40 năm sau một cuộc bội phản

Nguyễn Vy-Khanh

Với tư cách hậu sinh và nghiệp-dư nghiên cứu lịch-sử, chúng tôi xin có một số nhận xét về biến cố lịch-sử và chính-trị 1-11-1963 đă xảy ra 40 năm trước, mong độc giả xem đây là những góp ư hướng về tương lai hơn là tranh luận hơn thiệt và biên khảo lịch-sử.


1. Trước hết, cuộc đảo-chánh 1-11-1963 nói chung là một vụ bội-phản có tính toán và v́ quyền lợi (1) phe nhóm cá nhân hơn là quốc-gia, của một số sĩ quan cao cấp trong đó phần lớn là thành phần đă được người Pháp đào tạo. Xảy ra như ở một số thuộc địa ở Phi châu mà t́nh trạng c̣n măi đến nay! Cuộc đảo-chánh 1-11 thêm một lần chứng minh và làm nổi bật cái năo trạng (mentality) phản trắc, hai ḷng và cái năo-trạng phục tùng ngoại bang của một số người Việt Nam. Ngay hai đảng viên Cần Lao đă phản là tướng Tôn Thất Đính và đại tá Đỗ Mậu: ông Đính, “con cưng của chế độ”, ngày 25-10 trước đảo-chánh, đă xin cải tổ chính phủ và cho ông chức bộ-trưởng Nội-Vụ nhưng bị từ chối (ông Trần Văn Đôn th́ mong được chức bộ trưởng Quốc-Pḥng) ngoài ra ông mang thêm mặc cảm tấn công các chùa đêm 21-8-63 và bị ông Nhu khiển trách họp báo nói tiếng Pháp bồi và cho đi nghĩ Đà-Lạt, c̣n đại tá Đỗ Mậu theo đảo-chánh v́ tức đă không được lên tướng trong khi bạn ông (cùng tŕnh độ như ông) được đeo sao. Sau ngày 2-11-1963, lon tướng tá được gắn thoải mái, cả tự gắn, có người (tướng Đỗ Cao Trí) phải khiếu nại và rồi dù vừa mới lên lon chưa đầy tháng cũng được thêm một lon nữa! Thời Trịnh Nguyễn và phân tranh Gia Long - Tây Sơn được tái diễn trên mảnh đất nhiều ngàn năm văn hiến đó! Những năo trạng đáng buồn đó, tiếc thay, hăy c̣n hiện diện sống động trong cộng đồng người Việt hải-ngoại!

2. Cuộc đảo-chánh này nay nh́n lại thấy rơ là một mưu đồ chống phá những nền tảng cùng tư tưởng dân-chủ của một nền Cộng Hoà (République) non nớt 9 năm. Cá nhân một số tướng tá đảo-chánh đă phản chủ, phản thầy, phản đảng trưởng, nhưng toàn thể những người liên hệ xa gần với đảo-chánh đă phản bội chính thể dân chủ. Chế độ Ngô đ́nh Diệm vào 2, 3 năm cuối có thể bắt đầu mất ḷng dân v́ tỏ ra độc tài, đối lập bị tù, cả bị chết oan, đồng ư, nhưng đối lập ở Việt Nam ta cứ nhắm lật đổ chính quyền hợp pháp, cứ một sống một chết, mà không chấp nhận tṛ chơi dân chủ. Nếu tranh đấu chính-trị như ở các nước Tây phương th́ đă không đưa đến những hậu quả đó. Vả lại tất cả những người bị chính quyền bắt (sinh viên, học sinh, phật tử, chính-trị gia, cả những người bị bắt sau vụ đảo-chánh 11-11-1960 chờ ra ṭa) đều đă được Hội đồng cách-mạng thả tự do - nhưng bắt tù lại một số cao cấp của chính quyền vừa bị đảo-chánh, có người sau sẽ bị xử tử! Xét về toàn bộ nguyên nhân đưa đến cuộc đảo-chánh 1-11, yếu tố tôn giáo chỉ là cái cớ, một cớ có tổ chức chứ không tự bộc phát và “pháp nạn” chỉ xảy ra ở một số nơi có đầu năo phe Phật giáo chính-trị!

3. Nếu phải nói đến Chính Nghĩa, Chính Danh, th́ nh́n chung, đă bị phe đảo-chánh và đồng minh Mỹ xem thường. 1-11-1963 là một cuộc đảo-chánh nghĩa là phá đổ Chánh đề phù Tà hoặc tạo-dựng một Chánh khác không thể Chánh bằng cái Chánh do dân chủ tạo nên, v́ dù ǵ th́ chính quyền đệ nhất cộng-ḥa là một cơ cấu hợp hiến, hợp pháp và tương đối có chính nghĩa! Ngay sau khi chắc chắn anh em tổng-thống Ngô đ́nh Diệm đă chết, chiều 2-11-1963, Ủy Ban Cách-mạng (2) đă ra Quyết nghị số 2 ngưng áp dụng Hiến Pháp 26-10-1956! Có người đổi “đảo-chánh” thành “cách-mạng” th́ cũng chẳng thấy cách-mạng ǵ hơn v́ cũng từng ấy nhân vật, từ thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ đến các tướng nhiều sao trong Hội đồng Cách-mạng đều do quân đội (và công an) thực dân Pháp đào luyện, và cũng chẳng có lư-thuyết cách-mạng ǵ mới! Những người làm đảo-chánh tự cho có chính-nghĩa dù không tôn trọng trật tự, dân chủ, cả những người làm đảo-chánh 11-11-1960 trước đó. Có người phê phán ông Ngô đ́nh Diệm “lật lọng”, “phản” cựu hoàng Bảo Đại là người đă bổ nhiệm ông làm thủ-tướng, có người c̣n nhân danh phong hoá Nho giáo hoặc dân tộc. Chúng tôi nh́n thời đó như một thời Trịnh Nguyễn và Gia Long-Tây Sơn: th́ Quang Trung cũng đă nhận lời vua Lê Hiển Tông phù Lê diệt Trịnh và c̣n được gả công chúa Ngọc-Hân cho, mà rồi sau quần thần vua Lê bị ông rượt sang Tàu. Thứ nữa sử cũng ghi rằng anh em Tây Sơn nhận phục tùng chúa Nguyễn, chỉ cốt lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan thôi, mà rồi thành Phú Xuân đă bị anh em Tây Sơn đốt cháy, c̣n quần thần Chúa Nguyễn phải bỏ chạy vô Nam. Thứ nữa, thời điểm tháng 6 và 7 năm 1954 là lúc chiến-tranh Việt-Pháp lên cao độ, khủng hoảng chính-trị (chính-phủ Bửu Hội không được lâu), xă hội băng hoại và miền Nam th́ thập nhị sứ quân. Cựu hoàng Bảo Đại dù là quốc trưởng nhưng không hề đụng việc, chỉ giải trí riêng với hậu thuẫn (và tiền bạc, bổng lộc) của các sứ quân. Bảo Đại lại do người Pháp đặt ở chức quốc trưởng, nên trưng cầu dân ư và Hiến Pháp 26-10-1956 không phải là một bước đầu dân chủ đấy sao? Trong hoàn cảnh bất an hậu thế chiến và thuộc địa đó, làm thủ tướng đâu phải dễ (trước đó mấy năm thủ tướng BS Nguyễn Văn Thinh đă phải tự sát!). Chính những người pro-Bảo Đại ở Pháp lúc đó đă nhận xét như LM Cao Văn Luận nhân chứng ghi lại trong hồi kư của ngài:” Bảo Đại đưa Ngô đ́nh Diệm ông Diệm về Việt Nam là để đốt cháy tương lai chính-trị của ông mà thôi!” (3). Thành quả và sự thực lịch-sử đă hiển nhiên, viết lịch-sử là đứng ở tổng thể và cân nhắc phải-trái, sao lại có người đi soi móc chi tiết thổi phồng cho to, mà lại làm một cách thiên vị hoặc giả dối, đạo đức giả ? Tiện đây chúng tôi xin mở dấu ngoặc nói thêm là đối với cuộc chiến-tranh vừa qua (1954-1975), giới viết lách trong nước và một phần ở hải-ngoại đă nhận ra rằng chẳng có chính nghĩa nào hết nếu xét cho cùng. Tất cả chỉ là cường điệu, và hai bên đều là công cụ cho những “lư-tưởng” đối chọi nhau. Và v́ không có chính nghĩa (dù có chính-đáng) nên cũng đă chẳng có một chung cuộc theo nghĩa có bên thắng có phe thua. Nga, Trung quốc và Hoa-Kỳ chỉ ngưng ... chơi v́ kiệt quệ, vậy thôi! Phạm Kim Vinh, vốn khó tính, vẫn nh́n nhận “chính quyền Ngô đ́nh Diệm là chính quyền duy nhất của người Việt quốc-gia tạo được chính danh, chính thống và chính nghĩa cho công cuộc chống Cộng của người Việt Nam” (4).

4. Để “hoàn thành” cuộc đảo-chánh, trong hai ngày 1 và 2-11-1963, những kẻ chủ mưu và thừa hành đă ám sát theo thứ tự thời gian: đại tá Hồ Tấn Quyền tư lệnh hải quân trưa 1-11, đại tá Lê Quang Tung tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và em ông là thiếu tá Lê Quang Triệu tối 1-11; tổng-thống Ngô đ́nh Diệm và em ông là cố vấn Ngô đ́nh Nhu sáng 2-11. Bốn người, anh em ông tổng-thống và anh em ông Tung Triệu bị đại úy Nguyễn Văn Nhung cận vệ của Dương Văn Minh giết và bắn chết (thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa cùng với đại úy Nhung giết anh em tổng-thống), đại tá Quyền bị thuộc hạ phản thùng là thiếu tá Lực và đại úy Giang giết. Các sĩ quan khác không thuận theo đảo-chánh hoặc bị nghi ngờ th́ bị giam ở bộ Tổng Tham mưu như Cao Văn Viên, Lê Nguyên Khang, Nguyễn Ngọc Khôi, Đỗ Ngọc Nhận, v.v.

