kho mới thắng
một chút nước màu vừa đủ xài, bằng cách
cho khoảng một muỗng canh mỡ nước vào
nồi, cho chút đường cát vào, dùng đũa
quấy đều đến lúc đường sôi bọt cua và
chuyển màu vàng nâu thì cho thịt, cá vào
nồi, xào cho thịt, cá hơi săn và thấm
đều nước màu rồi đổ thêm nước mắm, bột
ngọt, gia vị khác vào nồi kho luôn.Đó là
kho theo kiểu “xưa”, và dùng nước mắm
“xưa” tinh tuyền chất cá. Bây giờ, tôi
nấu món kho không cần phải thắng nước
màu nữa. Mua nước mắm “nhỉ”, “hảo hạng”
đóng chai của những thương hiệu nổi
tiếng đàng hoàng, giá đến 40 ngàn đồng 1
chai 3 xị. Đem về đổ nước mắm vào nồi,
thêm bột ngọt, gia vị vào rồi kho, chỉ
cần sáng kho chiều hâm lại lần nữa trên
bếp, nồi cá (thịt) kho đã có sắc nâu đỏ
như nước màu, nhìn là biết trong nước
mắm toàn đường. Hôm nào ăn không hết
trong ngày, hâm đi hâm lại nhiều lần thì
nồi cá (thịt) kho chuyển từ màu nâu đỏ
đậm dần sang màu nâu đen thui thủi.
Sau bao nhiêu năm “bị” ăn
thứ nước mắm công nghiệp đầy những chất
hóa học, tôi mới thấy “ăn năn” về cái
việc làm biếng không chịu học của mình
thì sự đã rồi. Cha tôi mất, gia đình tôi
không còn ai biết nấu thứ nước mắm đồng
mặn đậm đà, ngon đến say lòng người ấy
nữa. Nhớ quá nước mắm đồng ơi!
Tạ Phong Tần