Người trách nhiệm hàng đầu trong vụ ám sát anh em tổng-thống là trung tường Dương Văn Minh. Các tướng thuộc Ủy Ban Cách-Mạng ở Sài-G̣n lúc đó như Trần Văn Đôn (5), Tôn Thất Đính (6) và đại tá Đỗ Mậu (7), ... hoặc ở xa như tướng Khánh, Thi đều xác nhận điều này. Dù ǵ th́ anh em tổng-thống Ngô đ́nh Diệm đă bị ám sát chết, do thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa hay đại úy Nguyễn Văn Nhung thừa hành th́ tướng Dương Văn Minh và Ủy Ban Cách-Mạng phải liên đới trách nhiệm trước lịch-sử, cũng như các tướng Mai Hữu Xuân (“Mission accomplie!” chào tŕnh tướng Dương Văn Minh) và hai đại tá Nguyễn Văn Quan và Dương Văn Lắm, ... chỉ huy đoàn quân xa đi đón đă không làm tṛn trách nhiệm, hoặc có chỉ huy mà như không hoặc đồng lơa v́ sự đă rơ là hai ông Nghĩa và Nhung muốn làm ǵ th́ làm (cả cho biết trước!). Ông Trần Văn Đôn kết luận chuyện t́m kẻ chủ xướng đă tỏ đồng ư và khen “người nào đó ra lịnh giết nầy quả là một người thấy xa, ông ta không phải ngu dại khi làm việc đó” (8). Dĩ nhiên người Mỹ hài ḷng v́ tham vọng bành trướng chiến-tranh sẽ hết bị cản trở bởi vị nguyên thủ quốc-gia hợp hiến, đă mừng reo lên chiều ngày 2-11 khi đón hai ông Đôn và Lê Văn Kim đại diện các tướng đảo-chánh: “C'est formidable! C'est magnifique! (Tuyệt vời!)” (9).

Vai-tṛ của Nguyễn Văn Nhung th́ đă rơ (10), c̣n thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa th́ nhiều nhân chứng từ sau 1963 đă ám chỉ ông tham gia việc giết anh em tổng-thống - cả hai đều ngồi chung xe thiết-giáp với anh em tổng-thống. Theo Trần Văn Đôn, ông Nghĩa đ̣i đi theo đoàn đón tổng-thống và nói “Moa có nhiệm vụ” (11). Hoàng Văn Lạc (biệt bộ tham mưu phủ tổng-thống lúc đảo-chánh) và Hà Mai-Việt trong Nam Việt-Nam 1954-1975: Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới xuất-bản năm 1990, buộc tội ông Nghĩa là đao phủ thủ thứ hai trong vụ ám sát tổng-thống. Điều tra của ông bà Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức xuất-bản năm 1994 cũng đưa tới cùng kết luận đó (12) nhưng ông Nghĩa từ chối trả lời phỏng vấn sau khi qua Mỹ theo diện H.O. Năm 1996, ông Nghĩa cuối cùng lên tiếng, tự biện hộ cho rằng ông có biết tướng Dương Văn Minh ra lệnh giết ông Nhu. Ngay sau đó, ông bà Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức viết bài vạch mười điểm sai lầm và ngụy biện của ông Nghĩa, cho biết thêm đại úy Phan Ḥa Hiệp (sau lên chuẩn tướng) đă nói với hai soạn giả (cũng như với nhiều người khác như Ngô Đ́nh Châu (13)), rằng ông đă nghe ông Nghĩa nói sẽ giết anh em ông Diệm để trả thù cho đại úy thiết giáp Bùi Ngươn Ngăi bạn ông và cùng đảng viên Đại-Việt bị tử thương trong ngày đảo-chánh (14). Ông Duệ th́ chắc chắn về việc ông Nghĩa nhúng tay giết tổng-thống v́ có hai nhân chứng thấy ông Nghĩa lau tay dính máu. Về sau ông Nghĩa làm phụ thẩm ṭa án cách-mạng xử tử ông Ngô đ́nh Cẩn, vậy theo ông Duệ, ông Nghĩa đă dính máu ba anh em ông tổng-thống (15)! Ông Huỳnh Văn Lang trong bộ hồi kư Nhân Chứng Một Chế Độ đă cho biết thêm một số chuyện: đại tá Nguyễn Văn Quan có vai-tṛ trong cái chết của anh em Ngô đ́nh Diệm, ông Quan thuộc đảng Đại Việt và có thù cá nhân với ông Nhu (16). Thứ nữa, tướng Dương Văn Minh bất măn bị lấy lại “chiến lợi phẩm” từ Bảy Viễn (17). Ông Nguyễn Hữu Duệ, lúc đảo-chánh là thiếu tá tư lệnh phó cho trung tá Nguyễn Ngọc Khôi Lữ đoàn Pḥng vệ tổng-thống phủ, đă ghi lại trong Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm (18), rằng ông Quan đă chối với ông vai-tṛ trong vụ ám sát tổng-thống v́ ông Quan chỉ t́nh cờ đi theo. Cựu đại tướng Cao Văn Viên trong Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng-Ḥa trong lời Bạt viết thêm khi bản dịch xuất-bản (19), đă tiết lộ thêm ông suưt bị cách-mạng giết vào tối 1-11 sau khi đại úy Nhung đă đưa anh em Lê Quang Tung đi giết ở Nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế.

Ông Ngô đ́nh Cẩn và Phan Quang Đông th́ bị “cách-mạng nối dài” xử tử ngày 9-5-1964 tức sáu tháng sau. Ông cố vấn Ngô đ́nh Cẩn cả-tin ở lời hứa của người Mỹ, đă vào trốn ở toà lănh sự Mỹ ở Huế để cuối cùng bị đại sứ Henry Cabot Lodge giao lại cho những người v́ họ ông phải ... xin tị nạn, rồi khi có án tử th́ Lodge (vờ) xin ân xá cho nạn nhân của y! Như vậy cái chết đến với ông v́ một tướng Cần lao phản bội khác v́ muốn lấy ḷng Phật giáo nhưng lư do chính có thể v́ không khai thác được tiền tưởng ông Cẩn và gia-đ́nh gửi ở Thụy Sỹ trong thực tế có thể không hề có (20)!

Đảo-chánh 1-11-1963 cùng với những cái chết bi đát không những đối với người chết, với công lao và hành trạng của họ, mà c̣n bi đát cả đối với người sống, bởi vậy đă 40 năm qua, tang thương đă nhiều mà những cái chết đó vẫn c̣n ám ảnh nhiều người, Việt cũng như Mỹ, Pháp! Bà Anne Blair gọi là một “mối ám ảnh đeo đuổi dai dẵng lương tâm nước Mỹ, quần chúng và nhà lănh đạo xứ này, tạo ra hội chứng Việt Nam / Vietnam Syndrome” (21). Người bản chất đă xấu càng tệ hơn bên cạnh con người thanh cao càng tỏ rạng hơn với thời gian!

5. Đảo-chánh này đă có lợi cho kẻ thù nghịch là Hà-Nội và cho đồng minh Hoa-Kỳ. Hà-Nội từ sau đảo-chánh không c̣n phải đối đầu chính-trị với Ngô đ́nh Diệm - một người yêu nước, thanh liêm mà nay chỉ phải đối đầu với tay sai, bù nh́n của thực dân Mỹ, lại tham nhũng, mất tư cách, gây “khoảng trống chính-trị khổng lồ” cho miền Nam th́ dễ dàng quá xá! Cựu đảng viên cộng-sản Bùi Tín cho biết đảo-chánh đă gây thuận lợi cho mưu đồ thôn tính miền Nam của Hà-Nội, tháng 4-1964, chính tướng Nguyễn Chí Thanh đă đích thân vào Nam điều khiển cuộc chiến đó (22)! Hoa-Kỳ thủ phạm và ṭng phạm giết Ngô đ́nh Diệm, tổng-thống một quốc gia độc lập vừa là đồng minh, nay ai cũng biết là v́ quyền lợi đế quốc kinh tế chứ chẳng v́ lư thuyết cao quư ǵ cả! Lobby áp lực tư bản Mỹ đứng sau ba ông cố vấn “anti-Diem activists” của tổng-thống Kennedy là tác-giả bức công điện định mạng Deptel 243 gửi cho đại sứ “thực dân” Cabot Lodge, công điện bật đèn xanh cho vụ đảo-chánh! C̣n chuyện Hoa-Kỳ giết lănh tụ đồng minh, từ hơn 50 năm nay danh sách khá dài; khiến sau cái chết của tổng-thống Diệm, một vị lănh tụ ở á-châu là Ayoub Khan, thủ tường Pakistan, đă tuyên bố rằng làm đồng minh Hoa-Kỳ thật nguy hiểm, tốt hơn nên trung lập hoặc làm kẻ thù - sau này Kissinger cũng lập lại nhưng đạo đức giả v́ tay ông ta nhúng chàm ở Chili, Việt Nam và nhiều nơi khác! Chính phủ Mỹ chứng minh với thế giới rằng khi họ cần th́ là đồng minh, khi hết xử dụng được hoặc đụng chạm quyền lợi Mỹ th́ ám sát, kể cả người đó là theo chủ nghĩa quốc gia hoặc cùng tôn giáo Thiên Chúa với người Mỹ. Và làm đại sứ Mỹ ở đâu là hôm trước tŕnh ủy nhiệm thư, hôm sau trở thành chuyên viên đảo-chánh!

6. Đă là một thiết yếu có tính cách giai-đoạn, thành thử về trường kỳ đă là một sai lầm lớn. Các tài liệu được bạch hóa cũng như nhiều nghiên cứu, sách báo từ đó đă đi đến cùng một kết luận: tổng-thống Kennedy đă cho phép (chứ không phải “ra lệnh” - đây là cách hiểu lệnh theo ư của tùy ṭng phụ tá ở Mỹ như ... và ở Việt Nam như Lucien Conein, Henri C. Lodge). Nghiên cứu mới nhất của kư giả James Rosen tựa The Strong Man: John Mitchell, Nixon and Watergate về vụ Watwergate nhưng trở về một nguồn là vụ ám sát tổng-thống Ngô đ́nh Diệm. Cuốn sách Doubleday sẽ xuất bản tháng 8-2004 nhưng đă có một số bài báo tiết lộ một số chi tiết, như chuyện một cuộn băng được bạch-hoá ngày 28-2-2003 cho biết phó tổng-thống Johnson đă xác nhận tổng-thống Kennedy và ban tham mưu kể cả ông, không những đă bật đèn xanh mà c̣n “tổ chức và thi hành vụ thảm sát này” (“organized and executed it”) với lư do “tham nhũng / corrup”) (?), do đó đă “giết ông ta. Chúng ta đă họp với nhau và dùng một bọn giết mướn đáng nguyền rủa để làm việc này” (“So we killed him. We all got together and got a goddam bunch of thugs and assassinated him”! Xin để ư chữ dùng của phó tổng-thống Johnson để gọi những người phe đảo-chánh! Nhưng ông thêm một câu cho nhẹ tội đồng lơa: “Chúng ta đă giết ông ta v́ cho rằng ông ta không tốt. Lúc đó tôi đă can đừng làm việc đó nhưng họ không nghe tôi và cứ thi hành” (“And I just pledge with them please don't do it. But that is where it started and they knocked him off”). Trong Triangle of Death: The Shocking Truth About the Role of South Vietnam and the French Mafia in the Assassination of JFK , hai nhà báo Bradley O'Leary và L.E. Seymour cho rằng vụ ám sát tổng-thống Kennedy là hậu quả của vụ ám sát anh em tổng-thống Ngô đ́nh Diệm và do bàn tay của mafia gốc Pháp ở New Orleans LA và cả người Việt Nam. Dù những cố vấn và chóp bu toà Bạch ốc có chia ra hai phe bảo-thủ và tự-do, nhưng trách nhiệm lịch-sử đă đổ lên đầu tổng-thống Kennedy! Tổng-thống Kennedy 2 ngày sau, 4-11-1963, xúc động và tỏ ư hối tiếc vụ đảo-chánh và nhận trách nhiệm (23) nhưng v́ muốn lấy phiếu cử tri nên ngày 20-11-1963 họp báo ở Hononulu đă tuyên bố sẽ rút quân về nếu thắng cử, và hai ngày sau th́ ông bị ám sát ở Dallas, phó tổng-thống Johnson lên thay sẽ tha hồ đổ quân vào Việt Nam như tư bản Mỹ muốn!

Dĩ nhiên CIA cũng đă có một vai-tṛ quan trọng dù kín đáo hơn trong vụ ám sát hai anh em ông tổng-thống Ngô đ́nh Diệm (24). Ngoài ra, các thông tấn, báo chí nhất là New York Times từ 28-11-1962 đă “dám” cảnh cáo tổng-thống Ngô đ́nh Diệm nếu không nghe lời Mỹ, sẽ bị rớt đài (25). Các nhà báo Hoa-Kỳ như David Halberstam, Neil Sheehan, Malcolm Brownw, v.v… t́m liên hệ với báo chí Việt Nam đứng đầu là Bùi Diễm tờ Saigon Times để hoàn thành “chiến dịch” lật đổ tổng-thống một nước đồng minh! Báo chí và truyền thông Hoa-Kỳ sau đó vẫn tiếp tục can dự vào chính-trị Việt Nam đưa đến biến cố 30-4-1975 khiến nhiều người đă kết luận là báo chí Mỹ đă thua cuộc chiến đó, v́ vậy mà sau này quân đội Hoa-Kỳ đi đánh vùng Vịnh ở Trung đông đă giảm thiểu tối đa sự có mặt của giới truyền thông Mỹ!

7. Biến cố đảo-chánh này và những diễn biến chính-trị sau đó chứng tỏ vai-tṛ tệ hại của các chính đảng vốn nhập cảng từ Bắc vào với Hiệp định đ́nh chiến 1954, đă không thật thích hợp với miền đất phía Nam. Các chính khách đó chỉ nhắm ghế bộ trưởng và quyền hành (thời kham khổ chiến đấu bí mật hay từ quần chúng nơi thôn quê hẻo lánh đă ... xa lắc!). Rồi từ ngoại quốc về thẳng ghế phó thủ tướng, bộ trưởng, ... rồi chạy theo người Mỹ vận động chức chưởng. Xuất hiện những Tân Đại Việt, Phong Trào Cấp Tiến cùng với những biến mất v́ ám sát của những Nguyễn Văn Bông, Trần Văn Văn, ... Những đại tá Nguyễn Văn Quan, thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa đều là đảng viên Đại Việt. Vai-tṛ của các đảng phái đặc biệt là Đại-Việt Quan Lại tuy không là yếu tố quyết định nhưng góp phần phía chính trị lật đổ chế độ hợp hiến Ngô đ́nh Diệm. Bùi Diễm khoe trong hồi kư và qua các tài liệu mật Pentagon cũng như các tài liệu nói chung, đă cho thấy ông đă đóng vai khá động, với tư cách nhà báo của Saigon Times và đồng thời đảng viên Đại-Việt, đă làm “con thoi” của người Mỹ, ngay từ đảo-chánh 11-11-1960! Chính Đạo từng hơn một lần gọi ông Diễm và Đặng Văn Sung là “đảng viên Đại-Việt thời cơ” (26). Ông Diễm từ 1960, nhất là sau vụ Caravelle, đă liên hệ cũng như “tường tŕnh” vạch lá t́m sâu chế độ Ngô đ́nh Diệm cho các nhà báo người Mỹ như Neil Sheehan, M. Brown, David Halberstam, v.v. (27). Họ Bùi và đảng Đại-Việt v́ tham vọng quyền lực chính-trị đă “tế thần” chế độ tổng-thống Ngô đ́nh Diệm, qua connection Joseph Buttinger và thủ lănh Nguyễn Tôn Hoàn đang ở Hoa-Kỳ lúc đó (chờ về ... chấp chánh) làm lobby với chính quyền Kennedy. Các tướng lănh đảo-chánh cũng như chỉnh lư và biểu dương lực lượng sau đó (1963-1965) đều rơi vào mê hồn trận của đảng Đại-Việt, chi phối cho đến hoà đàm Paris và biến cố 30-4-1975 và cả sau đó ở hải-ngoại (28). Cũng không nên quên vai-tṛ của thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa trong cái chết của anh em ông tổng-thống Ngô đ́nh Diệm, ông Nghĩa là đảng viên Đại-Việt và từng tuyên bố trả thù cho đồng đảng bị tử trận ngày đảo-chánh. Sau ông lên đại tá và ra hải-ngoại được chất vấn vẫn chưa trả lời thỏa đáng.

8. Nhiều nhân-vật liên hệ và sự kiện, diễn biến chung quanh vụ đảo-chánh cũng như chế độ Ngô đ́nh Diệm đă bị huyền thoại hóa, về gia tài gia đ́nh họ Ngô - tiền của tổng thống Ngô đ́nh Diệm gửi cha Toán Ḍng Chúa Cứu Thế đă bị tướng Trần Văn Minh cho người đến lấy, tiền của cố vấn Ngô đ́nh Cẩn đă bị tướng Đỗ Cao Trí và Nguyễn Khánh lấy - ông này c̣n đ̣i thêm tiền ở Thụy sỹ nhưng có lẽ không có nên đă phó mạng ông Cẩn cho phe Phật giáo bạo động lấy ḷng. Một vài sự vật và việc nhỏ nhoi khác cũng được thổi phồng, huyễn hóa cho lớn chuyện: nghiên mực Tức Mặc Hầu có người t́nh cờ thấy trong dinh Tổng thống, Vương Hồng Sển, một thư-kư thuộc địa (1923-43) lên đến Quản thủ Viện Bảo Tàng Sài-G̣n (1947-1964), lại đi thắc mắc và tố ông tổng-thống chiếm đoạt một nghiên mực (bằng suy luận) (29) - trong khi bao vàng bạc châu báu triều đ́nh Huế đă dâng cho Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận đại diện Hồ Chí Minh buộc nhà Vua cuối cùng Triều Nguyễn thoái vị - th́ chưa ai “dám” nói đến! Nghiên mực trong một căn pḥng tổng thống mà vật dụng, trang hoàng chưa chắc đă hơn pḥng ngũ của tài xế những ông tướng cùng thời, th́ có ǵ đáng nói ? Nhưng, nhiều “khoa bảng, sử gia” dùng đó để kết luận về ... con người tổng-thống Ngô đ́nh Diệm và phê cả chế độ!

9. Rồi chỉnh lư, biểu dương lực lượng và một số quả báo đă xảy ra cho những người liên hệ xa gần vụ đảo-chánh: TT Mỹ John F. Kennedy bị ám sát 3 tuần sau, ngày 22-11-1963, bốn tướng đảo-chánh (DV Minh, Xuân, Đôn, Kim), Nguyễn Văn Nhung thiếu tá mới lên, Trần Văn Chương, ... hoặc bộ mặt thật chẳng ra ǵ của họ! Về Dương Văn Minh, bà Tùng Long đă có nhận xét rất đáng kể khi Huỳnh Thành Vị mời bà vào nhóm Ba phe sau khi ông Minh ở Thái Lan về lại Việt Nam, bà đă từ chối lấy lư do không làm chính-trị mà nếu có làm cũng không bao giờ hợp tác với ông Minh với lư như sau: “Khi cờ đến tay mà c̣n không phất được th́ bây giờ c̣n có cơ hội nào để làm nữa” (30). Bà Tùng Long lúc nhỏ ở gần nhà ông Minh ở đường Trương Công Định gần vườn Tao đàn, và học chung với các em gái ông Minh. Đại tướng Lê Văn Tỵ cũng từng phát biểu rằng tướng Big Minh chỉ “là một thùng phuy rỗng” (31).

10. Trong số những người trung thành với chế độ Ngô đ́nh Diệm, đă có những người nh́n thấy trục trặc của chế độ do đó đă lên tiếng, ra tay, nhưng không được đáp ứng và do đó phải chịu trả giá bản thân: BS Trần Kim Tuyến, ông Nguyễn Văn Châu. V.v. Sau đảo-chánh 11-11-1960 của các sĩ quan như Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi và có bàn tay của một số chính khách, một số người thân tín của chế độ đă nh́n thấy cần cải cách, thay đổi. Một lực lượng đối lập dân chủ được h́nh thành, Phong Trào Đại Đoàn Kết, từ đầu năm 1961 đă có một số đề nghị cải cách trong đó đề nghị lập chức Thủ tướng và giao cho BS Phan Huy Quát là bộ mặt chính-trị tương đối thanh liêm và có tầm cỡ. Nhưng ông cố vấn Sài-G̣n không cùng ư kiến, do đó ông Châu mất chức, phải đi D.C. làm tùy viên quân sự từ tháng 9-1962, ông Tuyến làm tổng lănh sự ở Ai cập nhưng chưa nhận nhiệm sở th́ đảo-chánh đă xảy ra. Cuộc đảo-chánh 1-11-1963 xảy ra th́ t́nh h́nh Việt Nam về chính-trị, quân sự đă khác với thời đảo-chánh 11-11-1960: ba năm sau, người Mỹ thao túng mạnh mẽ hơn và các vị trung thành với chế độ đă bị ly tán, không có quân hoặc quyền hành như trước! Ông Châu bị ông Nguyễn Ngọc Khôi trách đem quân ủy vào làm yếu quân đội (32). C̣n ông Nguyễn Hữu Duệ th́ đưa ra sự kiện trước đảo-chánh, khi “đại tá Tung được lệnh cô lập ông Mậu để dằn mặt những người mưu toan” nhưng ông trung tá Châu “nhảy bổ vào tŕnh diện tổng-thống khóc lóc than phiền là ông Nhu bây giờ hết tin anh em, đă đẩy ông đi xa , nay c̣n anh Mậu theo cụ từ bao lâu nay mà cũng ra lệnh bắt (...) Nếu ông Châu đừng xía vô việc này th́ ông Mậu bị bắt, như vậy các tướng sẽ không dám làm đảo-chánh, tôi hỏi thêm ông Châu. Việc này có thể đúng, ông trả lời” (33)! Ông Duệ hỏi ông Châu chỉ vài ngày sau đảo-chánh. Theo Trần Văn Đôn và nhiều người th́ ông Đỗ Mậu theo đảo-chánh v́ sợ hơn là chủ động theo!

11. Vụ hiệp thương hoặc cố vấn Ngô đ́nh Nhu tiếp xúc với đại diện Hà-Nội (Phạm Hùng, và có thể cả Trần Độ theo như lời ông Tôn Thất Thiện (34)) trước nay vẫn được dùng như một luận cứ để bênh vực ... Mỹ và nhóm tướng lănh đảo-chánh! Chính ông Ngô đ́nh Nhu trong một số buổi học tập chính-trị đă kể - chứ không giấu diếm như nhiều người lầm tưởng để khiến CIA Mỹ phải ŕnh rập! Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu nhiều lần nhưng nhất là trong Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, đă chứng minh “hành động “ve văn” Cộng-Sản của anh em Diệm-Nhu (...), yếu tố “phiến Cọng” này mới thực sự mang lại sự sụp đổ của đệ Nhất Cộng Ḥa (1956-1963) mà không phải cuộc tranh đấu của Phật Giáo, hay cái gọi là “bảo vệ chủ quyền quốc-gia”, “quốc thể”, “nền độc lập” như nhiều người tưởng nghĩ” (35). Một số người để biện hộ cho những hành vi phản bội, phá đổ miền Nam đă lấy lư do ông Nhu nói chuyện với miền Bắc mà họ gọi là “thỏa hiệp với Cọng, xé bỏ Hiến pháp” như Đỗ Mậu từng ngụy biện (36), v́ rồi cũng chính ông Mậu mấy năm trước khi chết đă viết Tâm Thư (1995) và về lại trong nước và đă có những thái độ, lời nói rất khả nghi! Lịch-sử chưa phê phán, chính ḿnh đă tự lột mặt nạ! Giả dụ chuyện đó (cũng như chuyện cành đào chủ tịch họ Hồ miền Bắc gửi cho tổng-thống miền Nam) có thật và thành công, thiển nghĩ nhiều triệu người Việt, Nam và Bắc, đă không phải hy sinh, nằm xuống hoặc mất tích, thương tật, v.v. và hôm nay cũng chẳng có ai phải bàn căi chuyện chất độc Orange đă thiêu hủy, gây thương tật cho thiên nhiên, môi trường sống ở Việt Nam cũng như những quái thai trong các ống thí nghiệm của Nhà Nước Hà-Nội! Và biết đâu miền Nam đă trở thành Nam Hàn! V.v. Ừ nhỉ, thế th́ cái diaspora Việt Nam hải-ngoại làm sao giải thích? * Vấn-đề nghiên cứu về biến cố, người trẻ sau này sẽ gặp nhiều khó khắn cũng như dễ dàng (37). Xin tham khảo chính văn, đừng nghe kể lại dù người đó là khoa bảng hay có tiếng; nhăn “linh mục, pháp danh” cựu này cựu kia, với một thiểu số có khi c̣n nguy hại hơn tài liệu và chứng giám của một tù nhân hay lính quèn! Có thật sự tham khảo mới có thể có nhận định, phán đoán chính đáng, công bằng. Hăy tập bỏ lư luận v́ người cùng phe, v́ danh tiếng người nào đó, nếu muốn tránh hời hợt và trở thành tṛ xiếc!

Muốn nghiêm chỉnh nghiên cứu và phê phán cuộc đảo-chánh 1-11-1963, thiển nghĩ không thể không làm (thêm) những việc sau đây: - Nghiên cứu lư thuyết chính-trị Nhân Vị của ông Ngô đ́nh Nhu. Thuyết này không từ trên trời rơi xuống, có thông hiểu nó và con người chủ tŕ ra nó đông-tây tổng hợp và có cái nh́n viễn kiến - cũng như muốn hiểu Trung cộng không thể không tham khảo những ǵ Mao Trạch Đông đă viết từ những thập niên 1930, 40. Chính đảng trong chính quyền mà có lư thuyết nghiêm túc dĩ nhiên là cần thiết, băng đảng mới là nguy hại! - Nghiên cứu lại những lư-thuyết chống Cộng của ông Nhu cũng như của các người khác, của những thời 1954, 1960, 1963, v.v. so với sau đó cho đến 30-4-1975. - Khách quan t́m hiểu những thực hiện của chế độ đệ nhất Cộng-hoà như chính sách dinh điền, khu trù mật, ấp-chiến-lược, v.v. Cũng tránh thiên-kiến, cảm tính là những điều khó tránh cho những người có liên hệ xa gần đến các biến cố, và tránh những tổng quát hóa đơn sơ như kết luận kiểu “Ngô đ́nh Diệm tạo nên thời đại hoàng kim của Ki-tô giáo” (38) trong khi thực tế phức tạp nhiều! - Một khía cạnh khác cũng đáng kể nhưng ít ai đi sâu vào: vai-tṛ ông cố vấn miền Trung Ngô đ́nh Cẩn. Ông Cẩn liên hệ tốt đẹp với giáo hội Phật giáo ở Huế cũng như với Thích Trí Quang. Nhạy bén và biết hành xử chính-trị, trong vụ khủng hoảng Phật giáo mùa Hè 1963, ông đă mời được các vị lănh đạo Phật giáo đến nhà ông ngày 7-5-1963 và đă nói như sau khi tiễn họ ra cửa: “Một tṛ Ơn chết mà chết cả một chính phủ, huống chi của một tôn giáo lớn nhất mà bị triệt hạ ngang như thế!” (39). Giáo sư Nguyễn Văn Trung trong tập bản thảo “Vẽ Đường Cho Hươu Chạy” đă tổng kết về những sự kiện lịch-sử chưa ai nói đến về ông Ngô đ́nh Cẩn. Giáo sư đưa ra ánh sáng hai điểm qua hai tài liệu Bội Phản Hay Chân Chính, hồi kư tập thể của một số cựu tù nhân của Đội Công Tác Đặc Biệt Miền Trung và bài viết của luật sư Vơ Văn Quan đăng trên Thế Giới Ngày Nay cuối năm 1992 - ông Quan là người từng biện hộ cho ông Ngô đ́nh Cẩn: thứ nhất, ông Cẩn không phải là thủ phạm hay có dính líu đến vụ đàn áp Phật giáo, ngược lại ông c̣n ủng hộ cuộc “đấu tranh” đó và chống lại hai ông anh ở Sài-G̣n đă nghe lời TGM Ngô Đ́nh Thục. Thứ nữa, cách ông Cẩn chống Cộng làm cho cộng-sản Hà-Nội sợ và đă đem lại an ninh cho miền Trung vốn rất xáo động. Trích đoạn đă được đăng trên tờ Ngày Nay Houston (40) nói đến “thành tích chống Cộng của Mật vụ Ngô đ́nh Cẩn-Dương Văn Hiếu thật diệu kỳ, siêu tổ chức”; và tù cộng-sản ở nhà tù ông Cẩn ra đều bị Hà-Nội nghi ngờ và không được tin dùng nữa! Ngoài ra, ông Trung c̣n đưa ra lư lẽ tại sao thượng tọa Thích Trí Quang muốn xử tử ông Ngô đ́nh Cẩn: chỉ để bịt miệng thế gian là chế độ Ngô đ́nh Diệm đàn áp Phật giáo trong khi thực tế ngược lại. Thích Trí Quang cộng tác với ông Cẩn lúc đầu là để trá hàng, lợi dụng ông Cẩn, và cuối cùng TT Quang đă để cho cộng-sản Hà-Nội lợi dụng ông! Cái chết của ông Cẩn là một sỉ nhục và ông đă khẳng khái tỏ ra khinh miệt kẻ gian khi không chịu bịt mặt!

Về các tài liệu, hồi kư của bên người miền Nam, quốc gia đă đành, mà cũng nên xem qua tiếng nói, nhân chứng phía người Cộng sản Việt Nam và cựu đảng viên cộng-sản. Nếu lướt qua những tài liệu chúng tôi đă tham-khảo về biến cố đảo-chánh 1-11, xin lược lại đây một số ư kiến: một số người (Nguyễn Mạnh Quang,...). không tham khảo nguyên bản, chỉ lập lại lời người khác, hoặc trích lời dịch từ những nguyên bản tiếng ngoại ngữ có thể bất khả tín. Người khác, như Trần Ngọc Ninh (40 Năm Sau (41)), một cựu ủy viên tương đương bộ-trưởng của miền Nam, 40 năm sau đảo-chánh mà không cập nhật tài liệu và khám phá mới, đọc ông cứ như mới viết sau đảo-chánh thời cao trào Phật giáo hoặc suưt gây thánh chiến với Công giáo. Người khác nữa th́ nhầm lẫn nhân sự: một ông ở Úc (42) lầm Nguyễn Văn Châu với Nguyễn Hữu Châu, người khác ghi Trần Văn Châu khi nói tới giám-đốc Nha Chiến-tranh Tâm-lư không biết ông ta muốn nói Trần Văn Trung hay Nguyễn Văn Châu v́ cả hai đều giữ chức đó, ông Trung trước, ông Châu kế nhiệm.

Tài-liệu hoặc tác giả có thể tin hoặc giúp ích cho nghiên cứu về biến cố có: LM Cao Văn Luận (Bên Gịng Lịch-Sử, 2 ấn bản khác nhau, 1972 & 1983 ở hải-ngoại), Hoàng Lạc & Hà Mai-Việt (Nam Việt-Nam 1954-1975: những sự thật chưa hề nhắc tới. 1990), Nguyễn Trân (Công Và Tội: những sự thật lịch sử; hồi-kư lịch sử chính trị miền Nam 1945-1975. 1992); Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức (Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm. 1994, một điều tra lịch-sử khá khách quan (43); bản dịch ra tiếng Anh: President Ngô D́nh Diêm and the US: his overthrow and assassination. 2001), Phan Văn Lưu (Biến Cố Chính-Trị Việt Nam Hiện Đại. 1994), Vĩnh Phúc (Những Huyền Thoại Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đ́nh Diệm. 1998), Minh Vơ (Ngô Đ́nh Diệm: Lời Khen Tiếng Chê. 1998), Huỳnh Văn Lang (Nhân Chứng Một Chế Độ, 3 tập), Nguyễn Hữu Duệ (Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm. 2003),... Cũng như những ấn phẩm xuất-bản trong nước trước 1975 như của Lê Tử Hùng, Đỗ Thọ, Lương Khải Minh và Cao Vị Hoàng, Minh Hùng Nguyễn Văn Bảo, v.v.

Phía tác-giả ngoại quốc, trước hết phải kể đến những tài liệu giải mật của Pentagon (44), của chính quyền Hoa-Kỳ, Bản tường tŕnh của Phái đoàn điều tra LHQ (công bố ngày 13-12-1963 chứ không bị ch́m xuồng như một đôi người viết (45)), B. S. N. Murti (Vietnam divided; the unfinished struggle, 1960, tb 1964), Dennis J. Duncanson (Government and Revolution in Vietnam. 1968), Marguerite Higgins (Our Vietnam Nightmare, 1965), R. Shaplen (The Lost Revolution. 1965), Ellen J. Hammer (A Death in November: America in Vietnam, 1963. 1987), Frederick Nolting (From Trust to Tragedy: the political memoirs of Frederick Nolting, Kennedy's ambassador to Diem's Vietnam. 1988), Anne E. Blair (Lodge in Vietnam: a Patriot Abroad. 1995), Francis X. Winters (The Year of the Hare: America in Vietnam, January 25, 1963-February 15, 1964; xuất-bản 1997, từ tài liệu giải mật Foreign Relations of the U.S. 1961-1984),

Những tài-liệu hoặc tác giả sau dùng được nhưng đề cao cảnh giác: Bùi Diễm (In the Jaws of History. 1987; Gọng Ḱm Của Lịch-Sử. 2000); Trần Văn Đôn (Our Endless War: inside Vietnam. 1978; Việt Nam Nhân Chứng. 1989), Nguyễn Cao Kỳ (How we lost the Vietnam War. 1976; Buddha's Child: my Fight to Save Vietnam. 2002), Phạm Văn Liễu. Trả Ta Sông Núi. Tập 1&2, 2002-, Nguyễn Ngọc Khôi (“Những sai lầm của Đệ Nhất Cộng Ḥa” (46)), Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của Đỗ Mậu (1986), Việt Nam: Một Trời Tâm Sự (1987) của Nguyễn Chánh Thi, 20 Năm Binh Nghiệp, tức Nghĩa Biển T́nh Sông. 1998) của Tôn Thất Đính - đều là những biện hộ không khéo hoặc quá đánh bóng cá nhân, Những bịa đặt, xuyên tạc của những Đệ Nhất Phu Nhân của Hoàng Trọng Miên, Đảng Cần Lao (1971) của Chu Bằng Lĩnh tức Mặc Thu, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư 1954-1963 (1998) của Nguyễn Mạnh Quang, Những Bí ẩn Lịch-sử Dưới Chế độ Ngô đ́nh Diệm, Những Con Tḥ Ḷ Chính-Trị ... và tương cận của Lê Trọng Văn, những bài viết và ấn-phẩm của nhóm Giao Điểm ở Cali và ở trong nước, cả cuốn Sáu Tháng Pháp Nạn của Vũ Văn Mẫu, cựu ngoại trưởng đă cạo đầu từ chức nhân biến cố Phật Giáo 22-8-1963 và cũng là thủ tướng hai ngày (28-4-1975) của tổng-thống cộng-ḥa cuối cùng Dương Văn Minh, đă viết cuốn này lúc c̣n ở trong nước và in ronéo năm 1984, đến 2003, TT Thích Măn Giác viết tựa và nhóm Giao Điểm in lại ở Nam California. Ngoài ra có những tài liệu, hồi kư khác có thể xử dụng về xa gần biến cố đảo-chánh hoặc con người: Nhị Lang (Phong Trào Tŕnh Minh Thế. 1984), Văn Bia (Đời Một Phóng Viên Và Những Ngày Chung Sống Với Chí Sĩ Ngô Đ́nh Diệm, 2001 (47)), Vương Văn Đông (Binh Biến 11-11-60. 2000), Nguyên Vũ (Chính Đạo, Vũ Ngự Chiêu) có nhiều tài liệu sử và biên thuật đáng kể và khá tinh tế sử dụng văn liệu, nhưng nếu ông nén cảm tính (dù ông đă ghi là “tâm bút” cho ít nhất hai cuốn Paris Xuân 1996 và Ngàn Năm Soi Mặt), khi sử-liệu-hóa lịch-sử th́ giá trị khách quan và khoa học sẽ rơ hơn và thuyết phục được giới trẻ. Những ám ảnh thường thấy trong toàn bộ các biên khảo của ông về chế độ đệ nhất cộng ḥa, đó là ngày sinh của tổng-thống Diệm thời mà giấy tờ hộ tịch chưa như sau này, đó là đánh giá cao hoặc cả tin những người Hoa-Kỳ, Pháp (48), v.v. trong mục-đích hạ giá các nhân vật người Việt, đó là mặc cảm về quyền lực của giáo hội Công giáo, đó là không khai thác những văn khố hoặc sự kiện có lợi cho chế độ đó, đó là quá đề cao các đảng phái khác khi phê phán đảng Cần Lao và chế độ, thiếu so sánh và căn cứ trên những sự kiện lịch-sử đă xảy ra, riêng vụ đảo-chánh, ông lư luận như bênh phe đảo-chánh (tại sao anh em tổng-thống vào trốn ở nhà Mă Tuyên, “một địa điểm đầy nghi hoặc” (49) - nhưng vụ ám sát đă xảy ra khi anh em tổng-thống đă bị bắt và đang bị đưa về bộ chỉ huy đảo-chánh! C̣n giả thuyết nếu xin đại sứ Hoa-Kỳ C. Lodge bảo vệ đưa ra khỏi nước th́ kết quả chắc ǵ đă khác hậu quả đă xảy ra với ông Cẩn: giao kẻ xin tị nạn cho phe ... giết người (!). Khi kết luận, thiển nghĩ Chính Đạo không công bằng khi núp sau luật nhân quả (nhưng ai đủ thẩm quyền để xét luật nhân quả?) để xem rất nhẹ tội kẻ chủ mưu giết anh em tổng-thống Diệm hơn là lời nói và cái ông gọi là “vỗ tay” của bà Trần Lệ Xuân khi bà nói đến các vị sư tự thiêu BBQ: sự tự thiêu dù sao cũng có phần nào nghi vấn, trong khi lời nói dù quá lố hoặc được hiểu là thêm dầu vô lửa hay vỗ tay cũng không phải là chính hành động ... giết người rồi chối tội sau khi đă nhận tiền ngoại bang và chia chác tiền của chiếm được!

Nhiều luận án ở các đại học Pháp, Mỹ và Úc đă nghiên cứu nghiêm túc một số biến cố hoặc cả chân dung chính-trị miền Nam thời này, về chế độ đệ nhất cộng-hoà, về vai tṛ một số đảng phái ở miền Nam, và đă có những cái nh́n theo tôi là can đảm, trung thực, công bằng và khoa học. Ở Pháp có rất nhiều luận án từ cao học đến tiến sĩ không thể kể dài ḍng ở đây, ở Úc là nơi đang lên về nghiên cứu các vấn-đề Việt Nam từ chính-trị đến văn-học có những luận án tiến sĩ đại học Monash xin kể sau: The Miracle of Vietnam: the Establishment and Consolidation of Ngo Đinh Diem 's Regime, 1954-1959 của Nguyễn Ngọc Tân, The Budhish Crises in Vietnam 1963-1966 của Phan Văn Lưu, v.v.

Ngoài ra cũng nên t́m hiểu thái độ cũng như những phát biểu của những người từng được chế độ đệ nhất cộng hoà cho đi du học, xem họ trung hoặc phản ra sao, cũng như nghiên cứu trường hợp những vị trí thức, khoa bảng hoặc thời cơ, “bảo hoàng hơn vua” để nịnh chế độ ra sao cũng như “tác phẩm” và thái độ của họ sau đó thế nào. Cũng như những người bỏ đạo gốc để theo đạo mới nịnh chế độ để tiến thân, rồi sau đảo-chánh, bỏ đạo mới! Và cả những người cao cấp nằm vùng, gián điệp nhị, tam trùng, v.v. Từ đó có thể có thêm những kết luận khác, về cái tâm địa khốn-cùng của con người chẳng hạn!

Gần đây, một sinh viên tiến-sĩ người Mỹ đă gây ngạc nhiên cho tôi khi anh gặp tôi v́ muốn t́m hiểu rơ hơn vai tṛ của ông Nguyễn Văn Châu cũng như một số người khác liên hệ và chỉ ở những ngày trước sau vụ đảo-chánh 1-11. Một trí thức người Việt tốt nghiệp ở Nga cũng hỏi thăm tôi như vậy! Nghĩa là có người vẫn đi t́m sự thực lịch-sử, việc tôi vẫn và tiếp tục theo dơi! Ngoài ra mới đây, hai ngày 24-25 tháng 10-2003, một cuộc hội thảo về biến cố đảo-chánh 1-11 đă được Vietnam Center thuộc đại học Texas Technology ở Lubbock tổ chức. Cựu đảng viên cộng-sản Bùi Tín đă có bài tham luận đă kết luận như sau về tổng-thống Ngô đ́nh Diệm: “ông Diệm là một nhân vật chính-trị đặc sắc, có ḷng yêu nước sâu sắc, có tính cách cương trực thanh liêm, nếp sống đạm bạc giản dị” (50). Bà Ngô đ́nh Nhu ở Paris h́nh như sắp ra hồi-kư (51), thế nào cũng sẽ cho thấy một số bộ mặt thật của nhân t́nh thế thái. Hy vọng các nhân chứng khác hoặc liên hệ đến cuộc đảo-chánh sẽ tiếp tục góp phần làm sáng tỏ một số sự kiện và con người!

* Vài ḍng thêm: Khi vụ đảo chánh xảy ra, chúng tôi đang học trung học đệ nhất cấp. Một số tai mắt và quan-yếu của chế độ đệ nhất cộng hoà t́nh cờ có mặt trong nhà chúng tôi ở Tân-định khi tiếng súng phản-bội bắt đầu nổ sau 1 giờ 30 trưa. Sau đó là bể dâu đối với phần lớn trong các vị này và nay hầu như tất cả đều đă chết, phần lớn trên đường lưu-vong ở xứ người, ngay sau biến cố hoặc sau ngày 30-4-1975 và cả gần đây với những đợt H.O. - đă 40 năm rồi c̣n ǵ? Cá nhân chúng tôi - cũng như một số người Việt Nam, dù muốn dù không, đă bị lịch sử cuốn hút và ảnh-hưởng đến cuộc sống và cả cuộc đời! Rồi cuộc sống lưu vong, rồi những cơn băo ḷng của người Việt nhất là của một số bậc trưởng thượng hoặc đi trước, giữa đường đời thấy sự bất b́nh, khiến chúng tôi cũng đă đôi lần làm đôi việc rất khiêm tốn.

Năm 1988, chúng tôi đă dịch và xuất bản cuốn Ngô Đ́nh Diệm Và Nổ Lực Hoà B́nh Dang Dở (Los Alamitos CA: Xuân Thu, 1989, tái bản cùng năm), một cách cung cấp thêm tiếng nói và quan-điểm của người trong cuộc là ông Nguyễn Văn Châu (1923-1985) cũng là cậu của chúng tôi. Đây là luận-văn Cao-học về sử mà ông đă tŕnh ở đại học Paris nhưng có tính hồi-kư v́ sự liên hệ và quá khứ của ông - tựa là Ngo Dinh Diem en 1963: une autre paix manquée. Lúc bấy giờ ông sống với nghề dạy học môn sử ở thành phố Orléans là nơi ông tị nạn chính trị sau khi ông về lại Hoa-thịnh-đốn sau vụ đảo-chánh 1-11. Ngày đảo-chánh ông đang có mặt ở Sài-G̣n lo đám táng người em ông là linh mục Ḍng Chúa Cứu Thế bị quân-xa đồng-minh Mỹ tung xe chết ở Vũng Tàu là nơi ngài đang dạy tiểu chủng-sinh ḍng - chứ ông Châu không phải về lại Việt Nam tổ chức hay liên hệ đến các phe đảo-chánh như một số người viết (52). Ông trung-tá Châu từng là giám-đốc Nha Chiến-tranh Tâm-lư, trưởng pḥng 5 Bộ Tổng tham-mưu và một số cơ-quan liên-hệ thuộc bộ Quốc pḥng. Với chế độ đệ nhất cộng-hoà, ông từng là quân-ủy của đảng Cần-Lao (Ban 5), đảng viên thuộc tiểu tổ Phan Đ́nh Phùng là tổ đầu tiên của đảng, nhánh Ngô đ́nh Cẩn cũng như bạn ông là Lê Quang Tung, là người khi được tin cẩn đă làm nhiều việc cũng như đă để lại một số sách lư thuyết về chống Cộng và lịch-sử (Thế Hệ Mới, Con Đường Sống; Con Người Mới; Gịng Lịch-sử; Thất bại của Việt Cộng, v.v.). Tài liệu Hà-Nội c̣n cho biết ông Châu lập và điều khiển Liên Đoàn Sỹ Quan Công Giáo khu thủ đô Sài-G̣n để làm mạnh và hiệu lực cho chế độ hơn cơ cấu “tổng tuyên úy quân đội” do quốc trưởng Bảo Đại lập với sắc lệnh từ 1952 (53)! Trở lại ngày đảo-chánh đă nói ở phần đầu, bạn hữu ông đến thăm sau đám tang (54). Khi tiếng súng đảo-chánh bắt đầu nổ, ông c̣n mặc áo tang đă vội vàng leo xe gắn máy một người lính thuộc quyền cũ (và từ chối lên xe jeep của NB, một đại úy do phe đảo-chánh gửi đến, sau ông đại úy làm lớn và cũng trở thành lư thuyết gia chống Cộng sáng giá của miền Nam và là người của Mỹ) và ẩn thân trong một nhà Ḍng rồi đổi chỗ. Khi đảo-chánh thành công, các bạn ông như anh em đại tá Lê Quang Tung tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, như đại tá Hồ Tấn Quyền chỉ huy Hải quân, đều bị đảo chánh giết, sinh mạng ông như ngọn đèn dầu trước băo táp bất nhân, phải nhiều lần ra phi trường ông mới được thoát trở về Hoa-Thịnh-đốn rồi bị nghĩ giă-hạn không lương. Thoát đạn vài vị tướng như nghe nói là TTĐ từng phải “nhịn nhục” ông trong quá khứ. Chán đồng minh Mỹ, ông đi Pháp, đổi sang nghề dạy học cũng như đi học lại. Sau Cao học, ông làm tiếp luận án tiến sĩ, có sang Canada và trở thành khách bộ Ngoại giao Mỹ muà hè 1984 khi đến D.C. nghiên cứu tài liệu. Chúng tôi lúc đó hành nghề thủ-thư ở thư viện Quốc hội Québec, đă phụ t́m giúp ông nhiều tài liệu của Anh nhất là của Sir R. Thompson, Dennis J. Duncanson, của Phi-Luật-Tân, (55)... Ông mất v́ bệnh tại miền Nam nước Pháp tháng 8-1985, hết c̣n có thể trả lời, bạch hóa một số hồi kư và nghi vấn về vụ đảo-chánh và vai-tṛ của ông trong quá-khứ! * Từ năm 1962, nội bộ anh em và gia-đ́nh Ngô đ́nh Diệm đă có những dấu hiệu rạn nứt, có thể bất đồng về một số quyết định chính-trị. Ông tổng-thống bắt đầu hết thích hợp thời thế (như chọn người ḍng dơi, biết chắc gốc gác), vả lại ông quá nhân từ và tin người - dùng người do Pháp đào tạo hoặc quá khứ khả nghi, cuối cùng là v́ sống theo tinh thần Nho giáo quyền huynh thế phụ mà ông đă không ngăn cản những sai trái của ông anh tổng giám mục và vợ chồng ông em cố vấn có con trai nối dơi. Hai ông cố vấn có lúc hai đường lối và nhân sự có khi không hẳn như nhau, đưa đến việc nghi ngờ và xa lánh những người thân tin từ đầu như ông trung tá NV Châu, bs Trần Kim Tuyến. Cả hai ông cố vấn đă dùng người đầu thú, chiêu hồi rất gentlemen, phần lớn thu phục người, nhưng có khi bị phản (Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, v.v.). Ba năm trước đó, sau vụ đảo-chánh 11-11-1960, ông trung tá Châu là thư kư Ủy Ban Nhân dân Chống Đảo-Chánh, các sĩ quan trung thành lúc đó nhiều hơn là người có ư phản. Ba năm sau, t́nh h́nh chính-trị và nhân sự đă thay đổi nhiều. Những cán bộ của Ngô đ́nh Cẩn hiệu nghiệm ở miền Trung nhưng bớt ở Sài-G̣n v́ không c̣n đồng thuận có trước đó và ê-kíp thu hẹp hơn trước (56). Chế độ sau 9 năm cầm quyền, với nhân t́nh đảo điên, với những quá đà và chia rẽ nội bộ, thế nào ngày cuối cũng đến, dù có hay không vụ đảo-chánh 1-11-1963. Nhưng nếu đến với nhiều lá phiếu thật của dân và không phải xảy ra những vụ giết người hèn nhát (anh em Diệm Nhu đă bị trói tay), bất công (ông Ngô đ́nh Cẩn ra đầu thú, thù hận và chính-trị đă xử thay v́ công lư xử), th́ lịch-sử đă bước đi ngă khác! Tổng-thống Ngô đ́nh Diệm dù có một số khuyết điểm (tinh thần gia tộc mạnh, nghe nịnh hót, xa dân, ...) đă hành xử lúc b́nh sinh và rồi tuẫn tiết như một nhà Nho, chứng tỏ khí tiết của một người quốc-gia yêu nước chân thành, trong khi đối lập và những kẻ phản dân chủ chạy theo tiền và ngoại bang. Có thể lúc về nước năm 1954 ông được sự ủng hộ của ngoại bang, nhưng đă tỏ ra có tài điều khiển khiến kéo dài được 9 năm. Ông không thật sự thiên vị đạo Công giáo và nếu có chăng là do những người tâng công hoặc lạm dụng, cả TGM Ngô Đ́nh Thục anh ông. (Năm 1959, tổng-thống Diệm được giải Leadership Magsaysay $15,000 đô nhưng ông đă chuyển cho đức Đạt Lai Lạt Ma qua lănh sự ở New Delhi). Kết luận như ông Minh Vơ: “Tổng-thống Ngô đ́nh Diệm là một lănh tụ xứng đáng của miền Nam” (57). LM Cao Văn Luận lúc gần cuối đời đă phê phán như sau: “Sự thanh toán ông Diệm và chế độ ông Diệm phải chăng là một sai lầm tai hại cho đất nước Việt Nam. Những hỗn loạn chính-trị, những thất bại quân sự sau ngày 1-11-1963 đă trả lời cho câu hỏi đó” (58).

Cuộc đảo-chánh 1-11-1963 đă mở cửa cho cuộc chiến-tranh toàn diện, huynh đệ bị hy-sinh cho lư tưởng cường điệu của hai phe chiến-tranh lạnh, quốc-cộng trở nên lằn ranh hằn sâu lên tâm trí và thân xác con người Việt Nam cho đến hôm nay. Biến cố đó đă mở toang cho thú-tính tung hoành, cho thói tính vô-chính-phủ lên ngôi! Hậu quả này, nay đă rửa sạch, đă trả nợ xong chưa ? Một điều chắc chắn là thời gian 40 năm đă cắt nghĩa nhiều sự kiện, hành động, cũng như cho thấy bộ mặt thật của một số người (Nguyễn đ́nh Thuần, Phan Quang Đán, Bùi Diễm, TV Đôn, TT Đính, Đỗ Mậu (59), v.v.).

Một nhận xét khác, từ biến cố 1-11, từ khi có quân có súng có “OK” của quan thầy cả tự ư nhân danh Chính nghĩa, để làm loạn, đảo-chánh, chỉnh lư, biểu dương lực lượng - mà năm 1964 là năm trăm hoa đua nở nhất, nhiều người làm chính-trị mỗi lúc một đưa Chính nghĩa ra làm ngáo ộp. Và xuất cảng ra đến hải-ngoại từ sau 1975. Chính nghĩa vốn là cái cao quư, hệ trọng cho cả một dân tộc, đă bị con người ta hễ có chuyện là lôi ra. Trục trặc phe nhóm, cá nhân, buôn bán bảo hiểm, làm ăn không như ư, thế là lại lôi Chính nghĩa ra. Thế mà cũng có thể lôi kéo, quyên góp được tiền bạc của nhiều người - th́ cứ xem như là một cách chống Cộng hay chống nằm vùng, chao đảo hoặc để lương tâm được ... yên ổn! Dĩ nhiên có những lúc mà Chính nghĩa đă được xử dụng đúng chỗ trong hơn 28 năm qua - phần lớn toàn mạo danh, thậm xưng, làm bạc giả!

Trong bài này, hậu sinh chúng tôi trong việc t́m hiểu lịch-sử, chỉ nói đến sự phản trắc một cơ cấu dân chủ, hợp pháp, hợp hiến - tổng-thống Ngô đ́nh Diệm là người đại diện được dân cử. Hội đồng Cách-mạng cũng chỉ là một thiểu số của một cơ cấu là quân đội, hơn nữa các ủy viên đứng đầu phần lớn đă đi lính cho Pháp thời Pháp thuộc. C̣n Quân đội Việt Nam Cộng Hoà so với bộ đội miền Bắc nói chung anh hùng và nhiều bậc đáng kính hơn! Tai hại về lâu dài của vụ đảo-chánh phản bội, là đă làm yếu các chế độ sau đó v́ vẫn xây trên nền không-dân-chủ, và di hại hơn nữa v́ chứng đă thành bệnh khi ra đến hải-ngoại: năo trạng phản bội, chia rẽ, không tôn trọng dân chủ, cứ nh́n Văn Bút hải-ngoại, các cơ cấu cộng đồng Atlanta, Nam Cali và Bắc Cali đều chia làm 2 với thủ lănh khác nhau, rồi các cựu tù binh, tị nạn chính-trị, ngay cựu học sinh cũng thành nhiều hội mà danh xưng chỉ là một tṛ ... chơi chữ!

Bài học nếu có cho thế hệ tương lai theo tôi là hăy quên quá-khứ nhưng hăy công b́nh với lịch-sử xét xử công tội cố gắng khách quan. Chân lư và công lư phải là những mục đích cần có trong việc t́m cho ra những nguyên nhân của năo trạng tinh thần và chính-trị người Việt Nam đă khiến cho nước Việt và con người Việt phải như hôm nay, t́m cho ra sự thực từ những khúc mắc chính-trị, gián điệp, tuyên truyền, v.v. Và thoát khỏi tâm địa thời thuộc địa và cả tư duy hậu thuộc địa!

Tóm, tất cả người Việt chúng ta đều là nạn nhân của chính-trị nội bộ Hoa-Kỳ, của truyền thông và báo chí Hoa-Kỳ, của các cường quốc nói chung, của chiến-tranh lạnh, nhưng chúng ta cũng là nạn nhân chính chúng ta mà trong chúng ta kẻ nhiều tội nhất là những kẻ tự xưng là người của Mỹ, của Pháp, của Cộng sản quốc tế,...!

Montréal, 16-10-2003

Chú Thích:

1. Số tiền 3 triệu đồng Việt Nam tức 42,000 Mỹ kim do Lucien Conein đưa đến bộ Tổng Tham mưu cho các tướng đảo-chánh. X. Nguyên Vũ. Ngàn Năm Soi Mặt: tâm bút (Houston: Văn Hóa, 2002), tr. 114; Đỗ Mậu. Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Mission Hills CA: Quê Hương, tb 1987), tr. 816; v.v…
2. Hội đồng Quân nhân Cách-mạng chỉ thành lập từ ngày 3-11-1963.
3. Cao Văn Luận. Bên Gịng Lịch-Sử 1940-1965 (Sài-G̣n: Trí Dũng, 1972; Sống Mới tái bản, s.d.), tr. 256.
4. Phạm Kim Vinh. Việt Nam Tự Do Từ Ngô Đ́nh Diệm Đến Lưu Vong. Tủ Sách PKV, 1987.
5. Trần Văn Đôn. Việt Nam Nhân-Chứng (Los Alamitos CA: Xuân Thu, 198?), tr. 249.
6. Tôn Thất Đính. 20 Năm Binh Nghiệp, tức Nghĩa Biển T́nh Sông (San Jose CA: TB Chánh Đạo, 1998), tr. 455.
7. Đỗ Mậu. Sđd, tr. 789.
8. Trần Văn Đôn. Sđd, tr. 250.
9. Trần Văn Đôn. Sđd, tr. 238.
10. Trần Văn Đôn kể Nhung đă khoe với con trai ông con dao găm lịch-sử (Sđd, tr. 236-8).
11. Trần Văn Đôn. Sđd, tr. 236. Ngô Đ́nh Châu xác nhận điều này trong Những Ngày Cuối Cùng Của Đệ Nhất Cộng Ḥa Việt Nam (s.l.: Holly Graphics, 1999), tr. 19.
12. Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức. Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm (San José CA: Quang Vinh, Kim Loan & Quang Hieu, 1994), tr. 532.
13. Ngô Đ́nh Châu. Sđd, tr. 41. Ông Ngô Đ́nh Châu đă hỏi trung sĩ trưởng chiến xa M-113 chở anh em tổng-thống Diệm.
14. Diễn Đàn Phụ Nữ, 148, 1996, tr. 59.
15. Nguyễn Hữu Duệ. Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng-Thống Ngô đ́nh Diệm (Tác-giả xuất-bản, CA 2003), tr. 170-171.
16. Huỳnh Văn Lang. Nhân Chứng Một Chế Độ (Tác-giả xuất-bản, 2000), tập 3, tr. 256-8.
17. Tập 2, tr. 70. Lại có tin ông DV Minh không nộp đủ, giấu đi một thùng phuy vàng (X. Nguyên Vũ. NNSM, Sđd, tr. 13).
18. Nguyễn Hữu Duệ. Sđd, tr. 74 & 78. Ông Quan trước khi chết đă xin trở lại đạo Công giáo do TGM Nguyễn Văn B́nh rửa tội, điều ông muốbn từ trước đảo-chánh nhưng không làm v́ sợ hiểu lầm hoặc giống những người khác!
19. Tr. 258. Nguyễn Kỳ Phong dịch, Vietnam Bibliography ở Centreville VA xuất-bản, 2003. Nguyên bản tiếng Anh xuất-bản năm 1985. Trong Bốn Mươi Năm Văn-Học Chiến-tranh (Đại Nam, 1997, tr. 140), chúng tôi có trách là các tướng sang Hoa-Kỳ viết report và study xuất-bản hạn chế cho bộ Quốc pḥng Mỹ mà quên đồng bào người Việt, nay có bản dịch này nằm trong số những tài liệu đó.
20. Trong nước cũng làm một cuộc kỷ niệm 40 năm “cách-mạng 1-11-1963 thành công”, Nguyễn Đắc Xuân làm một cuộc “tham quan” dinh Gia Long và nhân đó tiết lộ tướng Dương Văn Minh đă “nạt nộ tướng Đôn “André! Giờ này mà anh c̣n muốn phản tôi hả? Nhung đưa súng đây”. Tướng Đôn sợ quá muốn xỉu luôn! “ (Bốn Mươi Năm Nh́n Lại, tuyển tập 1963-2003. Garden Grove CA: Giao Điểm, 2003). Chuyện tướng Đôn chiều ngày 1-11 điện thoại với tổng-thống Diệm đă có người nói đến, nhưng việc ttướng Minh giựt điện thoại và câu nói “lịch-sử” trên th́ chưa, chúng tôi ghi lại với dè dặt v́ chưa biết! Xuân kể theo lời KTS Nguyễn Hữu Đống mà theo ông là “người đại diện dân sự độc nhất có mặt bên cạnh tướng DV Minh lúc ấy”(?).
21. Anne Blair. Lodge in Vietnam. New Haven: Yale University Press, 1995, tr. 190.
22. Bùi Tín. “Nhân vật lịch-sử Ngô đ́nh Diệm và hậu quả cuộc đảo-chánh 1-11, 63”, Ngày Nay, 513, 15-10-2003, tr. A5 & B6.
23. Theo cuộn băng 37 tiếng đồng hồ tàng trữ ở JFK Library (Boston) được giải mật ngày 24-11-1998.
24. X. David Antonel et al. Les Complots de la CIA. Paris: Stock, 1976 (Chương “Un suicide accidentel” - lấy lại lời tuyên bố với báo chí của tướng Trần Tử Oai, ủy viên báo chí, nghe theo lời dặn của tướng Trần Văn Đôn).
25. Trích theo F X Winters. Sđd, tr. 183. Trong khi đó, tờ New York Herald Tribune th́ bênh vực chế độ Ngô đ́nh Diệm!
26. Chính Đạo. Tôn Giáo Và Chính-Trị: Phật Giáo, 1963-1967. Houston: Văn Hóa, 1994, trích theo bản cập nhật 2003 (phần C. Thay đổi đại sứ Mỹ).
27. X. Marguerite Higgins. Our Vietnam Nightmare, 1965; Ellen J. Hammer . A Death in November: America in Vietnam, 1963. 1987; Nguyễn Ngọc Tân. “The Miracle of Vietnam: the Establishment and Consolidation of Ngo Đinh Diem 's Regime, 1954-1959”. Ph. D. Thesis, Monash University.
28. X. Nghiên cứu của chúng tôi về các vận động chính-trị của người Việt hải-ngoại 1975-2005, sẽ công bố hoặc xuất-bản.
29. Bách Khoa SG, 1969, đăng lại trong hồi kư Hơn Nửa Đời Hư.
30. Bà Tùng Long. Hồi-Kư (TpHCM: NXB Trẻ, 2003), tr. 221.
31. Nguyễn Văn Châu ghi nhận trong Ngô Đ́nh Diệm Và Nổ Lực Hoà B́nh Dang Dở (Los Alamitos CA: Xuân Thu, 1989), tr. 95.
32. “Những sai lầm của Đệ Nhất Cộng Ḥa”. Thời Báo Toronto 202, 11-11-1993; 203, 18-11-1993 (cùng đăng trên một số báo khác). Ông Khôi tư lệnh Lữ đoàn Pḥng vệ Tổng-thống phủ lúc xảy ra đảo-chánh 1-11, trong bài viết ông tỏ ra mặc cảm, ghen tương với nhiều người khác lên lon lên chức hơn ông và ông muốn đính chính chối từ liên hệ của ông với chế độ. Ông phê b́nh ông NV Châu đem đảng Cần lao vào quân đội làm mất hiệu lực và làm mất miền Nam (?). Phê phán ngây thơ v́ chiến-tranh một sống một c̣n với guồng máy cộng-sản, đáng ra c̣n phải đi xa hơn, nếu không triệt để tổ chức lại quân đội quốc gia th́ cũng phải cô lập hoặc cho làm bàn giấy tất cả những phần tử do Pháp đào luyện hoặc quá-khứ khả nghi (MH Xuân, TT Đính, DV Minh, Đỗ Mậu, ...) là chuyện khả thể ngay cả trong các xă hội dân chủ như Hoa-Kỳ, Pháp.
33. Sđd, tr. 97.
34. X. Vĩnh Phúc. Những Huyền Thoại Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đ́nh Diệm. (Westminter CA: Văn Nghệ, 1998), tr. 337.

35. Chính Đạo. “Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975” (chưa xuất-bản, bản Internet ở trang giaodiem.com).
36. Đó cũng là nội dung của cả chương XVI, sđd.
37. Một người nghiên cứu trẻ, Nguyễn Kỳ Phong, tác-giả bộ Người Mỹ và Chiến-tranh Việt Nam (Centreville VA: Vietnam Bibliography, 2001) từng bị chính trị gia Nhị Lang phê phán quá dựa theo tài liệu của Mỹ. X. “Trở lại vụ án 47 năm trước: ai giết tướng Tŕnh Minh Thế?”. Văn Nghệ Tiền Phong, 636, 16-7-2002, tr. 24+.
38. Chính Đạo. Tôn Giáo Và Chính-Trị: Phật Giáo, 1963-1967. Houston: Văn Hóa, 1994, trích theo bản cập nhật 2003.
39. Hải Triều Âm, 2, 30-4-1964, tr. 5. Trích lại từ Lê Cung. “T́m hiểu những sự kiện đầu tiên trong phong trào Phật giáo miền Nam 1963”. Nghiên Cứu Lịch-Sử, 4, 1994, tr. 10. Chú thêm: Vụ tṛ Ơn bị giết khiến học sinh biểu t́nh và làm rớt chính phủ thời đó!
40. Ngày Nay, 374, 15-9-1997, tr. A5-6.
41. Đă đăng trên trang Internet Vietpage.com ngày 6-9-2003.
42. ST. “Dân-tộc Việt Nam hai lần bị lường gạt”. Bên Kia Bờ Đại Dương, 45, 6-2002.
43. Dĩ nhiên bị một số người bênh nhóm tướng lănh “cách-mạng”, chế độ sau đó và bênh nhóm Phật giáo bạo động, chỉ trích. Nhưng khác Vĩnh Phúc, hai tác-giả này đă phỏng vấn hoặc khiến một số người trong cuộc phải lên tiếng, cả sau khi đă xuất-bản như với trung tá Dương Hiếu Nghĩa (X. Diễn Đàn Phụ Nữ 148, 1996, tr. 59).
44. The Pentagon Papers: as published by the New York times, The Pentagon history was obtained by Neil Sheehan. Written by Neil Sheehan [and others]. New York, Quadrangle Books [1971]. 810 p.
45. Report of the UN Fact Finding Mission to South Vietnam. Washington D.C.: Government Printing Office, 1964. 254 tr.
46. Bđd. Thời Báo Toronto 202, 11-11-1993; 203, 18-11-1993.
47. Methuen MA: Lê Hồng, 2001. Chúng tôi đă có lời viết Tựa cho tập Hồi kư này.
48. Thí dụ không tin lời học giả Trần Trọng Kim (VNSL) mà tin báo cáo của Khâm sứ Pháp về việc đào mă lănh tụ Cần Vương Phan Đ́nh Phùng. Chính Đạo. Sđd, chú 51. Để viết tiểu sử Ngô Đ́nh Diệm, theo lời ông Nguyên Vũ, đă “sử dụng cơ bản là tập tiểu sử chính phủ Diệm do cơ quan an ninh Pháp thành lập ngày 5/7/1954 hiện vẫn c̣n chưa giải mật” (HCM con người & huyền thoại, tập III: 1947-1969).
49. Nguyên Vũ. NNSM. Sđd, tr. 135.
50. Bùi Tín. Bđd. Ngày Nay, tr. A5.
51. X. Trương Phú Thứ. Văn Nghệ Tiền-Phong, 643, 1-11-2002, tr. 8.
52. Hoặc nói rằng ông Châu về dự lễ mở tay linh mục của người em ông (X. Nguyễn Hữu Duệ, Sđd, tr. 97) - thật ra đă xảy ra năm 1960.
53. X. Nghiên Cứu Lịch-Sử, 48, 3-1963, tr. 6.
54. Trong số có ông Đỗ Mậu (X. Trần Văn Đôn. Sđd, tr. 203), nhưng ông Mậu không nói đến trong hồi kư của ông. Người duy nhất trong số đó c̣n sống là ông NN Khôi.
55. Ghi lại vài tài liệu c̣n nhớ: Dennis J. Duncanson: Lessons of Vietnam: three interpretive essays, 1971; Indo-China, the conflict analysed, Conflict Studies 39, 1973, v.v.; Robert Thompson: Defeating Communist insurgency: experiences from Malaya and Vietnam. 1966; “Vietnam: the human cost of communism”. Worldview Nov 1972; No exit from Vietnam. 1969; Peace is not at hand. 1974; v.v. Ngoài ra, nói đến tài liệu, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ c̣n giữ cuộn băng ông trả lời phỏng vấn của nhà báo Neil Sheehan năm 1974 (X. Prof. Nguyen Van Chau, Oct. 24, 1974, my study, Wash., D.C. [sound recording]. 1974; Call no: RYB 6636-6637 (Recording made or collected by Neil Sheehan in preparation for the writing of his book A bright shining lie: John Paul Vann and America in Vietnam).
56. Nhà văn Nguyên Sa trong Hồi Kư (Irvine CA: Đời, 1998) đă viết lại sự hữu hiệu của công an miền Trung ở Sài-G̣n (tr. 271+).
57. Minh Vơ. Sđd, tr. 286.
58. Cao Văn Luận. Bên Gịng Lịch-Sử Việt Nam, 1940-1975 (Sacramento, CA: Tantu Research, c1983), tr. 6.
59. Ông Tôn Thất Đính và Đỗ Mậu là hai người bị phê phán nặng nề nhất, riêng ông Đính ít ra đă có những lời “thú lỗi” dù tập thể ở đoạn cuối cuốn hồi kư: “cuộc hành quân 1-11-63 không phải là một thành công mà chính là một thảm bại lớn lao đối với lịch-sử” (Sđd, tr. 455). Hăy so với đa ngôn nhưng lời rỗng của Đỗ Mậu: “ư nghĩa thực sự của ngày 1-11-63 là giải thoát. Trên mặt lịch-sử, nó chấm dứt những bế tắc của thế và thời để khai mở một gịng sinh mệnh mới; trên mặt dân-tộc, nó chấm dứt một giai đoạn tŕ trệ và đen tối để dân-tộc lại trở về với chức năng của chủ nhân đất nước (!)... “ (Sđd, tr. 791).